Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội
lượt xem 14
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội, xác định rõ nguyên nhân để từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội ở nước ta hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ............/............ ....../...... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TẠ THỊ MINH THU VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành : Quản lý công Mã số : 8340403 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGỌ VĂN NHÂN HÀ NỘI - NĂM 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ các công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 29 tháng 2 năm 2020 Tác giả luận văn Tạ Thị Minh Thu i
- LỜI CẢM ƠN Em rất vinh dự khi được học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành Chính Quốc gia. Để hoàn thành được cuốn luận văn này, em xin chân thành cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo tại Học viện Hành Chính Quốc gia đặc biệt Thầy giáo, TS. Ngọ Văn Nhân giảng viên Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện, hoàn thiện luận văn cao học về nội dung “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội”. Đây là công trình nghiên cứu mang tính cá nhân, nhận định của bản thân. Do vậy, mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian và năng lực có hạn nên chắc chắn Luận văn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp ý kiến quý báu của các thầy, các cô. Em xin trân trọng cảm ơn! ii
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI 12 1.1. Quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện xã hội 12 1.2. Khái quát về Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 33 1.3. Nội dung, phương thức hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 38 1.4. Các yếu tố ảnh hướng tới việc thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 54 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI 62 2.1. Nguyên nhân, kết quả và những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 62 2.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội 77 Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI 80 3.1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, quyết liệt cụ thể hơn các chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát, phản biện xã hội 80 3.2. Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội 85 3.3. Tăng cường công tác phổ biến, tuyển truyền nâng cao nhận thức của các cấp Hội, hội viên về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội 91 3.4. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội 94 KẾT LUẬN 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106 iii
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Giám sát và phản biện xã hội là hoạt động quan trọng nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Đồng thời kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội” [12, tr.124]. Từ sự nhấn mạnh vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, Đảng ta yêu cầu: “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp ủy đảng và cấp chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước về những vấn đề mà nhân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị” [12, tr.124]. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội) là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, có tư cách pháp nhân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới. Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Hiến pháp 1
- năm 2013, cùng với Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là “tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Hội cũng là thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN. Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội có vai trò tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới. Đối với hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, sự ra đời của Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị) và Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền (Ban hành kèm theo Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị) thực sự là kết tinh của ý chí và sự hòa quyện giữa ý Đảng với lòng dân. Việc Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành quy chế, quy định nói trên đã tạo điều kiện, phương tiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, trong đó có Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, thực hiện tốt hơn vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; cũng là phương thức mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua, bên cạnh việc tổ chức, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác của mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã và đang tham gia ngày càng sâu rộng vào hoạt động giám sát và phản biện xã hội, đạt được 2
- nhiều kết quả quan trọng. Hoạt động giám sát của Hội đã góp phần xây dựng, thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền nói chung, các cấp Hội nói riêng trong sạch, vững mạnh. Hoạt động phản biện xã hội của Hội góp phần phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, của hội viên; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng còn bộc lộ những hạn chế, nhược điểm nhất định. Vẫn còn tình trạng cán bộ, hội viên của Hội nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò của hoạt động giám sát, phản biện xã hội, dẫn đến tình trạng e ngại, sợ va chạm trong giám sát, né tránh phản biện xã hội. Có lúc, có nơi hoạt động giám sát và phản biện xã hội còn mang tính hình thức, thực hiện qua loa, chiếu lệ cho có... Tình hình trên đây có ảnh hưởng nhất định tới vị thế, uy tín của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nũng như các cấp Hội trong việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội, làm suy hiệu quả của hoạt động này. Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao nhận thức, thực hiện đúng đắn, đầy đủ vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội vừa là yêu cầu cấp thiết, vừa là nhiệm vụ cấp bách đang 3
- được đặt ra đối với Hội nói chung, các cấp Hội nói riêng. Đó cũng là lý do học viên lựa chọn chủ đề “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý công. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Giám sát, phản biện xã hội là một trong những vấn đề quan trọng trong đời sống chính trị ở nước ta hiện nay, bởi thông qua hoạt động giám sát, phản biện xã hội sẽ thấy được sự tham gia của người dân, của các đoàn thể nhân dân trong việc giám sát, kiểm tra các kế hoạch thực hiện phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp Hội, địa phương, tính dân chủ, minh bạch và công khai trong đời sống xã hội. Đó cũng là lý do vấn đề giám sát, phản biện xã hội thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu ở các cấp độ, các cách tiếp cận khác nhau. 2.1. Các công trình nghiên cứu về giám sát, phản biện xã hội nói chung - Trần Đăng Tuấn, Phản biện xã hội: một số vấn đề chung, Tạp chí Cộng sản số 17 (tháng 9/2007); Phương thức thực hiện phản biện xã hội, Tạp chí Cộng sản số 23 (tháng 12/2007). Trong hai bài viết này, tác giả đã luận bàn dưới nhiều góc độ khác nhau về những vấn đề chung của phản biện xã hội, phân tích khái niệm phản biện, phản biện xa hội, chủ thể, nội dung, phương thức thực hiện phản biện xã hội; khẳng định vai trò quan trọng của phản biện xã hội trong xây dựng chế độ dân chủ hiện đại và dân chủ pháp quyền trong mọi chế độ xã hội, đặc biệt là trong trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của phản biện xã hội. - Hồ Bá Thâm và Nguyễn Thị Tường Văn, Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Các tác giả đã khảo sát thực trạng phản biện xã hội trên các vấn đề tham nhũng, đất đai, ô nhiễm môi trường, giáo dục, y tế, giao thông... của Mặt trận Tổ quốc Việt 4
- Nam thành phố Hồ Chí Minh như một mô hình phản biện xã hội ở Việt Nam; từ đó, chỉ ra những khó khăn, trở ngại khi thực hiện phản biện xã hội ở nước ta hiện nay. - Ngọ Văn Nhân, Dư luận xã hội với tư cách là phương thức thực hiện phản biện xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 5(105) - 2007. Theo tác giả bài viết, việc tìm kiếm những phương thức cụ thể, hữu hiệu để thực hiện phản biện xã hội ở nước ta hiện nay đang là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Do những đặc điểm, tính chất của mình, dư luận xã hội được coi là một trong những kênh chủ yếu, là phương thức để thực hiện phản biện xã hội. Nội dung của phản biện xã hội thông qua dư luận xã hội là xác định tính đúng đắn, hợp lý; tính hợp hiến, hợp pháp; tính tất yếu khách quan và tính khả thi của các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ đặt ra trong các đường lối, chính sách kinh tế - xã hội, trong các dự án, dự thảo luật của Đảng và Nhà nước. Để làm được điều đó thì nhất thiết phải tiến hành điều tra, thăm dò dư luận xã hội. - Hoàng Thị Ngân, Một số vấn đề về giám sát xã hội và phản biện xã hội, bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Vấn đề phản biện và giám sát xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - thực trạng và giải pháp” do Viện Nghiên cứu khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2007. Bài viết trình bày khái lược về các vấn đề như khái niệm, nội dung, mục đíc, hậu quả, đặc trưng, vai trò, ý nghĩa của giám sát và phản biện xã hội; chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện giám sát và phản biện xã hội. - Trần Hậu, Các hình thức và giải pháp thực hiện giám sát xã hội và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, Đề tài nghiên cứu khoa học thuộc Chương trình khoa học và công nghệ KX10.06- 10, Hà Nội, 2009. Công trình tập trung luận giải khái niệm giám sát xã hội và phản biện xã hội, phân tích bản chất và nững đặc trưng cơ bản của hoạt động giám sát và phản biện xã hội; vai trò, tác dụng của giám sát, phản biện xã hội 5
- đối với quyền lực chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện cụ thể của nước ta; xác định chủ thể, khách thể, các hình thức, giải pháp thực hiện giám sát xã hội và phản biện xã hội; vận dụng chúng để xử lý các tình huống thực tiễn trong hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, có thể kể đến nhiều công trình nghiên cứu có liên quan khác, như: Nguyễn Trọng Bình, Một số ý kiến về phản biện xã hội, Thông tin Nhà nước và Pháp luật số 4/2007, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Trương Thị Hồng Hà, Xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân tham gia hoạt động giám sát và phản biện xã hội, Tạp chí Cộng sản số 8)778)/2007, Hà Nội; Hoàng Hải, Về phản biện và giám sát xã hội, Tạp chí Xây dựng Đảng số 9/2009; Trần Hậu, Góp phần tìm hiểu về phản biện xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2009, Hà Nội; Trần Quang Hải, Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội trong sự nghiệp đổi mới, Tạp chí Cộng sản, số 17/2009, Hà Nội; Đoàn Minh Huấn, Vũ Thị Như Hoa, Một số vấn đề về giám sát xã hội và phản biện xã hội, bài viết trong sách “Chính trị học - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; Hoàng Minh Hội, Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị, Tạp chí Khoa học, Đại học quốc gia Hà Nội, số 2/2014, Hà Nội... Các công trình, bài viết nêu trên đề cập một cách đa dạng, phong phú các vấn đề, khía cạnh liên quan đến giám sát và phản biện xã hội. Những công trình này là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với tác giả luận văn khi luận bàn các vấn đề về kháu niệm, đặc trưng, vai trò của hoạt động giám sát và phản biện xã hội. 2.2. Các công trình nghiên cứu về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đề án nghiên cứu “Phát huy vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc”, Hà Nội, 2008. Đây là công trình nghiên cứu khá quy mô của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập 6
- hợp sự đóng góp ý kiến, các tham luận, thảo luận trong hội thảo của các nhà khoa học, cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành; đã góp phần làm rõ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Mặt trận Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay, đánh giá thực trạng vai trò, vị trí, chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Nguyễn Thanh Bình, Điều kiện đảm bảo cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí Mặt trận, số 70, tháng 8/2009, Hà Nội. Nội dung bài viết khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm của Đảng về giám sát, phản biện xã hội; trên cơ sở đó, kiến nghị Đảng, Nhà nước tạo các điều kiện, cơ chế cần thiết nhằm bảo đảm phát huy vai trò của hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Nguyễn Đăng Dung, Cơ sở pháp lý nào cho sự hoàn thiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí Mặt trận, số 81, tháng 7/2010, Hà Nội. Trong bài viết, từ sự phân tích chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, tác giả đi sâu vào việc luận giải cơ sở pháp lý mà Nhà nước cần tập trung xây dựng, hoàn thiện nhằm phát huy chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Trần Ngọc Nhẫn, Giám sát và phản biện xã hội là cơ chế quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy dân chủ, tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Mặt trận, số 88, tháng 2/2011, Hà Nội. Từ sự phân tích khái niệm, bản chất của nền dân chủ, đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ghi nhận vai trò quan trọng của giám sát và phản biện xã hội, tác giả bài viết khẳng định rằng, trong giai đoạn hiện nay, giám sát và phản biện xã hội là cơ chế quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy dân chủ, tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Nguyễn Thọ Ánh, Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học 7
- viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2010. Xuất phát từ quan điểm coi quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tác giả luận án coi giám sát và phản biện xã hội là một trong những phương thức cơ bản để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. là một yêu cầu tất yếu khách quan của quá trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Từ sự luận giải nội hàm khái niệm giám sát, phản biện xã hội nói chung, tham chiếu hệ thống giám sát, phản biện xã hội của một số thể chế chính trị trên thế giới, luận án đã luận giải chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện một đảng cầm quyền; khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một chủ thể đặc biệt, nhiều tiềm năng nhất trong thực hiện giám sát và phản biện xã hội. - Hoàng Thị Ánh, Giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015. Nội dung luận văn khoa học này đề cập cơ sở lý luận về giám sát, phản biện xã hội, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng; từ đó, luận giải một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng. - Nguyễn Văn Pha, Để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, Tạp chí Xây dựng Đảng số 1+2/2016, Hà Nội. Bài viết đề cập, phân tích nội hàm khái niệm giám sát, phản biện xã hội; đề xuất một số cơ chế, chính sách, giải pháp có thể thúc đẩy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát và phản biện xã hội. - Liên quan đến vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn có hàng loạt bài viết đăng tải trên các tạp chí khoa học, như: Trần Ngọc Nhẫn, Vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, 2007, Hà Nội; Đặng Đình Tân, Lại bàn về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí 8
- Dân vận, số 08/2008; Minh Đức, Để thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 05/2008, Hà Nội... Các bài viết này đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện một đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay; đưa ra một loạt các điều kiện để thực hiện tốt chức năng này, như phải luật hóa chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phải tạo điều kiện và có cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện giám sát, phản biện xã hội trên thực tế, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... Sự tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập, luận bàn một cách đa dạng, đa chiều về giám sát, phản biện xã hội nói chung, về hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu, đề cập chuyên sâu về hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Chính vì vậy, học viên chọn thực hiện đề tài “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội” với hy vọng kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có, tập trung nghiên cứu về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội; làm sáng tỏ thực trạng hoạt động giám sát, phản biện xã hội, các kết quả đạt được và hạn chế, bất cập, cũng như chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội, xác định rõ nguyên nhân để từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội ở nước ta hiện nay. 9
- 3.2. Nhiệm vụ Đề hiện thực hóa mục đích nghiên cứu, đề tài triển khai thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội. Thứ hai, đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập trong việc thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội; làm rõ nguyên nhân dẫn đến thực trạng. Thứ ba, đề xuất, luận giải tính khả thi của một số giải pháp phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn theo không gian, thời gian và nội dung: - Theo không gian: Đề tài giới hạn việc nghiên cứu vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói chung, của một số cấp Hội tại các địa phương ở nước ta nói riêng - Theo thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình triển khai các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền từ năm 2014 đến năm 2018 trong hệ thống Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. - Theo nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Đề tài được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin về hệ thống chính trị, về các tổ chức chính trị - xã hội; 10
- tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, về giám sát và phản biện xã hội... 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp phân tích nguồn thông tin, tài liệu có sẵn; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Đề tài góp phần khái quát hóa, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội; đánh giá được thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số bài học kinh nghiêm; đồng thời đề xuất, luận giải được một số giải pháp khoa học, khả thi nhằm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội. 6.2. Về mặt thực tiễn Với những kết quả nghiên cứu đạt được, đề tài có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với học viên, sinh viên các cơ sở giáo dục đại học trong quá trình học tập, nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói chung, các cấp Hội, hội viên nói riêng trong việc triển khai giám sát, phản biện xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp Hội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 03 chương, 11 tiết. 11
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI 1.1. Quản lý nhà nước về hoạt giám sát, phản biện xã hội 1.1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Khái niệm giám sát Giám sát là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản của Đảng và Nhà nước; tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có được sự thống nhất trong cách hiểu khái niệm này. Theo Từ điển Tiếng Việt, giám sát được hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định”; hoặc được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không” [37, tr.55]. Còn theo Từ điển Luật học, “Giám sát là sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động thường xuyên của các cơ quan tổ chức và nhân dân đối với hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát và tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm cho hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh” [51, tr.292]. Theo cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Giám sát là sự theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người này đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế- xã hội; trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước, các quyền, nghĩa vụ công dân, của các tổ chức chính trị- xã hội và những kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với các nhân, tổ chức có những hành vi sai trái” [30, tr.149]. Theo Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 12
- 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị): “Giám sát là việc theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” [4, tr.2]. Như vậy, giám sát phải luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời được các câu hỏi: giám sát ai? giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa rất quan trọng ở chỗ, nó giúp phân biệt “hoạt động giám sát” với “hoạt động kiểm tra”. Trong “hoạt động kiểm tra” thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, như việc tự kiểm tra của chủ thể hoạt động. Nói cách khác, chủ thể của hoạt động kiểm tra hoàn toàn có thể tự mình căn cứ vào chương trình, mục tiêu, kế hoạch đã đề ra để tự xem xét, đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc mình đang làm. Còn trong “hoạt động giám sát” thì chủ thể không thể tự mình giám sát hoạt động của chính mình được, nghĩa là không thể “tự ngắm mình” được, mà hoạt động giám sát là hoạt động của chủ thể ở bên ngoài hệ thống hướng tới “theo dõi, xem xét”đối tượng thuộc một hệ thống khác, tức là chủ thể thực hiện hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát không nằm trong cùng một hệ thống phụ thuộc nhau. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá có tính bao quát của chủ thể từ bên ngoài hệ thống đối với đối tượng không nằm trong cùng một hệ thống phụ thuộc nhau nhằm bảo đảm việc thực hiện đúng những chuẩn mực, quy định. Trên bình diện chung, hoạt động giám sát được tiến hành trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ của chủ thể tiến hành hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. Hoạt động giám sát có thể mang tính quyền lực nhà nước hoặc không mang tính quyền lực nhà nước tùy thuộc vào chủ thể tiến hành hoạt động giám sát: 13
- - Hoạt động giám sát mang tính quyền lực nhà nước được tiến hành bởi chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ thống cơ quan nhà nước khác. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 69 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện việc giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao); thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 70). Hoặc, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương. - Hoạt động giám sát không mang tính quyền lực nhà nước là loại hình giám sát được tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nước, như hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc (Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân...) và công dân đối với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước; hoặc đơn giản chỉ là hoạt động giám sát quá trình thi công một công trình. 1.1.1.2. Khái niệm hoạt động phản biện xã hội Trong đời sống chính trị của một đất nước, các thiết chế cầm quyền luôn đứng trước nhu cầu là phải lựa chọn, đắn đo cân nhắc trong số rất nhiều các dữ kiện chủ quan và khách quan cũng như các lợi ích của các giai cấp, các nhóm xã hội, dân tộc, quốc tế.v.v. khác nhau để đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất nhằm giải quyết những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra. Do vậy, họ cố tranh thủ ý kiến, nhận xét, đánh của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng xã hội. Các lực lượng xã hội khác nhau, vì lợi ích của chính mình và lợi ích chung của cả cộng đồng cũng dưới hình thức này hoặc bằng hình thức khác cũng tìm cách đưa ra những quan điểm, chính kiến của mình xung quanh những các vấn đề mà họ quan tâm. Kết quả là, nhờ thông qua sự tranh luận, nhận xét, đánh giá, tìm tòi mà các chủ thể khác nhau đã đưa ra được những quyết sách đúng đắn, phù hợp nhất có thể, áp dụng vào 14
- cuộc sống để đem lại lợi ích chung cho tổ chức, cộng đồng, đất nước. Đó là lúc chúng ta nói đến hoạt động phản biện xã hội. Phản biện xã hội khác với phản biện khoa học. Phản biện khoa học là hình thức được áp dụng khi tiến hành nghiên cứu, xét duyệt, nghiệm thu các công trình nghiên cứu khoa học để đưa ra các quyết định về tính đúng sai; chủ thể tiến hành các cuộc phản biện khoa học là hội đồng nghiệm thu, đánh giá các công trình nghiên cứu khoa học, đề án, dự án có những thẩm quyền xác định (nghiệm thu - không nghiệm thu, tán thành - không tán thành) đối với công trình nghiên cứu, phát minh, sáng chế được đưa ra xét duyệt, còn phản biện xã hội là hình thức được áp dụng để tìm được sự đồng thuận xã hội về lợi ích trong thẩm định, xét duyệt các chủ trương, đường lối, trong ban hành các đạo luật, trong hoạch định các đề án, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chủ thể phản biện xã hội rất rộng, bao gồm toàn bộ xã hội nói chung, song không nằm trong quan hệ “đối lập hai bên” với bên đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, kế hoạch (Đảng, cơ quan nhà nước, cơ quan đề xuất sáng kiến pháp luật, chủ đầu tư...); mà giữa chủ thể phản biên và chủ thể được phản biện gắn kết với nhau trong một mối quan hệ thống nhất, ràng buộc lẫn nhau và cùng hướng tới mục tiêu chung. Phản biện xã hội gắn với hoạt động công quyền, có tính chính trị - pháp lý. Đặc trưng cơ bản của phản biện xã hội (phân biệt với phản biện trong các lĩnh vực khác như tranh tụng tư pháp, nghiên cứu khoa học, thẩm định chất lượng các báo cáo, đề án) thể hiện ở chỗ, phản biện xã hội là phản biện đối với hoạt động tổ chức và thực thi quyền lực chính trị mà ở đó, quan hệ giữa các chủ thể - phản biện và được phản biện - nằm trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau: một bên là những thiết chế đại diện có trách nhiệm đưa ra các quyết định lãnh đạo, quản lý chung đối với xã hội; bên kia là các cá nhân công dân và các tổ chức xã hội, đoàn thể nhân dân có mối liên hệ về quyền dân chủ, về quyền công dân và sự quan tâm đến lợi ích chung đã đứng ra nêu lên nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến về những vấn đề do các thiết chế thực 15
- thi quyền lực công đưa ra với mong muốn quyết định đó trở nên phù hợp hơn, khả thi hơn và đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Phản biện xã hội là phản biện mang tính nhân dân, tính xã hội rộng rãi. Hoạt động phản biện xã hội với nội dung này đã luôn hiện hữu trong các chế độ nhà nước từ trước đến nay. Từ ngàn xưa, đó là chế độ “chiêu hiền, đãi sĩ” để tranh thủ ý kiến người hiền tài, là chế độ can gián vua chúa. Trong chế độ tư bản đó là hoạt động đảng phái đối lập, lobby, mít tinh, biểu tình. Còn trong chế độ ta, biểu hiện rõ rệt nhất là nguyên tắc đấu tranh phê bình và tự phê bình trong Đảng, sự xem xét, đánh giá hoạt động trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Sự phê bình không phải đơn giản chỉ là nhận xét cá nhân, sự phê phán giữa các cá nhân với nhau, mà phải hiểu sâu xa hơn là cả sự phản biện chủ trương, đường lối, chính sách. Ở nước ta, phản biện hay phản biện xã hội được đề cập nhiều trong khoảng 15 năm trở lại đây. Phản biện xã hội dần trở thành một chức năng quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Một số nhà khoa học cho rằng, phản biện xã hội là nhận xét, đánh giá của xã hội, của nhân dân và các nhà khoa học về nội dung, phương hướng, chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục, y tế, môi trường, trật tự, an ninh... Theo cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Phản biện là nhận xét, đánh giá, bình luận, thẩm định công trình khoa học, dự án, đề án trong các lĩnh vực khác nhau, là sự phát hiện sai trái và có lập luận về sự sai trái, bắt buộc giải trình” [30, tr.151]; còn “Phản biện xã hội là sự phản biện nói chung, nhưng là phản biện nằm ngoài nhà nước, mang tính xã hội, có quy mô và lực lượng rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân và các nhà khoa học về nội dung, phương hướng, chủ trương giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại của Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan” [30, tr.151]. 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 300 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 222 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 126 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 97 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 15 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn