intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Trung học cơ sở ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:90

50
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất các biện pháp quản lý Giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh THCS ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết Luận văn này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Trung học cơ sở ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  ĐẶNG MINH SỰ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG  CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ  QUẬN PHÚ NHUẬN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
  2. HÀ NỘI ­ 2013 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  ĐẶNG MINH SỰ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG  CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ  QUẬN PHÚ NHUẬN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC Mã số:     60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN PHƯƠNG  ĐÔNG
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BGH : Ban Giám hiệu Bộ GD&ĐT : Bộ Giáo dục và Đào tạo CMHS : Cha mẹ học sinh ĐH : Đại học Đoàn TNCS : Đoàn Thanh niên cộng sản Đội TNTP : Đội Thiếu niên tiền phong GD : Giáo dục GD&TĐ : Giáo dục và thời đại GDH : Giáo dục học GDKNS : Giáo dục Kỹ năng sống GV : Giáo viên GVCN : Giáo viên Chủ nhiệm HĐHT : Hoạt động hợp tác HĐNGLL : Hoạt động ngoài giờ lên lớp HS : Học sinh KNHT : Kỹ năng hợp tác KNS : Kỹ năng sống KNS&GD : Kỹ năng sống và giáo dục LLGD : Lực lượng giáo dục NDCT : Người dẫn chương trình PHHS : Phụ huynh học sinh THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông UNESCO : Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên hiệp quốc UNICEF : Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp quốc
  4. WHO : Tổ chức y tế thế giới MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO  DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG  HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN PHÚ NHUẬN,  THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 13 1.1 Giáo dục kỹ năng sống và quản lý giáo dục kỹ năng sống  cho học sinh trung học cơ sở trên địa bàn quận Phú Nhuận 13 1.2 Thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh  trung học cơ sở ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí  Minh 30 Chương 2 YÊU CẦU, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ  NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ  TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN PHÚ NHUẬN,THÀNH PHỐ  HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 61 2.1 Yêu cầu trong xây dựng và thực hiện các biện pháp  quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học  cơ sở trên địa bàn quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí  Minh 61 2.2 Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho  học sinh trung học cơ sở trên địa bàn quận Phú Nhuận, thành  phố Hồ Chí Minh hiện nay 63 2.3 Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện  pháp quản lý GDKNS cho học sinh THCS được đề  xuất 78
  5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 PHỤ LỤC 96
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong giai đoạn hiện nay, khi đời sống kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, sự tác  động của mặt trái của kinh tế thị trường, sự bùng nổ thông tin, đã tác động mạnh đến  nhận thức, tình cảm của thanh, thiếu niên, làm cho thế hệ trẻ có nhiều biểu hiện  lệch lạc, sống xa rời các giá trị đạo đức truyền thống, tình trạng bạo lực học đường  có tổ chức ngày một gia tăng. Theo số liệu báo cáo từ các bộ, ngành tại phiên giải  trình của Chính phủ từ Ủy ban VHGD Thanh Thiếu niên Nhi đồng của Quốc hội  ngày 15/2/2012 cho thấy, tình trạng bạo lực học đường đã đến mức nghiêm trọng,  trên toàn quốc đã xảy ra khoảng 1.598 vụ HS đánh nhau ở trong và ngoài trường học,  trung bình cứ 9 trường học thì xảy ra một vụ HS đánh nhau.   Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng theo các chuyên gia GD,  nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu KNS. Các em chưa bao giờ được dạy cách  đương đầu với những khó khăn của cuộc sống như cha mẹ ly hôn, gia đình phá sản,  kết quả học tập yếu kém… đã bị lôi cuốn vào lối sống thực dụng, đua đòi,  không đủ bản lĩnh nói “không” với cái xấu. Các em không được dạy để hiểu về  giá trị của cuộc sống và những KNS cần thiết. Trong những giai đoạn phát triển của con người thì lứa tuổi Thiếu niên,  tức lứa tuổi HS bậc THCS (từ 11, 12 tuổi đến 14, 15 thậm chí 16, 17 tuổi nếu  trẻ học trễ) là lứa tuổi đang ở thời kỳ phát triển phức tạp nhất, nhiều biến  động nhất nhưng cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bước  trưởng thành sau này của các em [51]. Các em cần được quan tâm GD, rèn  luyện nhiều hơn những KN cần thiết trong học tập, trong quan hệ giao tiếp,  trong xử trí, ứng phó trước những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống. Việc GDKNS ở trường học sẽ giúp thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội  tích cực cho người học; đồng thời tạo những tác động tốt đối với các mối quan hệ  giữa thầy và trò, giữa HS với nhau; giúp tạo nên sự hứng thú học tập cho các em,  đồng thời giúp cán bộ quản lý, người GV hoàn thành nhiệm vụ một cách đầy đủ hơn 
  7. và đề cao các chuẩn mực đạo đức, góp phần nâng cao vị trí của nhà trường trong xã  hội.  Căn cứ chỉ thị 40/2008/CT–BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ Trưởng Bộ  GD&ĐT và kế hoạch số 1842/GDĐT­TrH ngày 29/8/2008 của Sở GD&ĐT thành  phố Hồ Chí Minh về “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các  trường phổ thông giai đoạn 2008 ­ 2013, thì việc GDKNS cho HS bậc THCS là một  trong 5 nội dung thiết thực để xây dựng trường học thân thiện [12].  Để đạt được mục tiêu đề ra đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề một cách  đồng bộ, trong đó công tác quản lý GDKNS cho các em giữ vị trí đặc biệt quan trọng,  trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng GDKNS, hình thành ở các em những kỹ năng  cần thiết để ứng phó với những thay đổi không ngừng của cuộc sống hiện nay. Do đó, việc lựa chọn vấn đề: “Biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống  cho học sinh Trung học cơ sở ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh” làm  đề tài luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài Vào cuối những năm 1960, thuật ngữ “KNS” đã được các nhà tâm lý  học thực hành đưa ra và coi đó như là một trong những KN xã hội rất quan   trọng trong việc phát triển cá nhân. Vấn đề  GDKNS được đặt nền móng,  được quan tâm tìm hiểu từ thập niên 80 của thế kỷ XX. Bắt đầu từ  năm 1979, Gilbert J.Botvin, GS – TS tâm lý học người   Mỹ, đã công bố một chương trình GDKNS có hiệu quả cao cho thanh thiếu   niên, nhằm giúp xây dựng cho các em có những khả năng từ chối những lời   mời, rủ  rê sử  dụng chất gây nghiện bằng cách nâng cao sự  tự  khẳng định  bản thân, KN ra quyết định và tư  duy phê phán [44]. Chương trình đã triển  khai rộng rãi trong các trường học khác nhau, từ  trường công lập đến các  trung tâm tạm giam thanh thiếu niên trên toàn nước Mỹ và cho đến nay vẫn  được đánh giá cao[50]. Như  vậy, GDKNS đã được quan tâm và phát triển  
  8. khá sớm, nhằm thúc đẩy lối sống lành mạnh  ở  thế  hệ  trẻ, tạo nền tảng  vững chắc cho các em khi bước vào cuộc sống sau này. Vào đầu thập kỷ  90 của thế  kỷ  XX, khi mọi người, đặc biệt là trẻ  em, phải đối phó với các vấn đề  xã hội lớn như: chiến tranh, sự suy thoái  của môi trường, đại dịch HIV, nạn ma túy, thất nghiệp, nạn buôn bán phụ  nữ và trẻ em... thì các tổ chức của Liên Hiệp Quốc (LHQ) như Tổ chức Y   tế Thế giới (WHO), Quỹ cứu trợ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Tổ chức Giáo   dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO) đã chung sức xây dựng chương  trình GDKNS cho thanh thiếu niên. Theo tổ  chức UNICEF hiện đã có hơn 164 quốc gia trên thế  giới đã  cam kết thực hiện Kế  hoạch hành động DAKAR về  “Giáo dục cho mọi  người”, trong đó có bao gồm GDKNS, một trong những nhu cầu học tập cơ  bản cho những người trẻ  [45]. GDKNS được xem như  một thành tố  quan   trọng để  đánh giá GD hiện nay. Tại các nước phát triển như  Mỹ, Anh …   GDKNS được đặc biệt coi trọng và có nhiều công trình nghiên cứu có giá   trị cao như: Mô hình tác động của việc GDKNS của Birell Weisen và Orley đưa ra  năm 1994 [43] của tổ chức TACADE của Anh đề ra. Tại các nước đang pháp triển chủ yếu là tại các khu vực Mỹ Latinh,  Châu   Phi,   Châu   Á,   với   sự   tài   trợ   của   các   tổ   chức   LHQ,   chương   trình  GDKNS đã được phát triển rộng khắp và tiếp cận được với thanh thiếu  niên, thông qua mạng lưới toàn cầu, các cuộc hội thảo, cung cấp tư  liệu,   vật liệu cho các nước thành viên và phối hợp chặt chẽ với nhau. Năm 1996, một hội thảo về KNS được tổ chức tại Costa Rica nhằm   đẩy mạnh GD sức khỏe thông qua GDKNS trong các trường học và xem đó  như là những ưu tiên của mạng lưới y tế  tại Mỹ La tinh. Colombia cũng có  chương trình GDKNS bao gồm các tài liệu hướng dẫn hoạt động thiết kế  cho học sinh từ  lớp 4 đến lớp 9 và được thực hiện tại các trường nghèo  trong 20 thành phố. Tại Botswana, từ  năm 1996, chương trình “Growing 
  9. Up” (trưởng thành) ra đời nhằm thực hiện GDKNS cho một số trường tiểu   học và đã đạt được nhiều thành công và càng được mở rộng với trọng tâm   mới là HIV/AIDS. Tại Thái Lan năm 1996, GDKNS được đưa ra cùng với   chương trình ngăn chặn HIV/AIDS, được thực hiện  ở  cả  3 bậc học phổ  thông, chủ  yếu là qua các hoạt động ngoại khóa, hiện nay được mở  rộng  thêm các lĩnh vực: sức khỏe sinh sản, thuốc lá và ma túy, vấn đề về giới…   và  trở   thành   nội   dung  bắt   buộc   giảng  dạy  trong  chương   trình  của   nhà  trường. Như   vậy,   KNS   đã   được   nghiên   cứu,   tích   hợp   vào   GD   thông   qua   chương trình GDKNS, được triển khai rộng rãi trên thế  giới, cả  trong GD   chính quy và không chính quy và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Các công trình nghiên cứu trong nước Từ  năm 1996, thuật ngữ  KNS được người Việt Nam biết đến bắt  đầu từ chương trình của UNICEF (1996) “GDKNS để bảo vệ sức khỏe và  phòng chống HIV/AIDS cho Thanh Thiếu niên trong và ngoài nhà trường”.  Quan niệm về KNS được giới thiệu trong chương trình chỉ bao gồm những   KNS cốt lõi như: KN tự nhận thức, KN giao tiếp, KN xác định giá trị, KN   ra quyết định, KN đặt mục tiêu… do các chuyên gia Úc tập huấn [54].  Tham gia chương trình đầu tiên này có ngành Giáo dục và Hội Chữ  Thập  đỏ. Sang giai đoạn 2, chương trình mang tên “Giáo dục sống khỏe mạnh  và KNS” đã làm rõ hơn khái niệm về KNS. Ngoài ngành Giáo dục, đối tác  tham gia còn có hai tổ chức xã hội chính trị là Trung ương Đoàn TNCS Hồ  Chí Minh và Hội LHPN Việt Nam. Khái niệm KNS chỉ  thật sự được hiểu thấu đáo sau hội thảo “Chất   lượng giáo dục và KNS” do UNESSCO tài trợ tổ chức từ ngày 23 đến ngày   25 tháng 10 năm 2003 tại Hà Nội. KNS được tiếp cận trên bốn trụ cột của   giáo dục bao gồm: Học để  biết (Learning to know), Học để  làm (Learning 
  10. to do), Học để tự  khẳng định (Learning to be) và Học để  cùng chung sống   (Learning to live together) [53]. Sau thành công của dự án “Sống lành mạnh và KNS”, UNICEF đã hỗ  trợ  đưa việc GDKNS vào chương trình giảng dạy trong chu kỳ  chương  trình mới (2006­ 2010). Ngày 22/11/2008, Viện Nghiên cứu Giáo dục – Trường Đại học Sư  phạm thành phố  Hồ Chí Minh đã tổ  chức hội thảo “Nhận thức và thái độ   của học sinh, sinh viên về  định hướng tương lai”  tại thành phố  Hồ  Chí  Minh; Hội thảo  “GDKNS cho học sinh phổ  thông” được Bộ  GD&ĐT tổ   chức tại Hà Nội ngày 20/5/2009,  với sự  tham dự  của đông đảo các nhà  quản lý, các chuyên gia GD và thầy cô giáo. Trong hội thảo, các đại biểu đã  thảo luận tình hình GDKNS hiện nay  ở  các trường phổ  thông, đa số  đại  biểu đều khẳng định: Chương trình GDKNS đã được ngành GD triển khai  rất lâu, theo phương pháp lồng ghép trong những môn học như  đạo đức,  GD công dân, văn học… nhưng hiệu quả còn thấp. Việc GDKNS hiện nay   tại các trường phổ thông còn rất nhiều khó khăn, bất cập như  chất lượng   GV dạy KNS không đảm bảo, thiếu sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường  và xã  hội  trong việc  GDKNS,  thời  lượng chương  trình học  chính khóa  không cho phép, nhận thức của HS và xã hội về vấn đề GDKNS vẫn chưa   cao nên HS chưa có sự chủ động trong học tập và rèn luyện. Hội thảo  “GDKNS cho học sinh ­ Thực trạng và giải pháp” được   Phòng GD­ĐT quận Phú Nhuận tổ chức vào 30/3/2012, với 79 bài viết tập  trung vào các chủ  đề: Tầm quan trọng và yêu cầu cấp thiết của việc đưa   GDKNS vào trường học; vai trò người quản lý, nhân tố tích cực trong việc  tổ  chức rèn luyện KNS cho HS và nâng cao vai trò quyết định của lực   lượng GV trong việc giáo dục, tổ chức rèn luyện KNS cho HS trong trường   học.  Tại Hội thảo, nhiều bài viết được trình bày với tấm lòng chân thành   vì HS thân yêu của đội ngũ các nhà khoa học, các thầy, cô giáo, tiêu biểu là  
  11. các bài viết của GS ­ TSKH Thái Duy Tuyên với nội dung  “Một số suy nghĩ   về GDKNS cho HS thời kỳ đổi mới và hội nhập”; ThS. Phan Tấn Chí, Phó  Trưởng   khoa   QLGD   Trường   Cán   bộ   QLGD   Thành   phố   với   nội   dung   “Những rào cản trong việc GDKNS cho học sinh phổ thông hiện nay”… Ngay từ những năm 60 của thế kỷ 20, tổ chức UNESCO đã vạch rõ  ba thành tố của học vấn, đó là: kiến thức, KN và thái độ, trong đó thái độ và  KN đóng vai trò then chốt. Chính thái độ tích cực, năng động, dấn thân,... và  những KN cần thiết trong học tập và làm việc, trong quan hệ giao tiếp, trong  xử trí, ứng phó trước những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống đã chủ yếu  giúp cho người học tự tin để vững bước tới một tương lai có định hướng.  Riêng về GDKNS tuy chỉ mới xuất hiện từ những năm 1990 của thế kỷ  trước song đã nhanh chóng lan rộng ra khắp thế giới.  Từ những  năm 90 của thế kỷ XX  đến nay, hai khái niệm thường được   nhắc trong GD nhân cách  cho  trẻ  em là giáo dục giá trị sống (living values) và  kỹ  năng sống (life skills). Ở Việt Nam khi nói đến GD giá trị sống, KNS, không ít  người, kể cả một  số GV, vẫn  cho rằng đây là vấn đề mới, cần đưa vào nhà  trường GD  học  sinh trước khi trở nên quá muộn. Thực ra, điều đó không mới,  chỉ là cách gọi khác  của việc GD đạo đức,  thái độ (hình thành  nhân  cách) và GD  kiến thức,  KN (bồi dưỡng nhân tài) cho học sinh. Trong giai đoạn  hiện nay, có  những ý  kiến cho rằng  nhà trường dường như thiên lệch việc GD “Tài” so với  việc GD “Đức”. Cuộc sống di ễn ra r ất sôi động và phức tạp. Hàng ngày, cán bộ  quản lý, GV, HS phải  ứng phó với rất nhiều tình huống có vấn đề phải  giải quyết. Ứng xử m ột cách thông minh, khôn khéo, tế nhị, kịp th ời, có  hiệu quả, đạt tới mức độ  nghệ thuật đượ c coi là bí quyết thành công  trong công việc, trong cu ộc đời con ngườ i.  Ứng x ử đúng cách đã giúp  các cán bộ quản lý, GV biết khám phá bản thân, tự điều chỉnh giá trị  đang có để sống với những giá trị đó và để  cùng chung tay phát triển 
  12. nhà trườ ng, để thực sự “mỗi th ầy giáo, cô giáo là tấm gươ ng đạ o đứ c,  tự học và sáng tạo” cho HS noi theo. Với những vấn  đề đặt  ra như vậy, Hợp phần QLGD,  Tổ chức Hợp tác  phát triển và hỗ trợ kỹ thuật vùng Flamăng, Vương quốc Bỉ  (VVOB Việt Nam)  đã tổ chức hội  thảo và xây  dựng chương trình, tài liệu  tập  huấn năm 2011 với  chủ  đề: Hiệu trưởng trường THCS với vấn đề giáo dục giá trị sống, KNS và giao  tiếp ứng xử trong quản lý. Hội thảo  đã gợi mở ra con đường GD giá trị sống,  KNS cho HS, chính là con đường hiệu quả để giải quyết vấn đề khủng  hoảng  phát triển nhân cách HS, đồng thời góp  phần  làm giảm “sự biến động phức tạp  của  một  số giá trị trong nhân cách con người dẫn đến sự xuống  cấp của đạo  đức xã hội,  có một  số mặt  đáng lo ngại”  hiện nay đáp  ứng những đòi hỏi cấp  thiết  của  việc  xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,  hiện đại hóa, hội nhập  quốc tế; vừa tiếp  thu những giá trị hiện đại, toàn cầu,  vừa giữ gìn, phát huy được những giá trị tinh hoa, bản sắc dân tộc Việt Nam,  con người Việt Nam ngàn  năm văn hiến... Tóm lại, các công trình, bài viết nghiên cứu về KNS và GDKNS đã đề cập  những nội dung cơ bản về KNS, cách thức GDKNS cho HS, sinh viên nói chung,  song chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về "Biện pháp  quản lý GDKNS cho học sinh THCS trên địa bàn quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí   Minh" hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý GDKNS cho học sinh THCS trên địa  bàn quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đề xuất các biện pháp quản lý  GDKNS cho học sinh THCS ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Nhiệm vụ Làm rõ các vấn đề cơ bản về KNS, GDKNS, quản lý và biện pháp quản lý  GDKNS cho học sinh THCS. 
  13. Đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý GDKNS cho học sinh THCS trên  địa bàn quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.  Đề xuất những biện pháp quản lý GDKNS cho học sinh THCS trên địa bàn  quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.  4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu Công tác GDKNS cho học sinh THCS trên địa bàn quận Phú Nhuận, thành phố  Hồ Chí Minh.  Đối tượng nghiên cứu Biện pháp quản lý GDKNS cho học sinh THCS trên địa bàn quận Phú Nhuận,  thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về quản lý GDKNS cho học sinh THCS. Nghiên cứu và đánh giá thực trạng công tác quản lý GDKNS tại các trường  THCS trên địa bàn quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh với những nội dung  như: sự quan tâm của các lực lượng QLGD đối với công tác GDKNS cho HS; việc tổ  chức hoạt động GDKNS cho HS; kết quả GDKNS cho HS trong quá trình học tập,  rèn luyện ở các nhà trường.  5. Giả thuyết khoa học GDKNS cho học sinh THCS là GD khả năng hành động, tự chủ, thích ứng tốt  với môi trường sống, ứng xử hợp lý với các mối quan hệ xã hội. GDKNS vừa được  tiến hành một cách độc lập, vừa được lồng ghép với các môn học và hoạt động  chính trị xã hội của HS. Nếu các chủ thể quản lý trong nhà trường thống nhất được  nhận thức của các lực lượng sư phạm về mục tiêu, nội dung, phương pháp GDKNS;  nêu cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, của GVCN, có định hướng rõ về  việc lồng ghép nội dung GDKNS với các môn học và các hoạt động chính trị xã hội  của nhà trường thì công tác GDKNS sẽ được quản lý tốt, phát huy được hiệu quả. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
  14. Phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa  Mác­Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt  Nam, Luật Giáo dục, Nghị quyết, Chỉ thị, Hướng dẫn của các cấp về giáo dục ­ đào  tạo và quản lý giáo dục ­ đào tạo nói chung và GD phổ thông nói riêng. Phương pháp nghiên cứu: ­ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đề tài sử dụng các phương pháp phân  tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá, phương pháp logic, lịch sử, hệ thống cấu  trúc, so sánh để nghiên cứu các văn bản, chỉ thị, báo cáo, nghị quyết của Đảng, quy  định của Nhà nước về vấn đề GDKNS cho HS. Phân tích và tổng hợp những kết  quả nghiên cứu lý thuyết, những khảo sát đánh giá, những tư liệu, sách báo, tài liệu lý  luận trong nước và nước ngoài về GDKNS cho học sinh THCS để xây dựng cơ sở lý  luận cho vấn đề nghiên cứu. ­ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phương pháp phỏng vấn: Phương pháp được thực hiện nhằm tìm hiểu  thực trạng GDKNS cho học viên THCS và tìm hiểu ý kiến, thái độ của đối tượng  được phỏng vấn về vai trò của cán bộ quản lý, GVCN trong quản lý công tác  GDKNS và GDKNS cho học sinh THCS. + Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Phương pháp này được thực hiện  nhằm thu thập thông tin về thực trạng và vai trò của cán bộ quản lý, GVCN trong  quản lý công tác GDKNS và GDKNS cho học sinh THCS. + Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Phương pháp được thực hiện để đánh  giá tính khả thi của các giải pháp được đề xuất nhằm phát huy vai trò của cán bộ  quản lý, GVCN trong việc quản lý công tác GD, GDKNS cho học sinh THCS. ­ Phương pháp trắc nghiệm: Sử dụng một số bài trắc nghiệm được đề xuất  để phát huy vai trò của cán bộ quản lý, GVCN trong việc quản lý công tác GD,  GDKNS cho học sinh THCS. + Phương pháp thống kê: Sử dụng phương pháp thống kê để xử lý  các kết quả thực nghiệm và kết quả điều tra bằng phiếu hỏi từ đó tổng 
  15. hợp và xử lý kết quả bằng phương pháp thống kê để rút ra những kết  luận và đánh giá khoa học.  7. Ý nghĩa của luận văn Góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận QLGD từ thực tiễn quản lý GDKNS cho  HS các trường THCS ở một quận trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Góp phần cung cấp những luận cứ khoa học giúp các cấp quản lý trường  THCS vận dụng đề ra các biện pháp quản lý GDKNS ở các trường phổ thông nói  chung, THCS nói riêng. 8. Cấu trúc của luận văn Gồm có phần mở đầu; 2 chương, 5 tiết; kết luận, kiến nghị; danh mục tài  liệu tham khảo và phụ lục.
  16. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC  KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN  ĐỊA BÀN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1.1. Giáo dục kỹ năng sống và quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học  sinh trung học cơ sở trên địa bàn quận Phú Nhuận 1.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ  sở  quận   Phú Nhuận Cũng như học sinh THCS trong cả nước, học sinh THCS trên địa bàn quận  Phú Nhuận bao gồm các em HS từ lớp 6 đến lớp 9, tuổi từ 11 đến 15, 16 tuổi. Đây là  lứa tuổi vị thành niên, lứa tuổi có vị trí đặc biệt quan trọng trong thời kỳ phát triển  của các em; là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được phản  ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi  khủng hoảng”, “tuổi bất trị”[51]. Đây là lứa tuổi có bước phát triển nhảy vọt cả về thể chất lẫn tinh  thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển  cao hơn (người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong  mọi mặt phát triển: thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức… của thời kỳ này. Ở lứa tuổi của các em học sinh THCS có sự tồn tại song song “vừa tính  trẻ con, vừa tính người lớn”, điều này phụ thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ  về cơ thể, sự phát dục, điều kiện sống và hoạt động cụ thể. Đồng thời, ở  cùng một độ tuổi nhưng do hoàn cảnh điều kiện sống, hoạt động, sinh hoạt khác  nhau nên các em có mức độ phát triển khác nhau trong quá trình trưởng thành, trong  quá trình trở thành người lớn. Có rất nhiều y ếu t ố tác động kìm hãm sự phát triển trở thành người  lớn của các em. Đó là yêu cầu chú tâm vào việc học tập, không đòi hỏi phải có  những nghĩa vụ khác, nhiều bậc cha mẹ có xu thế không muốn cho các em  tham gia vào các hoạt động, làm những công việc khác nhau của gia đình, nhà 
  17. trường và của xã hội. Bên cạnh những yếu tố tác động kìm hãm, các em cũng đang  chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tích cực, thúc đẩy sự phát triển trở thành người  lớn. Đó là sự gia tăng về thể chất, về GD, nhiều bậc cha mẹ quá bận, gia đình  gặp khó khăn trong đời sống đòi hỏi các em phải lao động nhiều để sinh sống.  Điều đó làm cho các em sớm có tính độc lập, tự chủ hơn, tự khẳng định mình  hơn... Quá trình phát triển ở lứa tuổi học sinh THCS có thể xảy ra theo các hướng  sau: ­ Một số em, tri thức sách vở giúp các em mở rộng tầm hiểu biết, song  còn nhiều mặt trong đời sống thực tế thì các em hiểu biết hạn chế, thậm chí rất  ít, chưa được định hình. ­ Có những em ít quan tâm đến việc học tập ở nhà trường, mà chỉ quan  tâm đến những vấn đề cuộc sống, sở thích cá nhân, làm thế nào cho phù hợp với   “mốt”, coi trọng việc giao tiếp với người lớn, với bạn lớn tuổi để bàn bạc,  trao đổi với họ về các vấn đề trong cuộc sống để tỏ ra mình cũng như người  lớn, đã trưởng thành, đã có thể độc lập trong suy nghĩ và hành động. ­ Ở một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài, nhưng  thực tế đang cố gắng rèn luyện mình có những đức tính của người lớn như:  dũng cảm, tự chủ, độc lập, e ấp, dịu dàng, … không còn quan hệ với bạn  khác phái như trẻ con. Lứa tuổi của các em học sinh THCS là lứa tuổi ­ thời kỳ giữ vị trí quan trọng  trong quá trình phát triển nhân cách. Đó là thời kỳ từng bước hình thành quan điểm  xã hội và đạo đức nhân cách làm cơ sở tiếp tục phát triển trong lứa  tuổi thanh  niên [52]. Với đặc điểm tâm, sinh lý của lứa tuổi học sinh THCS, đặt trong điều kiện  kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của một trong những quận trung tâm của thành phố  Hồ Chí Minh với những tác động đa chiều, cả tích cực và tiêu cực đang đặt ra đối với  các em phải có KNS cần thiết; đặt ra trước các nhà trường, các nhà quản lý phải làm  tốt việc GDKNS cho các em. Phải chuẩn bị cho các em một cách chu đáo nhất để 
  18. làm chủ được bản thân trong một xã hội đầy biến động hiện nay. 1.1.2. Các khái niệm về  Kỹ  năng sống và quản lý giáo dục kỹ   năng sống cho học sinh trung học cơ sở” Khái niệm kỹ năng sống của học sinh trung học cơ sở KNS (life skills) là cụm tự được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi trong  lĩnh vực hoạt động. “KN” gợi lên khả năng thao tác, thực hiện chính xác một hoạt  động nào đó. Hiện nay, xung quanh khái niệm KNS, còn có nhiều định nghĩa khác  nhau: UNESCO dựa trên cơ sở 4 mục tiêu cơ bản của việc học: “Học để biết ­ Học  để làm ­ Học để là chính mình ­ Học để cùng chung sống”, đã đưa ra định nghĩa  “KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc  sống hàng ngày” [53]. Theo quan niệm của UNESCO [54], KNS gồm: ­ Các KN cơ bản: KN đọc, viết, tính toán cho các chức năng hàng ngày.  Những KN này không mang đặc trưng tâm lý mà là nền tảng cho những năng lực  thực hiện các chức năng của cuộc sống. ­ Các KN chung: (KN nhận thức, KN cảm xúc, KN xã hội) như các KN ra  quyết định, KN tư duy phê phán, KN làm việc nhóm, KN giao tiếp …
  19. ­ Các KN trong tình huống, ngữ cảnh, vấn đề cụ thể của đời sống xã hội  như: các vấn đề về giới, giới tính; các vấn đề về phòng chống HIV/AIDS, ma túy,  rượu, thuốc lá; các vấn đề về môi trường, phòng chống bạo lực; các vấn đề về gia  đình, trường học; các vấn đề về sức khỏe và dinh dưỡng... Mỗi cá nhân phải có đầy đủ 3 nhóm kỹ năng thành tố nói trên trong sự thống  nhất và tính chỉnh thể chặt chẽ. WHO dựa trên lý thuyết học tập xã hội của Bandura (1977), tức là nhấn mạnh  sự học tập qua quá trình trải nghiệm của con người, qua sự tích lũy kinh nghiệm  sống, cấu trúc kinh nghiệm và chủ động nắm lấy kinh nghiệm, đã định nghĩa: “KNS  là những năng lực giao tiếp đáp ứng và những hành vi tích cực của cá nhân có thể  giải quyết có hiệu quả những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” (life  skills as “ abilies for adaptive and positive behaviour that anable individuals to deal  effectively with the demands and challenges of everyday life”) [42]. Cụ thể hơn thì  KNS là một nhóm các nhận thức, khả năng cá nhân có thể giúp con người tạo ra  những quyết định đúng đắn. giải quyết vấn đề, suy nghĩ một cách sáng tạo và có phê  phán, giao tiếp hiệu quả, xây dựng các mối quan hệ lành mạnh, biết thông cảm với  người khác, biết sắp xếp cuộc sống của mình theo cách khỏe mạnh và hiệu quả.  Theo quan niệm của WHO [42], các KNS được phân loại thành 3 nhóm: ­ Nhóm các KN nhận thức gồm KN tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác  định giá trị, tư duy sáng tạo, tư duy phê phán, ra quyết định, giải quyết vấn đề  … ­ Nhóm các KN xã hội gồm KN giao tiếp, KN cảm thông, KN hợp tác, KN  làm việc nhóm ,… ­ Nhóm các KN cảm xúc gồm KN ứng phó với cảm xúc, KN ứng phó với  căng thẳng, tự giám sát và điều chỉnh cảm xúc… UNICEF quan niệm: “KNS là những KN tâm lý xã hội có liên quan đến tri  thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các  cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của  cuộc sống” [54]. GD dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay một sự  phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi. Ngắn 
  20. gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ  gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm  như thế nào). Quan niệm của UNICEF chỉ rõ KNS được phân thành 3 nhóm: ­ Nhóm KN xã hội gồm KN giao tiếp (Truyền thông bằng lời và không bằng  lời; Lắng nghe tích cực; Biểu lộ cảm xúc, phản hồi; KN quan hệ, tương tác liên nhân  cách), KN đàm phán, thương lượng, từ chối (Thương lượng và xử lý mâu thuẫn; KN  tự khẳng định; KN từ chối), KN quan hệ xã hội, KN làm việc nhóm/hợp tác, KN  thấu cảm, KN động viên (KN ảnh hưởng và thuyết phục; KN tạo mạng lưới và  động viên). ­ Nhóm KN phát triển nhận thức gồm KN ra quyết định và giải quyết vấn đề,  KN thu thập thông tin (Đánh giá hệ quả tương lai của những hành động hiện tại với  bản thân và người khác; Xác định các giải pháp khác nhau cho vấn đề; KN phân tích  ảnh hưởng của các giá trị, thái độ, động cơ của bản thân và người khác), KN suy nghĩ  có phán đoán, KN tư duy sáng tạo. ­ Nhóm KN đối phó với cảm xúc và làm chủ bản thân gồm KN quản lý căng  thẳng (Quản lý thời gian; Tư duy tích cực; Kỹ thuật cơ bản) KN quản lý cảm xúc  (Làm chủ sự tức giận; Xử lý những đau buồn và lo âu; Đối phó với những mất mát,  lạm dụng , chấn thương), KN tự điều chỉnh (Ý thức về giá trị bản thân/ KN xây  dựng sự tự tin; Ý thức về bản thân, bao gồm ý thức về quyền, ảnh hưởng, giá trị, thái  độ, mặt mạnh, mặt yếu của bản thân). Tuy còn có sự khác nhau về quan niệm KNS, nhưng các tổ chức UNESCO,  WHO và UNICEF đều đã thống nhất 10 KNS cơ bản, được xem như cần thiết nhất  cho tất cả mọi người, trong đó có học sinh THCS: KN ra quyết định; KN giải quyết  vấn đề; KN tư duy sáng tạo; KN tư duy phê phán/ suy nghĩ có phán đoán; KN truyền  thông có hiệu quả; KN giao tiếp giữa người và người; KN tự nhận thức bản năng;  Khả năng thấu cảm; KN ứng phó với cảm xúc; KN ứng phó với stress. Hiện nay, ở trong nước cũng có nhiều quan niệm khác nhau về KNS.  Trong bài viết “Khái niệm KNS nhìn từ góc độ tâm lý học”, GS. Nguyễn  Quang Uẩn, ĐHSP Hà Nội đã xem xét KNS dưới góc độ tâm lý học, tác giả 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1