intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội- Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Tuhai999 Tuhai999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

44
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá đúng những ưu điểm và hạn chế của công tác QLNN về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì cùng với những nguyên nhân của thành công và hạn chế, luận văn xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ vững trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội- Thực trạng và giải pháp

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN HỌC SƠN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ – THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 8 34 04 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ TRỌNG HÁCH HÀ NỘI, 2018
  2. Công trình được hoàn thành tại HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ TRỌNG HÁCH Phản biện 1: PGS.TS. Đặng Khắc Ánh Phản biện 2: TS. Tạ Ngọc Hải Luận văn đã được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại Học viện Hành chính Quốc gia 18 giờ 00 ngày 04 tháng 12 năm 2018. Có thể tìm hiểu Luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự bình yên của đất nước, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch và các loại tội phạm khác, giữ gìn TTATXH, bảo vệ vững chắc những thành quả cách mạng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới là một nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. TTATXH luôn là vấn đề hệ trọng và là sự sống còn của một Nhà nước, một chế độ chính trị nhất định. Đối với chế độ XHCN và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng luôn coi TTATXH là vấn đề hệ trọng, là nền tảng để xây dựng và phát triển đất nước. Trong mỗi giai đoạn của cách mạng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đảm bảo TTATXH là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, từng bước xây dựng, hoàn thiện Pháp luật về bảo vệ TTATXH. Quản lý nhà nước về AN,TT là một bộ phận quan trọng của QLNN luôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt, tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội và đặc biệt là sự tồn vong của chế độ chính trị. Là một phạm trù hết sức rộng lớn. Mục tiêu quản lý nhà nước về TTATXH ở nước ta là nhằm bảo vệ vững chắc sự ổn định về mọi mặt của đất nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Gần đây, tình hình quốc tế có những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường. Chiến tranh, bạo lực nổ ra ở Ucraina, Iraq, Palestine, đảo chính ở Thái Lan, khủng bố ở Tân Cương - Trung Quốc, dịch bệnh Ebola đang bùng phát, hoành hành tại các quốc gia Tây Phi, đặc biệt là việc Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, là hành động vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, đã có những ảnh hưởng, tác động sâu sắc đến tình hình an ninh của Việt Nam. Đây cũng là những vấn đề mới phát sinh, đặt ra cho hoạt động quản lý nhà nước nói chung, trong đó có quản lý nhà nước về TTATXH nói riêng. Trong mỗi giai đoạn của cách mạng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đảm bảo TTATXH là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, từng bước xây dựng, hoàn thiện Pháp luật về bảo vệ an ninh trật tự. Thanh Trì là huyện phía Nam thành phố Hà Nội, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như giao thương với các địa phương khác. Thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước cũng như công cuộc xây dựng Thủ đô, địa bàn huyện không tránh khỏi chịu sự ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của các địa bàn khác; nhất là, là địa bàn nông thôn Thanh Trì được thừa hưởng sự phát triển của Thủ đô Hà Nội, các khu, cụm, điểm công nghiệp có điều kiện phát triển mạnh; do đặc thù của huyện, trong những năm qua đã và đang được đô thị hóa với tốc độ nhanh. Mặt khác, do tác động của mặt trái cơ chế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo trong các tầng lớp nhân dân diễn ra nhanh chóng và rõ rệt, người tỉnh ngoài về huyện cư trú, tạm trú, làm việc, lao động, học tập ngày càng đông, các cơ sở kinh doanh dịch vụ, nhạy cảm về TTATXH ngày càng nhiều. Hơn nữa, hoạt động của tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, liều lĩnh... tình hình an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo có nhiều tiềm ẩn phức tạp đã tác động không nhỏ đến công tác đảm bảo TTATXH trên địa bàn huyện. 1
  4. Thực tế những năm gần đây cho thấy tình hình TTATXH an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì có nhiều phức tạp, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống chính trị - xã hội tại địa phương. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác đảm bảo TTATXH tại Thủ đô Hà Nội nói chung và tại địa bàn huyện Thanh Trì nói riêng, Công an huyện Thanh Trì những năm qua đã chủ động tập trung lực lượng, triển khai đồng bộ các biện pháp công tác đảm bảo TTATXH trên địa bàn huyện và đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn còn có những thiếu sót, bộc lộ những bất cập đã làm hạn chế chất lượng cũng như hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện nên khi thực hiện các biện pháp công tác còn đơn thuần, mang nặng tính chất hành chính, do đó công tác xử lý chưa kiên quyết, triệt để, công minh với những trường hợp vi phạm pháp luật trên địa bàn huyện. Mặt khác, Công an huyện Thanh Trì cũng chưa huy động được đông đảo và phát huy tối đa vai trò của quần chúng nhân dân trong huyện tham gia công tác đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn TTATXH, mối quan hệ phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan đến trật tự an ninh chưa được tiến hành một cách đồng bộ nên đã làm hạn chế hiệu quả, hiệu lực Quản lý Nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì. Với những đặc điểm chung của đất nước, tình hình cụ thể tại huyện Thanh Trì, đề tài được tiến hành nghiên cứu, nhằm tổng kết, khắc phục những khuyết điểm, phát huy những ưu điểm, tìm ra những giải pháp, đóng góp kinh nghiệm để tăng cường công tác quản lý, giữ gìn TTATXH của cán bộ chiến sĩ công an huyện Thanh Trì. Với lý do đó, học viên lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội- Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý công. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đề tài luận văn Cho đến nay, lý luận Quản lý Nhà nước về TTATXH đã được đề cập đến nhiều trong các giáo trình dành cho chuyên ngành pháp luật như: - “ Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATXH trong hoạt động của cảnh sát nhân dân ở nước ta hiện nay” – Chủ biên: Lê Thế Tiệm – Học viện chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (1996) - “Quản lý nhà nước về an ninh trật tự” - Chủ biên Trần Viết Long và tập thể tác giả Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân, Hà Nội – (2007) [01]. - “Một số vấn đề lí luận cơ bản quản lý nhà nước về An ninh trật tự” - Chủ biên Lê Ngọc Thanh – Đại Học Cảnh Sát Nhân dân, Hà Nội – (1996) [02]. - “Một số lí luận cơ bản về hoạt động nghiệp vụ của lực lượng cảnh sát quản lý hành chính” - Chủ biên TS Vũ Văn Hiền – Học Viện Cảnh Sát Nhân dân, Hà Nội – (2003) [03]. - “Kỹ năng giao tiếp của cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội” - Chủ biên PGS. TS Đinh Trọng Hoàn – NXB Công An Nhân Dân – (2009) [04]. - “Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội” - Chỉ đạo biên soạn Đại tá Phạm Văn Đức – NXB Công An Nhân dân, Hà Nội – (1998) [05]. - “An ninh trật tự vùng nông thôn tỉnh Phú Yên – thực trạng và giải pháp”, luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Anh Tuấn – (1999) [06]. - “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về TTATXH trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại địa bàn tỉnh Hưng Yên”, luận văn Thạc sĩ của Lê Văn Tuyến (2006) [07]. 2
  5. - “Giải pháp đảm bảo TTATXH tại các khu công nghiệp tập trung ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong tình hình hiện nay”, luận văn Thạc sĩ của Thiều Quang Hảo (2006) [08]. - “Công tác đảm bảo TTATXH ở địa bàn dân tộc Thái, tỉnh Nghệ An trong tình hình hiện nay”, luận văn Thạc sĩ của Thái Đàm Việt (2013) [09]. - “Công tác đảm bảo TTATXH trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội trong tình hình hiện nay”, luận văn Thạc sĩ của Hoàng Hải Long (2012) [10]. - “Công tác đảm bảo TTATXH trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình hiện nay”, luận văn Thạc sĩ của Phạm Thị Thu Hiền (2011) [11]. - “Giáo trình quản lý Nhà nước về an ninh trật tự” của Học viện Cảnh sát nhân dân (2016). Các công trình khoa học trên đi sâu nghiên cứu công tác đảm bảo TTATXH ở các địa bàn khác; còn trên địa bàn huyện Thanh Trì về vấn đề này có 01 công trình nghiên cứu đề tài cấp Thành phố “Những giải pháp xây dựng xã, thị trấn an toàn về an ninh nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Trì trong điều kiện hiện nay” từ năm 2008 do tác giả Nguyễn Duy Ngọc làm chủ nhiệm, nguyên Trưởng Công an huyện Thanh Trì (hiện là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát BCA) - Công trình nghiên cứu này chỉ đề cập đến khía cạnh của công tác đảm bảo TTATXH đó là an ninh nông thôn trên địa bàn huyện, hơn nữa thời điểm nghiên cứu là vào năm 2008, đến nay một số nội dung không còn phù hợp với tình hình thực tiễn trên địa bàn. Luận văn Thạc sỹ “Công tác đảm bảo an ninh nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội trong tình hình hiện nay” của ThS Võ Hồng Trường, Trung tá, Đồn trưởng Đồn Công an Cầu Bươu năm 2014 – Luận văn này nghiên cứu chủ yếu về thực trạng công tác đảm bảo an ninh nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Trì, đánh giá kết quả, hạn chế, thiếu sót, nguyên nhân, đưa ra dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn huyện Thanh Trì, chưa nghiên cứu sâu vấn đề Quản lý nhà nước nói chung và Quản lý nhà nước về TTATXH nói riêng. Qua nghiên cứu cho thấy, vấn đề tác giả chọn làm đề tài luận văn Thạc sĩ không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào khác. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá đúng những ưu điểm và hạn chế của công tác QLNN về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì cùng với những nguyên nhân của thành công và hạn chế, luận văn xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ vững TTATXH tại địa phương. 3.2 Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, nội dung Quản lý nhà nước về TTATXH - Phân tích đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý nhà nước về TTATXH tại huyện Thanh Trì. - Rút ra những ưu diểm, khuyết điểm, xác định rõ nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, thiếu xót đang đặt ra đối với công tác này trên địa bàn thị trấn Văn Điển. - Qua việc phân tích thực trạng, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác Quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
  6. 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động Quản lý nhà nước của cán bộ, chiến sĩ về TTATXH theo chức năng của lực lượng Công an huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi về thực tiễn Luận văn tập trung nghiên cứu công tác QLNN trên lĩnh vực đảm bảo, giữ gìn TTATXH của lực lượng công an nhân dân trên địa bàn huyện Thanh Trì trong thời gian từ 2015 - 2018. 4.3. Phạm vi về chủ thể nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quản lý nhà nước và TTATXH. 5. Phương pháp lí luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê - nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối và quan điểm của Đảng và Nhà nước về TTATXH và công tác quản lý nhà nước về TTATXH. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sủ dụng các phương pháp cụ thể sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp. 6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và rút ra những đánh giá, nhận xét thực tiễn hoạt động của lực lượng công an trong quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì. Luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì. - Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong công tác thực tiễn của Công an huyện Thanh Trì. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục số liệu, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về TTATXH. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì, Hà Nội. 4
  7. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI 1.1. Những khái niệm cơ bản 1.1.1. Trật tự an toàn xã hội Có nhiều quan điểm về “trật tự an toàn xã hội” của các tác giả khác nhau, tuy nhiên các quan điểm này không tránh khỏi những hạn chế khi xác định nội hàm, khách thể và phương pháp điều chỉnh. Để có khái niệm TTATXH một cách chính xác, có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn, xuất phát từ 3 căn cứ sau: Thứ nhất, trật tự an toàn xã hội là sản phẩm tất yếu của xã hội có Nhà nước. Trong tất cả các kiểu Nhà nước đều hình thành và tồn tại một trật tự an toàn xã hội của mình nhằm bảo vệ Nhà nước và xã hội đó. Vì vậy, khái niệm trật tự an toàn xã hội phải phản ánh được bản chất của Nhà nước của dân, do dân và vì dân mà chúng ta đang xây dựng. Thứ hai, TTATXH còn phải được quan niệm như là kết quả của trạng thái xã hội ổn định vững vàng của Nhà nước và hệ thống chính trị, trong đó quyền của công dân được bảo vệ và tôn trọng. Thứ ba, trật tự an toàn xã hội được điều chỉnh bởi một hệ thống các quy phạm pháp luật, đạo đức, chính trị và bằng phương pháp giáo dục thuyết phục, cưỡng chế Nhà nước, trong đó quy phạm pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành trật tự đó. Tác giả thống nhất khái niệm thuật ngữ an toàn xã hội theo giáo trình Quản lý Nhà nước về An ninh – Quốc phòng của Học viện Hành chính Quốc gia năm 2006 như sau: Trật tự an toàn xã hội là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật của Nhà nước và các chuẩn mực đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng của mỗi quốc gia, nhờ đó mọi công dân sống và lao động có tổ chức, có kỉ cương, mọi lợi ích chính đáng được đảm bảo không bị xâm hại. Đấu tranh giữ gìn trật tự an toàn xã hội bao gồm: giữ gìn trật tự nơi công cộng; đảm bảo trật tự an toàn giao thông; phòng ngừa tai nạn; bài trừ tệ nạn xã hội; bảo vệ môi trường... Bảo vệ trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Trong đó lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt và có chức năng tham mưu, hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự công cộng, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, tham gia phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường. 1.1.2. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội 1.1.2.1. Các khái niệm - Quản lý Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước. Vấn đề mà chúng ta quan tâm nghiên cứu là quản lý xã hội (quản lý nhà nước, quản lý của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội….). - Quản lý xuất hiện ở bất kỳ đâu, khi nào nếu có ở đó và lúc đó có hoạt động chung của con người. - Quản lý là sự tác động có mục đích của các chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý. 5
  8. - Mục đích và nhiệm vụ của quản lý và điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một hoạt động chung thống nhất của cả tập thể và hướng hoạt động chung đó theo những phương hướng thống nhất, nhằm đạt được mục đích đã định trước. - Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy. - Quản lý nhà nước Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Nói cách khác, quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Như vậy, tất cả các cơ quan nhà nước đều thực hiện chức năng quản lý nhà nước. - Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội: Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội được Nhà nước ủy quyền, được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật nhằm thực hiện trong cuộc sống hàng ngày các chức năng của nhà nước trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội. Mục đích cuối cùng của quản lý nhà nước về an ninh trật tự nói chung là bảo vệ vững chắc nền an ninh trật tự của Tổ quốc, bảo đảm sự ổn định và bình yên của xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Quản lý về trật tự an toàn xã hội giành ưu tiên cho mục tiêu đảm bảo cho các quá trình xã hội, các hoạt động trong đời sống xã hội diễn ra một cách bình thường, an toàn... trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy tắc của lối sống, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Giữa an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. An ninh quốc gia được bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ tốt trật tự an toàn xã hội. Ngược lại, trật tự an toàn xã hội được giữ vững sẽ góp phần tích cực vào việc bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, tăng cường lòng tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cần nhấn mạnh rằng: Nếu tình hình trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp, nghiêm trọng kéo dài, không kiểm soát được sẽ gây ảnh hưởng rất xấu, thậm chí chuyển hóa thành vấn đề chống đối chính trị, điều đó rõ ràng tác động tiêu cực đến an ninh quốc gia. 1.1.2.2 Đặc điểm của QLNN về TTATXH Về thực chất, quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội bao gồm những đặc điểm chính yếu sau: Là sự tác động có tổ chức, có hệ thống và bằng pháp luật vào tất cả những yếu tố cấu thành nên trật tự an toàn xã hội nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả các quan hệ xã hội, tạo nên những cơ sở vững chắc đảm bảo cho một nền trật tự an toàn xã hội theo ý chí của nhà nước. Là một dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người liên quan đến trật tự an toàn xã hội. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội thường xuyên khai thác, kế thừa, sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà kỹ thuật điện, điện tử và khoa học công nghệ, thông tin viễn thông phổ biến …. Từ đó đòi hỏi các cơ quan QLNN cần có kế hoạch đầu tư, nâng cấp các trang thiết bị kỹ thuật và ứng dụng nhanh nhất thành tựu của các ngành khoa học vào QLNN về TTATXH. 1.2. Nội dung và vai trò quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội 6
  9. 1.2.1. Nội dung 1.2.1.1 Hoạch định chính sách chiến lược ban hành chương trình mục tiêu về đảm bảo TTATXH. Chiến lược, chính sách, kế hoạch, mục tiêu đảm bảo TTATXH luôn luôn phải đi đúng hướng, nhất là thể hiện sự nhất quán với chủ trương, đường lối, tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ TTATXH. Mục tiêu QLNN về TTATXH bao gồm mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể trong từng lĩnh vực như sau: Mục tiêu chung của QLNN về TTATXH trong thời kỳ hiện nay là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, tạo thế chủ động chiến lược, đẩy lùi, ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội và môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi phục vụ đắc lực chiến lược phát triển theo định hướng XHCN, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu cụ thể đó là tạo được sự chuyển biến trong công tác xây dựng Đảng, Nhà nước, ngăn chặn từng bước đẩy lùi suy thoái chính trị đạo đức, lối sống quan liêu, tham nhũng lãng phí trong một số bộ phận Đảng viên, củng cố đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Tập trung hiệu quả việc tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, đưa nền kinh tế đất nước ra khỏi tình trạng khó khăn. Phòng ngừa, ngăn chặn các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng, không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Xây dựng lực lượng vũ trang các mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và chiến đấu cao. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên khu vực và thế giới. Trên cơ sở những mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, có thể đưa ra mục tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực như sau: Về chính trị: Đảm bảo giữ vững ổn định chính trị xã hội, xác định, củng cố phát huy vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, tăng cường hiệu quả QLNN đối với quản lý xã hội, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân. Về kinh tế - xã hội: Bảo vệ đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần bảo vệ nguồn lực của nền kinh tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, đảm bảo công bằng xã hội đi đôi với tăng trưởng kinh tế của đất nước. Về tư tưởng – văn hóa: Bảo vệ sự phát triển đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng HCM, kế thừa phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa, văn hóa nhân loại phù hợp với văn hóa Việt Nam, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam trên cơ sở đoàn kết các cộng đồng dân tộc. Về trật tự an toàn xã hội: Ngăn chặn, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, tập trung phòng, chống có hiệu quả các loại tội phạm nguy hiểm gây hậu quả tác hại lợi, gây bức xúc trong xã hội, bài trừ các tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn nghiện hút, cờ bạc, mại dâm, tệ nạn quan liêu, tham nhũng; ngăn ngừa, làm giảm các tai nạn; duy trì trật tự, kỷ cương, xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh, nghiêm minh trong đời sống xã hội. 1.2.1.2 Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về TTATXH Hiện nay, khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực TTATXH được Quốc hội, Chính phủ và Thanh tra chính phủ ban hành và hướng dẫn đầy đủ. Nhiệm vụ của các cơ quan hành chính Nhà nước, cá nhân người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước phải thể chế hóa các luật, nghị định của Chính phủ để triển khai trong ngành và lĩnh vực mình quản lý. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác 7
  10. QLNN về TTATXH cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đồng thời thể hiện vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân người có thẩm quyển trong giải quyết các vấn đề TTATXH. Trong thực tiễn các hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường có nhiều vấn đề mới nảy sinh, một số chính sách quy định khi được ban hành không theo kịp diễn biến của quá trình đổi mới, một số quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cấp các ngành thiếu chuẩn xác, còn bất cập, .... đã dẫn đến việc TTATXH có khả năng tăng nhanh về số lượng, cũng như phức tạp về tính chất. Tuy nhiên, pháp luật về TTATXH được ban hành khá đầy đủ, nhưng nhiều văn bản thiếu đồng bộ, bất cập hoặc đáp ứng được yêu cầu trong thực tiễn..... Việc thường xuyên nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện tổ chức các văn bản TTATXH là cần thiết và quan trọng, nhằm đánh giá thực trạng, hạn chế , khó khăn, vướng mắc trong quản lý, triển khai pháp luật về TTATXH, kiến nghị sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật công tác QLNN về TTATXH, tạo ra sự chuyển biến tích cực, hạn chế các vụ việc TTATXH nổi cộm, phức tạp kéo dài. 1.2.1.3 Tổ chức bộ máy và bố trí nguồn lực quản lý nhà nước về TTATXH Năm 2018 là năm thứ ba của nhiệm kỳ khóa XII - năm bản lề có ý nghĩa quyết định thắng lợi của việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi mới để phát triển nhanh và bền vững. Bối cảnh tình hình đó đặt ra cho lực lượng CAND nhiệm vụ rất nặng nề, đòi hỏi phải nỗ lực cao hơn nữa, tiếp tục phấn đấu hoàn thành hơn nữa các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, chỉ tiêu đã đề ra. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến rất nhiều đối tượng và tổ chức xã hội rất tinh vi và phức tạp. Vì vậy, cần phải thường xuyên kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN về TTATXH. Để có được điều này thì một trong những giải pháp quan trọng là việc thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho CBCC làm công tác QLNN về TTATXH. Ngoài phổ biến các quy định được sửa đổi, bổ sung hay mới ban hành; còn cung cấp kiến thức, trao đổi kỹ năng, nghiệp vụ trong công tác xử lý về TTATXH trong thực thi công vụ; tạo điều kiện cho đội ngũ, cán bộ công chức có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm và phương thức giải quyết. QLNN về TTATXH thông qua thực tế quá trình thực hiện nhiệm vụ tại cơ quan, đơn vị và địa phương. Công an phải là lực lượng nòng cốt, phối hợp với các ban, bộ, ngành, đoàn thể bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, tạo sự chuyển biến rõ nét về TTATXH, bảo đảm an toàn cho cuộc sống của nhân dân, góp phần tích cực bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình, an ninh, an toàn để đất nước phát triển nhanh và bền vững... Nâng cao chất lượng công tác dự báo, phân tích tình hình; phát hiện từ sớm các mối đe dọa đến lợi ích, an ninh quốc gia, TTATXH để chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp về chủ trương, giải pháp bảo đảm ANTT; kiên quyết không để bị động, bất ngờ. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, triển khai các biện pháp bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, TTATXH, góp phần thực hiện hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng, Nhà nước. 1.2.1.4 Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lí vi phạm pháp luật Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn quan trọng trong chu trình nhà nước về TTATXH, là phương thức đảm bảo pháp chế XHCN, tăng cường kỷ luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Thanh tra, kiểm tra TTATXH là một mắt xích, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình QLNN và TTATXH. Qua thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết TTATXH sẽ nâng cao trách nhiệm quản lý của các cấp các ngành đồng thời nắm bắt được tình hình trật tự ATXH của từng địa phương và kết quả giải quyết ở cơ quan đơn vị đó. Qua đó, thấy được những bài học kinh nghiệm cũng như những vướng mắc thiếu sót trong việc thực hiện các chính sách pháp 8
  11. luật để hướng dẫn chỉ đạo sâu sắc hơn, hoặc đề nghị xử lý những người thiếu trách nhiệm xử lý những người không thực hiện đúng quy định của pháp luật. Trong công tác thanh kiểm tra về TTATXH phải thực hiện tốt việc phối hợp giữa công an với các ban ngành đoàn thể trên các lĩnh vực QLNN về TTATXH. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp Ủy Đảng, chính quyền đoàn thể, tổ chức kinh tế xã hội và quan hệ giữa các tổ chức này với lực lượng công an trong việc thực hiện quan hệ đấu tranh, ngăn ngừa hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội. Đồng thời đề cao vị trí, vai trò giám sát của HĐND, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp thông qua việc đóng góp ý kiến liên quan đến các hoạt động của quản lý TTATXH. Mặt khác, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về TTATXH thể hiện hoạt động điều hành khi giải quyết các vi phạm TTATXH của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã trực tiếp tác động lên các hành vi chủ thể vi phạm, làm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể khi xử lý vi phạm TTATXH. Đồng thời công tác QLNN về TTATXH đảm bảo tồn tại và sự ổn định chấp hành, giải quyết TTATXH phải tuân thủ nghiêm minh quy định của văn bản pháp luật, xử lý theo pháp luật, công min và đảm bảo công bằng cho đối tượng vi phạm TTATXH đảm bảo được các quyền lợi của các chủ thể liên quan, nhất là vi phạm TTATXH. 1.2.2. Vai trò Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội Quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh phải nhằm bảo đảm cho đất nước hòa bình, ổn định trên mọi lĩnh vực, “không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, mọi cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực phản động đối với nước ta. Các thế lực thù địch hiện nay đang thực hiện nhiều âm mưu, nhiều thủ đoạn nhằm kìm hãm sự phát triển của đất nước, phá hoại sự ổn định về chính trị, kinh tế, văn hóa,... Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng mọi sơ hở của ta hòng làm suy yếu nội bộ để “tự diễn biến”, tạo nên các tình huống phức tạp, bất ngờ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” làm mất ổn định chính trị, gây bạo loạn lật đổ hoặc bất ngờ tiến hành chiến tranh xâm lược. Ngoài ra, còn có vai trò to lớn là điều chỉnh, điều khiển các hoạt động xã hội và hành vi của công dân theo trật tự nhất định của nền trật tự xã hội chủ nghĩa đó là một nền trật tự của một xã hội mà nơi đó con người sống có kỷ cương, nền nếp, lành mạnh, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội là một biện pháp công tác cơ bản của lực lượng công an nhân dân để phòng ngừa tội phạm, hoạt động quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội có tác dụng tước bỏ điều kiện xóa bỏ cơ số tội phạm và phần tử xấu lợi dụng để hoạt động phạm pháp. 1.3. Những yếu tố tác động đến QLNN về TTATXH. 1.3.1. Về chính trị Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch, phương án bảo đảm trật tự, an toàn xã hội Chiến lược, chính sách, kế hoạch, phương án bảo vệ trật tự, an toàn xã hội thể hiện sự nhất quán với chủ trương, đường lối, tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Nội dung xây dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch, phương án bảo vệ trật tự, an toàn xã hội bao gồm: - Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược đảm bảo trật tự, an toàn xã hội là những định hướng tổng thể về mục tiêu dài hạn, cơ bản của đất nước hoặc của địa phương, các Bộ, ngành (trong đó ngành Công an giữ vai trò nòng cốt), gắn với việc huy động các nguồn lực và giải pháp cơ bản theo lộ trình trong bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là cơ sở để hoạch định chính sách, kế hoạch 9
  12. công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Các chiến lược này được điều chỉnh để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của tình hình an ninh trật tự thế giới, khu vực và trong nước. - Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách, các điều kiện cần thiết để đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược bảo vệ trật tự, an toàn xã hội cần xác định đối tượng thụ hưởng chính sách và đối tượng khuyến khích hoặc hạn chế; khi tổ chức thực hiện cần chú ý đến những yếu tố về thời điểm, lĩnh vực, khu vực, vùng, miền, địa phương và phải dự báo được những phản ứng của xã hội (nhất là những đối tượng thụ hưởng chính sách). - Xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án, chương trình quốc gia, phương án, kế hoạch, biện pháp nhằm cụ thể hóa và chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện các mục tiêu chiến lược đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. 1.3.2 Về pháp luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Đây là hình thức quan trọng nhất trong hoạt động của các chủ thể quản lý nhà nước về TTATXH. Các văn bản pháp luật quy định các nguyên tắc xử sự chung, nguyên tắc, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, công dân khi tham gia vào quan hệ QLNN về TTATXH, xác định rõ thẩm quyền và thủ tục tiến hành QLNN về an ninh trật tự, quyền hạn, nghĩa vụ của đối tượng quản lý khi tham gia vào quan hệ QLNN về TTATXH. Hiện nay, khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực TTATXH được Quốc hội, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ ban hành và hướng dẫn đầy đủ. Nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, cá nhân, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước phải thể chế hóa các Luật, Nghị định của Chính phủ để triển khai thực hiện trong ngành và lĩnh vực quản lý của mình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác QLNN về TTATXH cũng như đảm bảo quyển, lợi ích hợp pháp cho công dân; đồng thời thể hiện vai trò trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân người có thẩm quyền trong giải quyết các vấn đề TTATXH. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về hoạt động đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trên cơ sở Hiến pháp (2013) và các văn bản Luật phải phù hợp với thực tiễn công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, tính đến những yếu tố ảnh hưởng từ tình hình thế giới và khu vực đến nền an ninh trật tự của Việt Nam và phải phù hợp với luật pháp quốc tế. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong đấu tranh bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bao gồm cả các cơ quan, tổ chức chuyên trách, bán chuyên trách và các lực lượng tham gia. - Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ trật tự, an toàn xã hội cho các đối tượng có liên quan; tổ chức thực hiện nghiêm minh pháp luật đối với mọi đối tượng, mọi địa bàn, lĩnh vực. 1.3.3. Về kinh tế Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và trình độ dân trí của quốc gia là những điều kiện về vật chất, tinh thần là những yếu tố cơ bản để đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện tốt các nội dung yêu cầu QLNN về TTATXH.Hay nói một cách khác đó là điều kiện cần và đủ để đảm bảo Luật TTATXH có khả năng đi vào cuộc sống ( có tính khả thi). Xuất phát từ điều kiện kinh tế, khả năng xây dựng, tổ chức các công trình, mạng lưới hệ thống cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng đến việc khai thác sử dụng các phương tiện mà Nhà nước quy định các nội dung yêu cầu quản lý và trách nhiệm công dân trong việc chấp hành quy định quản lý. 10
  13. Cùng với các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia, việc xác định nội dung, yêu cầu QLNN về TTATXH còn phải căn cứ vào trình độ dân trí cũng như khả năng, điều kiện, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Do vậy, QLNN về TTATXH nhất thiết phải phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ dân trí của quốc gia, vừa là nguyên tắc cơ bản, vừa là điều kiện khách quan cần và đủ để đảm bảo TTATXH đạt kết quả tốt nhất. 1.3.4. Hội nhập quốc tế Hợp tác quốc tế về đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, công tác bảo vệ an ninh trật tự không chỉ diễn ra trong phạm vi quốc gia và cũng không phải chỉ là hoạt động độc lập của các cơ quan, cán bộ chuyên trách, với sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong nước. Công tác bảo vệ an ninh trật tự hiện nay đã vượt khỏi biên giới quốc gia, có sự hỗ trợ, phối hợp của các cơ quan, tổ chức quốc tế , các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong khuôn khổ luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam. Vì vậy trong QLNN về TTATXH cần tổ chức tốt các mối quan hệ hợp tác quốc tế đa phương và song phương với các nước, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự, cụ thể là: Ký kết, gia nhập và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực an ninh trật tự. Trao đổi thông tin, đào tạo cán bộ, trang bị phương tiện phục vụ đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự. Phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo quy định của luật pháp quốc tế và pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.4 Kinh nghiệm quản lý nhà nước về TTATXH 1.4.1 Xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức Do sự buông lỏng quản lý của chính quyền địa phương, tháng 3/2017, trên địa bàn xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức đã xảy ra tình trạng vi phạm trên đất Quốc phòng. Người dân trên địa bàn xã Đồng Tâm đã có đơn thư khiếu tố lên các cơ quan của huyện và TP. UBND TP Hà Nội đã giải quyết, xử lý cán bộ sai phạm. Ngày 30-3-2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an Thành phố Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về hành vi “gây rối trật tự công cộng” theo điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Công an Thành phố đã 3 lần triệu tập các công dân có liên quan lên làm việc nhưng số người này không chấp hành, tiếp tục có các hành vi chống đối. Ngày 15-4-2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố Hà Nội đã áp dụng biện pháp ngăn chặn, bắt giữ 4 công dân về hành vi gây rối trật tự công cộng để điều tra. Ngay sau khi Công an Thành phố triển khai bắt giữ các đối tượng trên, số công dân xã Đồng Tâm đã tập trung đông người bao vây, không cho xe ô tô của các lực lượng làm nhiệm vụ ra khỏi địa bàn ở xã Đồng Tâm; giữ, đập phá 5 xe ô tô của lực lượng chức năng (gồm 1 xe chở quân, 3 xe Innova, 1 xe cứu thương); giữ trái phép 38 cán bộ huyện Mỹ Đức và cán bộ, chiến sỹ Công an thành phố Hà Nội tại Nhà văn hóa thôn Hoành... Căng thẳng tại xã Đồng Tâm kéo dài từ ngày 15 đến 22/4 mới được tháo gỡ hoàn toàn sau cuộc đối thoại giữa Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung với người dân thôn Hoành. Việc một số công dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức lôi kéo, kích động người dân, có các hành vi vi phạm pháp luật với mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây rối an ninh TTATXH trên địa bàn. Đây là một hành động coi thường pháp luật Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh TTATXH trên địa bàn xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung. 1.4.2 Huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội Tại Kim Nỗ (Đông Anh – Hà Nội), trong ngày khởi công Dự án xây dựng sân gôn (năm 2004) đã có gần 400 nông dân bao vây tấn công lực lượng bảo vệ và quan khách với lý do Dự án khởi động kéo dài, gây thiệt hại nhiều cho người dân có đất bị giải phóng mặt bằng và doanh nghiệp đã không thực hiện lời hứa với người dân trước khi thu hồi đất. Họ chửi bới, ném gạch đá, chai xăng vào quan khách tham dự buổi lễ; xô xát trở lên căng thẳng, hơn 10 chiến sỹ công an bị thương. Những đối tượng quá khích còn đập nhát một chiếc xe máy của nhân 11
  14. viên bảo vệ. Một số phương tiện, máy móc thi công bị hư hỏng; nhiều phương tiện hỗ trợ của lực lượng cảnh sát cũng bị mất mát và hư hỏng. Để tránh những thương vong đáng tiếc, lãnh đạo huyện Đông Anh đã phải ra lệnh ngừng buổi lễ thi công. 1.4.3 Bài học kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về TTATXH được rút ra Một là, tuyệt đối tin vào sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước; hoàn thiện chính sách, luật pháp, các văn bản về trật tự an toàn xã hội. Hai là, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa công an huyện và các ngành, các cấp trong quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Ba là, làm tốt công tác quản lý đất đai, đặc biệt quan tâm hồ sơ địa chính ở cấp xã, cấp huyện tạo cơ sở cho việc quản lý đất đai, không để diễn ra tình trạng lấn chiếm đất đai. Bốn là, giải quyết đơn thư, khiếu kiện của người dân phải được giải quyết dứt điểm từ cơ sở, nếu có khó khăn phải báo cáo xin ý kiến của cấp có thẩm quyền. Năm là, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền luật pháp và ý thức chấp hành của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí của nhân dân. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 An ninh quốc gia cùng với Trật tự an toàn xã hội tạo nên sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước, là hàng rào an toàn trước những nguy cơ tấn công từ mọi phía, bằng mọi thủ đoạn của các thế lực thù địch với Việt Nam, đồng thời góp phần củng cố vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Giữ cho xã hội được an toàn, có trật tự, kỷ cương cũng có nghĩa là tạo được môi trường sống yên ổn, góp phần đảm bảo cuộc sống vui vẻ, lành mạnh, hạnh phúc cho mọi người, vì vậy đây cũng là lĩnh vực được quần chúng quan tâm và sẵn sàng tham gia. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do đó, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cũng là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó lực lượng công an nhân dân có vai trò là nòng cốt, xung kích. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam rất quan tâm đến lĩnh vực này và đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản pháp luật làm cơ sở, hành lang pháp lý cho công tác quản lý về trật tự an toàn xã hội cả ở tầm vĩ mô, cả ở tầm cơ sở, trong đó có quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của công an phường. Bước vào thời kỳ mới, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội lại càng quan trọng. Tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; những khó khăn trong nước do tác động từ bên ngoài và cả những tồn tại từ những giai đoạn trước để lại đã bộc lộ và tác động tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Cộng vào đó, tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp, có mặt, những lĩnh vực đang có chiều hướng gia tăng, gây lo ngại, bức xúc xã hội... Tình hình trên đây đặt ra cho công an huyện, với tư cách là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt trận đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội giữ gìn an ninh trật tự tại cơ sở, đồng thời là chủ thể quan trọng, trực tiếp trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện nhiều vấn đề mới cần giải quyết. Trước hết, cần nhận thức sâu sắc hơn nữa rõ về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của mình là góp phần đắc lực vào sự nghiệp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững an ninh, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với tội phạm, tệ nạn xã hội, giảm thiểu hành vi vi phạm pháp luật... Từ đó, công an huyện Thanh Trì cần phải được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, góp phần quan trọng vào việc tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. 12
  15. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, HÀ NỘI 2.1. Khái quát huyện Thanh Trì 2.1.1 Về lịch sử, vị trí địa lý và đặc điểm dân cư Trước kia vùng đất huyện Thanh Trì nằm trong bộ Giao Chỉ; sang đời Thục An Dương Vương, Thanh Trì thuộc bộ Long Biên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, Thanh trì đã có nhiều lần tách, nhập và thay đổi địa giới hành chính. Hiện nay, huyện Thanh Trì là một đơn vị hành chính thuộc thành phố Hà Nội, phía Bắc giáp với quận Hoàng Mai, phía Đông giáp với sông Hồng, phía Nam giáp với huyện Thường Tín, phía Tây giáp với quận Hà Đông, quận Thanh Xuân, huyện Thanh Oai; có 15 xã và một thị trấn (gồm các xã Tân Triều, Thanh Liệt, Hữu Hòa, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Vĩnh Quỳnh, Đại Áng, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, Liên Ninh, Đông Mỹ, Duyên Hà, Yên Mỹ, Vạn Phúc, Tứ Hiệp và thị trấn Văn Điển) với tổng diện tích đất tự nhiên là 63,927 km2. Trong những năm gần đây, huyện Thanh Trì đã và đang được đô thị hóa với tốc độ nhanh; nhiều khu, cụm công nghiệp và khu đô thị được xây dựng, do vậy số người tỉnh ngoài về huyện cư trú, tạm trú, lao động, học tập ngày càng đông. Dân cư trên địa bàn huyện hiện có 68.154 hộ, 231.834 khẩu (so với tháng 12/2003 tăng 25.398 hộ, 56.212 khẩu = 26,08%); hộ, nhân khẩu đăng ký tạm trú là 5.406 hộ, 24.240 khẩu; ngoài ra trên địa bàn huyện hiện có 3.379 nhân khẩu đăng ký lưu trú, 683 nhân khẩu tạm vắng và 34 nhân khẩu là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tạm trú trên địa bàn huyện. Mật độ dân cư toàn huyện là 3.626 người/km2 (so với tháng 12/2003 tăng 878 người/km2). Bình quân diện tích đất canh tác ở các xã sản xuất nông nghiệp là 183,3 m2/nhân khẩu. Đây là điều kiện thận lợi để huyện Thanh Trì phát triển mạnh về kinh tế nhưng cũng có những tác động không nhỏ đến công tác đảm bảo TTATXH 2.1.2. Về hệ thống chính trị và tình hình kinh tế - xã hội Đến nay Huyện ủy Thanh Trì có 53 tổ chức cơ sở Đảng (28 Đảng bộ và 25 Chi bộ trực thuộc Huyện ủy) với 8.493 đảng viên. Từ năm 2004 đến nay Huyện ủy đã ban hành 14 Chỉ thị, 12 Nghị quyết về công tác đảm bảo TTATXH. Huyện ủy phân công đồng chí Phó bí thư Thường trực trực tiếp sinh hoạt và lãnh đạo, chỉ đạo công tác của Đảng ủy Công an huyện Thanh Trì; đồng chí Bí thư Đảng ủy – Trưởng Công an huyện luôn được cơ cấu trong Ban Thường vụ Huyện ủy. Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân huyện, các xã, thị trấn, Ủy ban mặt trật tổ quốc và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực; đổi mới trong công tác quản lý điều hành, quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh, lắng nghe ý kiến của nhân dân để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, củng cố và xây dựng chính quyền. Huyện Thanh Trì từ xa xưa đã lấy nông nghiệp làm chủ yếu, việc chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng được chú trọng. Một số làng nghề, món ăn đặc sản, cây trồng của Thanh Trì nổi tiếng khắp đất nước. Trong 5 năm trở lại đây, cán bộ và nhân dân huyện Thanh Trì đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn đưa kinh tế huyện tiếp tục tăng trưởng: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt từ 15,4 – 15,5%/năm, thu ngân 13
  16. sách tăng nhanh, tỷ lệ tăng thu ngân sách hàng năm đạt 16%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm từ 5,28% (năm 2010) xuống dưới 1% (năm 2015). Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, đồng bộ, toàn diện và đạt kết quả tốt. Đến nay, 12/15 xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 80%), vượt 02 xã so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ XXII nhiệm kỳ 2010 – 2015 đề ra. Công tác giáo dục đào tạo được quan tâm và đạt được nhiều kết quả tốt; chất lượng giáo dục trên địa bàn huyện tiếp tục được nâng lên. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn tiếp tục được chú trọng. Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được triển khai kịp thời, hiệu quả, không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn; không có dịch bệnh lớn xảy ra. 2.2 Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, Hà Nội. 2.2.1. Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội. 2.2.1.1 Xây dựng kế hoạch thực hiện quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội Công tác tham mưu cho Huyện ủy, UBND huyện về công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội Để thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, bên cạnh việc chủ động, trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội; lực lượng Công an huyện luôn chủ động triển khai thực hiện các biện pháp, công tác để nắm tình hình, từ đó tham mưu cho Huyện ủy, UBND huyện ban hành các văn bản chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, cấp ủy chính quyền các xã, thị trấn về công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội góp phần thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn. 2.2.1.2 Tổ chức chính trị - xã hội huyện Thanh Trì trong công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội Xác định Mặt trận Tổ quốc huyện và các tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức quần chúng trực tiếp gắn với hoạt động sống thường nhật của cộng đồng dân cư. Vì vậy nếu lực lượng công an là nòng cốt trong điều tra, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật thì các tổ chức chính trị - xã hội phải làm tốt công tác nắm tình hình, tuyên truyền giải thích và vận động nhân dân trong việc chấp hành pháp luật và thực hiện các nội dung xây dựng phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tính đến tháng 7/2017, toàn Công an huyện Thanh Trì có 364 cán bộ chiến sỹ (Ban chỉ huy Công an huyện có 07 đồng chí) được bố trí công tác tại 15 đội, đồn, Công an thị trấn, trong đó: - 11 đơn vị nghiệp vụ (73,3% tổng số đầu mối) gồm: đội Tham mưu, Chính trị - hậu cần, An ninh, Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH, Cảnh sát trật tự - phản ứng nhanh, Cảng sát giao thông, Điều tra tổng hợp, Cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH, Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế & chức vụ, Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp. - 04 đơn vị quản lý địa bàn (26,7% tổng số đầu mối) gồm: Đồn Công an cầu Bươu (phụ trách 05 xã: Tân Triều, Thanh Liệt, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Hữu Hòa); đồn Công an Đông Mỹ (phụ trách 05 xã: Đông Mỹ, Duyên Hà, Vạn Phúc, Yên Mỹ, Tứ Hiệp); đội xây dựng phong trào và phụ trách xã về ANTT (phụ trách 05 xã: Vĩnh Quỳnh, Đại Áng, Ngũ Hiệp, Ngọc Hồi, Liên Ninh); Công an thị trấn Văn Điển. 2.2.2.Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội. 14
  17. Lực lượng Công an chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, đoàn thể tuyên truyền, giáo dục, tổ chức vận động nhân dân nâng cao ý thức, trách nhiệm và năng lực bảo vệ an ninh trật tự, tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Trong những năm qua, công an huyện Thanh Trì đã triển khai làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật với nhiều nội dung và hình thức phù hợp để nhân dân nắm vững pháp luật, chấp hành nghiêm pháp luật. 2.2.3 . Kết quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực. 2.2.3.1 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm Trong quản lý nhà nước về TTATXH tại cơ sở, công an huyện Thanh Trì đã chủ động bàn bạc, đề xuất những hình thức, biện pháp phối hợp với các ban ngành, đoàn thể và nhân dân tăng cường các hoạt động phòng ngừa xã hội, hạn chế môi trường, điều kiện dễ phát sinh tội phạm. Trong 5 năm qua, có hàng trăm kẻ phạm tội đã bị phát hiện, đưa ra truy tố, xét xử, chịu những hình phạt nghiêm khắc của pháp luật trên các lĩnh vực như: Về vi phạm hình sự, mua bán người, vi phạm ma túy, vi phạm về quản lý kinh tế, môi trường,…. 2.2.3.2 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội. Công an huyện Thanh trì tham mưu cho UBND huyện có kế hoạch chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan, doanh nghiệp, các xã, thị trấn trên địa bàn huyện xây dựng, triển khai, tổ chức thực hiện các kế hoạch, chuyên đề và thực hiện công tác đảm bảo TTATXH một cách chủ động, hiệu quả. Phát hiện và giải quyết kịp thời mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện; thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh hoạt động của 200 cơ sở kinh doanh có điều kiện và dịch vụ nhạy cảm về TTATXH (gồm: 03 khách sạn, 51 Nhà nghỉ, 04 cơ sở kinh doanh Karaoke, 5 cơ sở dịch vụ cầm đồ, 27 cơ sở massage, 40 cơ sở kinh doanh in ấn, 106 cơ sở kinh doanh internet…); tiếp tục huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện các Nghị quyết và các Đề án chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, phòng chống mua bán người, chương trình phòng chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS…quản lý các cơ sở kinh doanh có điều kiện và dịch vụ nhạy cảm về TTATXH. 2.2.3.3 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên lĩnh vực phòng cháy chữa cháy Trong những năm qua, Cấp ủy Đảng, chính quyền UBND huyện Thanh trì ngày càng tích cực tham gia quản lý nhà nước về PCCC, thấy rõ hơn trách nhiệm của mình trong việc tổ chức chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định an toàn về PCCC. Lãnh đạo UBND huyện đã trực tiếp đi kiểm tra PCCC, tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc về PCCC ở địa phương, quan tâm chỉ đạo việc quy hoạch về PCCC; xây dựng và nhân rộng những mô hình tốt về PCCC… Phòng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho UBND huyện nhiều kế hoạch, văn bản chỉ đạo triển khai đến từng chi bộ, thôn để đẩy mạnh, nâng cao ý thức người dân trong phong trào toàn dân PCCC. Phối hợp tuyên truyền về pháp luật và kiến thức PCCC với nhiều hình thức phong phú, sáng tạo, nội dung sâu sắc. Ý thức chấp hành pháp luật và phong trào Toàn dân tham gia PCCC được đẩy mạnh, phát triển sâu rộng.Hầu hết các công trình xây dựng lớn, có nguy hiểm về cháy, nổ đã đưa các giải pháp PCCC vào ngay từ khi thiết kế và thực hiện tốt việc thẩm duyệt về PCCC. 15
  18. Công tác kiểm tra, hướng dẫn, xử lý vi phạm an toàn PCCC được triển khai quyết liệt. Lực lượng Cảnh sát PCCC trên địa bàn huyện Thanh Trì phát triển lớn mạnh, xử lý có hiệu quả những vụ cháy, nổ, cứu nạn, cứu hộ phức tạp, quy mô lớn… 2.2.4 Thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm trật tự, an toàn xã hội. Thanh tra, kiểm tra là một chức năng của QLNN, đồng thời là một bộ phận trong chu trình quản lý, có quan hệ và ảnh hưởng đến việc thực hiện các chức năng khác và các bộ phận khác trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự. Trên bất cứ lĩnh vực nào đi đôi với xây dựng và phát triển bao giờ cũng là bảo vệ, giữ gìn, vô hiệu hóa những hoạt động tiêu cực, phá hoại nảy sinh từ các hoạt động chống đối ở bên trong và thế lực thù địch ở bên ngoài. Vì vậy, việc thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra đối với việc tổ chức thực hiện, chấp hành những chủ trương, chính sách, quyết định liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự phải được quan tâm đặc biệt. Song thực tế những năm qua, vấn đề thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý nhà nước về an ninh trật tự của các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội của huyện Thanh Trì còn nhiều yếu kém, vừa có chỗ bị chồng chéo, vừa có chỗ buông lỏng, có nhiều cơ quan cũng thực hiện chức năng này nhưng lại rơi vào tình trạng chia cắt, thiếu thống nhất đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc QLNN trên lĩnh vực này. Ngay trong ngành Công an, công tác thanh tra cũng chưa được tập trung chỉ đạo, hiệu quả hạn chế, thời gian bị chi phối vào các việc cụ thể như xác minh giải quyết đơn khiếu tố… 2.3. Đánh giá chung 2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân - Thứ nhất, có sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể nên công tác triển khai nhiệm vụ trong công tác QLNN về TTATXH diễn ra nhanh chóng kịp thời. - Thứ hai, nhờ sự chủ động, nhạy bén, quyết liệt của công an huyện Thanh Trì tình hình TTATXH trên địa bàn huyện luôn được ổn định và giữ vững, tỷ lệ điều tra khám phá các vụ án luôn ở mức cao; các vụ trọng án đều được tập trung lực lượng, biện pháp để điều tra khám phá trong thời gian ngắn. - Thứ ba, các mặt công tác QLNN về ANTT đã từng bước đi vào nề nếp, nhất là công tác cải cách hành chính, công tác quản lý nhân hộ khẩu, cấp chứng minh nhân dân. - Thứ tư, công tác giữ gìn trật tự giao thông có nhiều chuyển biến tích cực, rõ nét; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được tăng cường; ý thức chấp hành pháp luật của người dân được nâng cao. - Thứ năm, công tác vận động quần chúng, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được thực hiện hiệu quả. - Thứ sáu, công tác tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo của công an huyện Thanh Trì có nhiều cải tiến và đổi mới; triển khai và thực hiện quyết liệt các biện pháp quản lý và phòng ngừa sai phạm ,nâng cao chất lượng, tinh thần tự giác, ý thức kỷ luật của các cán bộ chiến sỹ. - Thứ bảy, công an huyện thường xuyên phối hợp với các ngành, đoàn thể và lực lượng cơ sở để nắm tình hình liên quan đến ANTT trên địa bàn huyện; đặc biệt thông qua việc triển khai thực hiện chuyên đề để nắm tình hình liên quan đến TTATXH tại địa bàn cơ sở. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những ưu điểm đạt được thì vẫn tồn tại những hạn chế sau: 16
  19. - Công tác nắm tình hình, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình trên một số mặt công tác còn chưa kịp thời, chưa sâu. - Công tác tham mưu với cấp ủy, chính quyền có nơi, có lúc còn thiếu tính chủ động, nhất là ở một số địa bàn xã ít phức tạp về TTATXH. - Công tác phòng ngừa, đấu tranh một số loại tội phạm hiệu quả còn thấp; nhất là trong lĩnh vực tội phạm kinh tế, môi trường. - Vai trò chỉ huy, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp có nơi, có thời điểm còn thiếu quyết liệt; hiệu quả chưa cao. - Việc chấp hành pháp luật, chấp hành điều lệnh nội vụ Công an nhân dân; tu dưỡng rèn luyện của một bộ phận nhỏ cán bộ chiến sỹ còn hạn chế; tình trạng cán bộ chiến sỹ vi phạm quy trình, quy chế, vi phạm kỷ luật vẫn còn diễn ra. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại, hạn chế trên đó là: - Kinh nghiệm công tác thực tiễn còn ít, một số cán bộ trẻ mới ra trường chưa có ý thức chấp hành điều lệnh nội vụ công an nhân dân; ý thức phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện năng lực còn chưa cao. - Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp; hoạt động của các đối tượng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động và chuyên nghiệp hơn. Các loại tội phạm tham nhũng, tội phạm vi phạm quy định về bảo vệ môi trường, tội phạm công nghệ cao…được che giấu tinh vi, rất khó phát hiện. - Trang thiết bị, phương tiện, công cụ hỗ trợ phục vụ công tác chiến đấu của Công an huyện chưa tương xứng với tình hình địa bàn; nhiều công cụ phương tiện đã cũ, hỏng, xuống cấp nhưng chậm được sửa chữa, thay thế. 2.3.3. Bài học kinh nghiệm quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội. Một là, vấn đề TTATXH phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Đảng trong đó lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt. Hai là, thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và sự chỉ đạo của Bộ Công an đối với công tác bảo đảm TTATXH từ Trung ương xuống địa phương. Ba là, chủ động trong mọi tình huống; coi trọng công tác dự báo; nắm chắc tình hình, phòng ngừa, kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật sát tình hình; sẵn sàng ngăn chặn, đối phó với mọi diễn biến bất lợi về TTATXH. Bốn là, thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia giữ gìn, đảm bảo TTATXH. Năm là, bám sát và coi trọng tổng kết thực tiễn công tác bảo đảm TTATXH; lấy thực tiễn kinh nghiệm để soi rọi lý luận, bổ sung lý luận, hoàn thiện văn bản pháp luật. Sáu là, xây dựng, đào tạo đội ngũ lực lượng cán bộ, chiến sỹ tham gia đảm bảo TTATXH phù hợp; có đạo đức, có kỷ luật và năng lực thực tiễn chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Bảy là, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực đấu tranh bảo đảm TTATXH. TỔNG KẾT CHƯƠNG 2 Huyện Thanh Trì là một trong những huyện có lịch sử hình thành và bề dày truyền thống của Thủ đô Hà Nội. Trong suốt chiều dài lịch sử và quá trình cách mạng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Thanh Trì trước đây, huyện Thanh Trì ngày nay đã trung thành, gắn bó và góp phần xứng đáng vào truyền thống cách mạng Thủ đô. Bước vào thời kỳ đổi mới và xây dựng đất nước nói chung, Thủ đô nói riêng theo định hướng 17
  20. XHCN, Đảng bộ, Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì càng ý thức trách nhiệm, chức năng của mình trong Quản lý Nhà nước về mọi mặt đời sống xã hội của huyện, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến lĩnh vực đảm bảo về Trật tự an toàn xã hội. Bộ mặt của huyện ngày nay càng ngày càng được đô thị hóa theo hướng văn minh, hiện đại, đời sống mọi mặt của các tầng lớp dân cư được nâng cao, chất lượng cuộc sống càng được đảm bảo, trật tự an ninh trong huyện được giữ vững. Có thể nói đó là những thành tựu nổi bật của huyện trong những năm qua. Tuy nhiên, trên lĩnh vực Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập. Nhận thức ý nghĩa vai trò của công tác này trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng còn chưa đầy đủ; sự kết phối hợp giữa các ban ngành, tổ chức, lực lượng trong huyện chưa thực sự chặt chẽ, đồng bộ; các biện pháp quản lý được triển khai chưa thật sự hiệu quả; công tác phát hiện. xử lý chưa kịp thời, nghiêm minh, dứt điểm.. Lực lượng Công an Huyện, với tư cách là lực lượng xung kích, nòng cốt, trực tiếp tiến hành Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội tại địa bàn huyện, tuy đã có nhiều cố gắng, song do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, nên việc thực hiện chức năng nắm tình hình mọi mặt, tham mưu cho Đảng ủy, Ủy ban nhân dân huyện còn thiếu chủ động, việc triển khai các biện pháp công tác còn lúng túng, đôi khi chạy theo vụ việc, tình hình tội phạm, tệ nạn và các vi phạm pháp luật khác trên địa bàn huyện còn diễn biến phức tạp, một số tồn tại về trật tự an toàn xã hội đang gây bức xúc cho người dân... Điều đó đặt ra yêu cầu cần có những giải pháp vừa trước mắt vừa lâu dài nhằm tăng cường hiệu quả Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn trong thời gian tới. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2