intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:122

32
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn này nhằm đề xuất tăng cường các biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của Luận văn này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ LAI HỒNG HẢI BIỆN PHÁP TỔ CHỨC PHỐI HỢP  CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC TRẺ EM  ĐƯỜNG PHỐ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ  MINH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
  2. HÀ NỘI ­ 2013
  3. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ LAI HỒNG HẢI BIỆN PHÁP TỔ CHỨC PHỐI HỢP  CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC TRẺ EM  ĐƯỜNG PHỐ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ  MINH HIỆN NAY Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số: 60 14 01 14 Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG THÀNH TRUNG
  4. HÀ NỘI ­ 2013
  5. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ   SỞ   LÝ   LUẬN   VÀ   THỰC   TIỄN   VỀ   TỔ  13 CHỨC   PHỐI   HỢP   CÁC   LỰC   LƯỢNG   GIÁO  DỤC TRẺ  EM ĐƯỜNG PHỐ   Ở  THÀNH PHỐ  HỒ CHÍ MINH 1.1 Các khái niệm cơ bản của đề tài 13 1.2 Đặc điểm hoạt động của các lực lượng giáo dục trẻ    em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh 19 1.3 Thực trạng tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục  25 trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh Chương 2 YÊU   CẦU   VÀ   BIỆN   PHÁP   TỔ   CHỨC   PHỐI  47 HỢP CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC TRẺ  EM  ĐƯỜNG PHỐ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1 Yêu cầu tổ  chức phối hợp các lực lượng giáo dục  47 trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh 2.2 Những biện pháp cơ  bản tổ  chức phối hợp các lực   54 lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí  Minh 2.3 Khảo nghiệm tính cấp thiết và khả  thi của các biện  71 pháp KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ  80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 PHỤ LỤC 87
  6. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đảng và Nhà nước ta coi “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng   đầu”, là nền tảng và động lực của sự phát triển đất nước. Vì vậy, Đại hội  Đảng toàn quốc lần thứ  XI đã xác định phải “   Đổi mới căn bản và toàn   diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội;... Đẩy mạnh   xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được   học tập suốt đời”  [15, tr. 77]. Việc thực hiện chủ  trương đó mở  ra triển  vọng cho mọi thành phần trong xã hội, kể  cả  các nhóm yếu thế, bị  tổn   thương như trẻ em đường phố có được nhiều cơ hội hơn để  tiếp nhận sự  giáo dục theo những mục tiêu, nội dung, phương thức thích hợp. Là một thành phố  lớn của Việt Nam, thành phố  Hồ  Chí Minh đứng  đầu trong việc giao thương với các nước trên thế  giới, một thành phố  văn  minh, hiện đại, kinh tế, văn hóa, xã hội không ngừng phát triển. Vì vậy, nơi   đây trở  thành địa chỉ  có sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, cũng như  người lao động đến làm ăn, sinh sống. Nhưng bên cạnh đó, số  lượng trẻ  em lang thang, cơ  nhỡ  từ  nhiều vùng miền khác nhau cũng tìm đến Thành   phố  Hồ  Chí Minh để  kiếm kế  sinh nhai cũng khá lớn. Để  quản lý và giáo  dục đối tượng trẻ  em đường phố, nhiều tổ  chức, nhiều lực lượng, nhiều  nhà hảo tâm đã có những hình thức tập hợp, giúp đỡ  các em và đã đạt  những kết quả nhất định, nhưng hiệu quả giáo dục trẻ em đường phố  còn  nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân của tình trạng đó là việc tổ  chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ  em đường phố  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh còn có những bất cập do sự  chồng chéo, phân tán trong hoạt  động, cần được giải quyết trên phương diện quản lý giáo dục.
  7. 4 Thực tế cho thấy, việc quản lý giáo dục trẻ em đường phố nếu được  tiến hành tốt thì sẽ góp phần rất tích cực vào việc bảo đảm trật tự, trị an,   xây dựng thành phố văn minh, lịch sự, đồng thời trẻ em có cơ hội thuận lợi   hơn để  phát triển nhân cách, trở  thành những công dân tốt, có khả  năng  bổ sung vào nguồn nhân lực cho sự phát triển xã hội. Quan tâm đến tổ chức  phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ  em đường phố  sẽ  tạo nên sự  đồng  tâm, hợp lực của toàn xã hội trong việc đảm bảo công bằng xã hội trong   giáo dục, vì vậy các chủ  thể  quản lý giáo dục phải thực sự  chăm lo đến  vấn đề này. Hiện nay, những công trình nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh về  giáo dục trẻ em có rất nhiều, nhưng chủ yếu là giáo dục trong gia đình, nhà  trường chính quy, còn những công trình nghiên cứu về  giáo dục trẻ  em  đường phố  chưa nhiều. Trên phương diện khoa học quản lý giáo dục,   những nghiên cứu về tổ chức phối hợp hoạt động của các chủ thể giáo dục   trẻ  em đường phố   ở  thành phố  Hồ  Chí Minh chỉ  mới đề  cập những khía  cạnh cụ thể của sự hợp tác giữa một vài lực lượng nhất định trên địa bàn   hẹp. Xuất phát từ  thực tế  đó, chúng tôi chọn đề  tài: “Biện pháp tổ  chức   phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ  em đường phố   ở  thành phố  Hồ  Chí   Minh hiện nay” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề  giáo dục,  rèn luyện thế hệ trẻ, Người coi “ Thanh thiếu niên là người tiếp sức cách   mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế   hệ  thanh thiếu niên tương lai”. Và trong mọi công việc, thanh niên là lực 
  8. 5 lượng có khả năng thực hiện khẩu hiệu: “Đâu cần thì thanh niên có , việc   gì khó thì thanh niên làm” [ 42, tr. 129, 288 ]. Hồ  Chí Minh luôn nhắc nhở  toàn Đảng, toàn dân ta phải xem trọng và có trách nhiệm trong giáo dục,   đào tạo thế  hệ  trẻ, vì vậy phải có sự  chung tay, góp sức của mọi người,   mọi nhà vào sự  nghiệp giáo dục để  mọi đối tượng trẻ  em đều được học  hành, tiến bộ. Để  mở  mang giáo dục cho mọi người, đặc biệt cho thế  hệ  trẻ, Hồ  Chí Minh đã thường xuyên chú trọng chỉ  đạo xây dựng hệ  thống  giáo dục và đào tạo, với nhiều quy mô và loại hình tổ  chức trường, lớp  khác nhau, đáp ứng yêu cầu từ thực hiện xoá mù chữ, bổ  túc văn hoá, phổ  cập giáo dục, đào tạo nghề. . . đến đào tạo chính quy, chất lượng cao ở tất  cả  các bậc học. Những tư  tưởng của Hồ  Chí Minh về  tổ  chức hệ  thống   giáo dục và việc huy động sức mạnh  của toàn xã hội vào sự  nghiệp giáo   dục, đào tạo thế hệ trẻ có thể coi là quan điểm chỉ đạo hết sức quan trọng   cho hoạt động thực tiễn, cũng như nghiên cứu lý luận về tổ chức phối hợp  các lực lượng giáo dục trong xã hội  ở Việt Nam. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về mở mang giáo dục, bảo đảm cơ  hội bình đẳng cho mọi người được học hành, nhiều nhà khoa học về  giáo  dục và quản lý giáo dục  ở  nước ta đã nghiên cứu và công bố  những công  trình khoa học về quản lý giáo dục. Các công trình của các tác giả đã được   công bố  như: Nguyễn Ngọc Quang “Những khái niệm cơ  bản về  quản lý   giáo dục”, Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 1998; Đặng  Quốc Bảo “Một số  khái niệm về  quản lý giáo dục”, Trường cán bộ  quản  lý giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 1997; Trần Kiểm, “Khoa học quản lý giáo   dục – một số vấn đề  lý luận và thực tiễn ”, Nxb Giáo dục, 2004; Đặng Bá  lãm “Quản lý nhà nước về giáo dục, lý luận và thực tiễn”, Nxb CTQG, Hà  Nội, 2005; Bùi Minh Hiền “Quản lý giáo dục”, Nxb Đại học Sư  phạm, 
  9. 6 2006, Đỗ  Minh Cương, Phương Kỳ  Sơn “ Các học thuyết quản lý”, Nxb  CTQG, Hà Nội, 1996. Các công trình nghiên cứu của các tác giả  tập trung luận giải nhiều   vấn đề, nhiều nội dung cơ bản như: Vai trò quản lý, quản lý giáo dục, khái  niệm về quản lý, khoa học quản lý giáo dục, bản chất, chức năng, phương  pháp quản lý giáo dục. Các thông tin trong quản lý, công cụ  quản lý giáo  dục, quản lý tài chính, quản lý cơ  sở  vật chất kỹ  thuật trong giáo dục,   quản lý chất lượng giáo dục. Xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ  quản lý   giáo dục, xây dựng văn hóa trong quản lý giáo dục, các mô hình quản lý  giáo dục, phân cấp trong quản lý giáo dục, thực trạng công tác quản lý nhà  nước về giáo dục, một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý giáo dục, quản  lý giáo dục trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa. Chúng ta đang sống trong một kỷ  nguyên của sự  tiến bộ  khoa học  công nghệ  và khuynh hướng toàn cầu hoá, do đó nhu cầu của con người  ngày càng phong phú và đa dạng, trong đó nhu cầu mở  mang tri thức, phát   triển năng lực đang trở nên cấp thiết đối với từng các nhân, cũng như cả xã   hội. Điều đó thúc đẩy hình thành một xã hội học tập, làm cho học và lao  động nhập, đan xen vào nhau, buộc các cá nhân phải học suốt đời để  tồn  tại và phát triển trong xã hội không ngừng đổi mới. Trước bối cảnh đó,  giáo dục cho mọi người (EFA: Education For All) đang trở thành mối quan   tâm hàng đầu của nhiều quốc gia. UNESCO đã tổ  chức nhiều Hội nghị  quốc tế bàn về  giáo dục: Năm 1990 tại Jomtien (Thái Lan) đã diễn ra Hội  nghị  về  “Giáo dục cho mọi người”; năm 1996 tại Amman (Jordanie) Hội  nghị  “Giáo dục cho mọi người” đã tuyên bố: “ Giáo dục cho mọi người:   một mục tiêu trong tầm tay chúng ta”. Đáp  ứng đòi hỏi bức thiết về  thực   hiện mục tiêu “Giáo dục cho mọi người” nhiều quốc gia đã quan tâm mở 
  10. 7 rộng xã hội hoá giáo dục, thu hẹp bất bình đẳng về  giáo dục, từng bước  khắc phục tình trạng trẻ em lang thang không được đi học. Ở Việt Nam thời gian qua, trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo chúng ta  đã thu được những thành tựu to lớn về phát triển quy mô, loại hình đào tạo,  đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, cũng như huy động các lực lượng  trong xã hội tham gia vào sự  nghiệp giáo dục. Trong bối cảnh đó, nhiều   công trình nghiên cứu về  quản lý giáo dục đã được thực hiện nhằm góp  phần luận giải cơ  sở  khoa học cho những chủ  trương, giải pháp đổi mới  giáo dục, đào tạo. Trong số đó có không ít công trình bàn về biện pháp phối  hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để giáo dục thế hệ trẻ. Chẳng hạn  như: Đề  tài “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài’ giờ  lên lớp   trường Trung học Phổ thông Kiến An thành phố Hải phòng” luận văn Thạc  sỹ của tác giả Phạm Trung Diện [8]; nghiên cứu: “Quản lý sự phối hợp các   lực lượng giáo dục đạo đức cho học sinh của Hiệu trưởng Trung học Cơ   sở huyện Vũ Thư, Thái Bình” luận văn thạc sỹ Đoàn Thị Thu Hà [24]; đề tài  “  Các biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo  đức của Hiệu trưởng   trường Trung học phổ  thông tỉnh Hưng Yên” luận văn thạc sỹ  Đỗ  Quang  Hợp [26] . Theo tác giả luận văn Phạm Trung Diện, mục tiêu của Giáodục phổ  thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,   thẩm mỹ  và các kỹ  năng cơ  bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng  động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người, xây dựng tư  cách và   trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục lên đi vào cuộc sống   lao động, tham gia bảo vệ  Tổ  quốc. Để  đạt được mục tiêu giúp học sinh  phát triển toàn diện, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ  nghĩa, ngoài việc đẩy mạnh hoạt động dạy học nhằm truyền thụ kiến thức 
  11. 8 cơ  bản và có hệ  thống còn phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức nhằm hình  thành cho học sinh về ý thức và niềm tin, về thái độ ứng xử đúng đắn trong  các mối quan hệ  xã hội, về  hành vi và các kỹ  năng sống ... bằng các tác   động của nhiều lực lượng giáo dục cả trong và ngoài nhà trường. Tác giả  luận văn Đoàn Thị  Thu Hà cho rằng, muốn phát triển con   người toàn diện, đặc biệt khai thác phát triển tâm lực trong bối cảnh xã hội   đan xen, giao thoa các yếu tố  tích cự  và tiêu cực. . . thì cần tổ  chức xây  dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện, huy động thống nhất mọi   tiềm lực xã hội. Trong môi trường giáo dục đó nhà trường, gia đình và xã  hội giữ vai trò quan trọng đối với sự  phát triển nhân cách của trẻ  em và là   nhân tố cốt lõi của mối liên kết các lực lượng giáo dục học sinh. Theo tác giả  Đỗ  Quang Hợp, đạo đức là những chuẩn mực của xã  hội, là thước đo giá trị nhân cách của con người. Các phẩm chất đạo đức là  một bộ phận của nhân cách con người. Đạo đức là cái gốc, là cái lõi nhất  của con người. Giáo dục phổ  thông không chỉ  cung cấp kiến thức mà còn   cần phải phát triển các kỹ  năng, hệ  thống thái độ, tính cảm, niềm tin để  các em trở  thành chủ  nhân của đất nước, xây dựng cuộc sống hạnh phúc,  văn minh. Giáo dục đạo đức khác với quá trình dạy học của các môn văn   hóa vì đó là quá trình xã hội hóa, vì vậy cần có sự tham gia rộng rãi của gia   đình và các lực lượng xã hội để  giáo dục không chỉ  trong khuôn viên nhà  trường mà còn là các hoạt động ngoài giờ học, cần phải tổ chức quản lý sự  phối hợp giữa nhà trường với gia đình để  tạo ra sự  đồng thuận thực hiện  mục tiêu giáo dục. Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có rất nhiều bài viết của   các nhà khoa học, các tác giả  về  công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đã  được đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu, hội thảokhoa học đã được công bố. 
  12. 9 Các công trình đã đề cập đến mục đích, vị trí, vai trò của công tác quản lý  giáo dục, phối hợp các lực lượng giáo dục, trong đó có những chương trình,  dự  án dành cho các trẻ  em có hoàn cảnh khó khăn.  Ở  đây có thể  kể  đến  “Giải pháp tổ chức quản lý các lớp học tình thương tại thành phố  Hồ Chí   Minh” luận văn thạc sỹ của Lê Thị Xuân Lang [32] . Tác giả cho rằng ở các   nước trên thế  giới, kể  cả  các nước đang phát triển, đời sống kinh tế  cao  nhưng vẫn có một bộ phận trẻ em nghèo khó. Hiện nay, trên thế giới có tới  130 triệu trẻ  em trong độ  tuổi tiểu học không được đi học.  Ở  Việt Nam   các loại hình trường, lớp phổ  cập,lớp học tình thương là loại hình không   chính qui đã thu hút một số  lượng lớn trẻ  em có hoàn cảnh đặc biệt khó  khăn vào học, khi các em không thể  đến trường, lớp chính qui. Hệ  thống   quản lý giáo dục phải chỉ  đạo thống nhất hoạt động của các loại hình  trường, lớp đó. Qua đó cho thấy, đã có một số  đề  tài, chuyên đề  và bài viết nghiên   cứu và luận giải trên nhiều góc độ khác nhau về quản lý giáo dục, quản lý  và phối hợp các lực lượng giáo dục. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập  trung nghiên cứu về công tác phối hợp các lực lượng giáo dục dành cho trẻ  em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn tổ chức phối hợp các lực   lượng giáo dục trẻ em đường phố ở Thành phố. Từ đó đề xuất tăng cường   các biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố  ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu
  13. 10 ­ Nghiên cứu cơ sở  lý luận về tổ  chức phối hợp các lực lượng giáo  dục trẻ em đường phố. ­ Làm rõ thực trạng tổ chức phối hợp các lực lượnggiáo dục trẻ  em  đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh và nguyên nhân của thực trạng đó. ­ Đề xuất một số biện pháp cơ bản tổ chức phối hợp các lực lượng  giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu Qúa trình quản lý các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành  phố Hồ Chí Minh. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp tổ  chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ  em đường  phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Phạm vi nghiên cứu Dưới góc độ  khoa học quản lý giáo dục, đề  tài giới hạn nghiên cứu   về sự  tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục của các cơ  sở  bảotrợ, các  lớp học tình thương, lớp học ban đêm, trung tâm giáo dục thường xuyên,  trung tâm dạy nghề và giải quyết việc làm cho trẻ em đường phố (sau đây  gọi chung là các cơ  sở  giáo dục trẻ  em đường phố) tại thành phố  Hồ  Chí  Minh tồn tại trong khoảng thời gian từ 2007 đến 2012. 5. Giả thuyết khoa học Lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh rất  đa dạng về nguồn gốc, quy mô, cơ cấu tổ  chức, nội dung và phương thức  hoạt động. Nếu như các chủ thể quản lý giáo dục trẻ  em đường phố  thực  hiện tốt những biện pháp: kế  hoạch hóa việc phát triển lực lượng giáo  dục, xây dựng nền nếp phối hợp hoạt động giáo dục; tổ  chức các hoạt  
  14. 11 động chung; tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức xã hội và các nhà  trường trên địa bàn đối với các cơ  sở  giáo dục trẻ  em đường phố, thường   xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động hiệp đồng thực hiện nhiệm vụ  giáo  dục ­ đào tạo thì sẽ tăng cường được sự phối hợp giữa các lực lượng giáo  dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Đề  tài nghiên cứu dựa trên cơ  sở  phương pháp luận của chủ  nghĩa  Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan niệm của Đảng Cộng  sảnViệt Nam, nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của các cấpvề giáo dục – đào  tạo và quản lý giáo dục – đào tạo. Đề  tài nghiên cứu trên quan điểm hệ  thống – cấu trúc, đối chiếu – so sánh, lôgic – lịch sử và quan điểm thực tiễn  để xem xét, phân tích những vấn đề liên quan. Phương pháp nghiên cứu ­ Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Thực hiện việc đọc tài liệu, thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp,   hệ thống hoá, mô hình hoá, khái quát hoá các tài liệu liên quan phục vụ cho   mục đích và nhiêm vụ  nghiên cứu: Một số  tác phẩm kinh điển của chủ  nghĩa Mác – Lênin, Tư  tưởng Hồ  Chí Minh, các văn kiện, nghị  quyết của   Đảng, Bộ  Giáo dục và Đào tạo, Luật Giáo dục; sách tham khảo, tài liệu,   báo chí về khoa học quản lý và quản lý giáo dục, các công trình nghiên cứu  có liên quan đến đề tài  - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra: Điều tra xã hội học đối với trẻ em đường phố  và cán bộ quản lý giáo dục các cấp về tổ chức phối hợp các lực lượng giáo  dục trẻ em đường phố.
  15. 12 Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động giáo dục, học nghề, rèn  luyện trẻ em đường phố của các lực lượng giáo dục. Phương pháp toạ đàm, trao đổi: toạ đàm, trao đổi với cán bộ quản lý,   các nhà giáo dục và trẻ em đường phố. Phương pháp nghiên cứu từ các phương tiện quản lý: Nghiên cứu các   hệ  thống chương trình, qui trình, nội dung đào tạo, bài giảng, kế  hoạch  quản lý, hệ  thống sổ  sách của cán bộ  quản lý và kế  hoạch học tập công   việc của các em, trong đó chú trọng đến kế  hoạch quản lý các em của các  cán bộ và kế hoạch học tập, hoạt động sau bài giảng của các em. Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu những kinh nghiệm của  các tổ chức về quản lý hoạt động học tập của trẻ em đường phố tại thành  phố Hồ Chí Minh. Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản  lý về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan trong quá trình nghiên  cứu đề tài. Phương pháp thống kê toán học: Dùng để  tổng hợp kết quả điều tra   và xử lý số liệu. 7. Ý nghĩa của đề tài Về lý luận ­ Luận văn làm sáng tỏ  cơ  sở  khoa học của việc tổ  chức phối hợp   các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố. ­ Làm rõ khái niệm và đặc điểm hoạt động của các lực lượng giáo   dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh. Về thực tiễn ­ Chỉ ra thực trạng, nguyên nhân tổ chức phối hợp các lực lượng giáo  dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh.
  16. 13 ­ Đề  xuất một số  biện phápcơ  bản tổ  chức phối hợp các lực lượng  giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh. 8. Cấu trúc của luận văn Cấu trúc của đề tài bao gồm: Phần mở đầu, 2 chương ( 6 tiết ), kết  luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC PHỐI HỢP  CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC TRẺ EM ĐƯỜNG PHỐ 
  17. 14 Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài 1.1.1. Khái niệm về trẻ em đường phố Trẻ em Việt Nam Trước khi Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ra đời, “trẻ em” là   một khái niệm được mọi người trong xã hội hiểu theo nhiều cách khác  nhau, điều đó dẫn đến những khác biệt trong giải quyết vấn đề  “trẻ  em   trên cả  phương diện lý luận và thự  tiễn. Dựa trên cơ  sở  Công  ước Liên  hiệp quốc về Quyền trẻ em chúng ta đã dần thống nhất được khái niệm về  trẻ  em”. Theo điều 1 Công  ước này, “Trẻ  em có nghĩa là người dưới 18  tuổi, trừ  trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ  em đó qui định tuổi thành  niên sớm hơn” [50, tr.69]. Trẻ em của Việt Nam, trẻ em được hiểu là công dân nhỏ tuổi (dưới   16 tuổi) đang hình thành nhân cách, cần được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục   để  phát triển về  thái độ, kiến thức, kỹ  năng năng lực lao động và hoạt  động xã hội. Về  mặt xã hội học, trẻ  em được nhìn nhận như  là một nhóm nhân   khẩu đặc biệt, có độ tuổi từ 0 đến 16 tuổi đang trong quá trình xã hội hoá,   tức là có hoạt động chính tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm xã hội  để tham gia hoạt động với tư cách là một chủ thể xã hội. Trẻ em đường phố Theo UNICEF, trẻ  em đường phố  là những trẻ  tham gia vào hoạt  động kinh tế, dưới các hình thức từ ăn xin đến bán dạo để kiếm sống. Một  trong số  những trẻ  này có thể  trở  về  nhà vào cuối ngày, chúng góp phần  vào việc kiếm tiền cho gia đình, chúng cũng có thể  đi học, nhưng do đời 
  18. 15 sống kinh tế mong manh của gia đình nên cuộc sống của chúng diễn ra chủ  yếu ngoài đường phố. Trẻ em đường phố là trẻ sống ngoài đường phố, sống bên trong hay   bên ngoài một gia đình bình thường, nếu có sự hiện trong gia đình thì cũng  duy trì không thường xuyên. Trẻ  em đường phố  đa số  có nhiều  ở  tại các   thành phố lớn, đặc biệt tại các nước đang phát triển, chúng có thể là những  đối tượng bị  bỏ  rơi trong gia đình, bị  lạm dụng lao động, hay bị  khai thác  trong một số  vấn đề  nhạy cảm nào đó. . .Như  vậy có thể  hiểu,  trẻ  em   đường phố  là  trẻ  kiếm  sống ngoài  đường phố  trong  điều kiện  duy trì   không thường xuyên hoặc hoàn toàn thiếu vắng đời sống sinh hoạt gia   đình. Trẻ em đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh Ở thành phố  Hồ  Chí Minh, trẻ  em đường phố  đôi khi còn gọi là trẻ  bụi đời, phần lớn chúng thường bị bỏ rơi bởi các gia đình nghèo, con đông,  hoặc bởi các gia đình đã tan vỡ, không người nuôi dưỡng chúng. Khi đầu tư  nước ngoài bùng nổ   ở  đỉnh cao tại thành phố  cũng chính là lúc người ta   thấy có nhiều dòng nhập cư nhanh chóng của những lao động trẻ em. Đó là  những trẻ em bỏ nhà từ  nhiều miền quê khác nhau vào Thành phố Hồ Chí   Minh để làm việc nhằm phụ giúp gia đình. Họ thường làm những nghề trên  đường phố ( bán hoa, bán vé số, đánh giày. . .), hoặc ở những phân xưởng,   doanh nghiệp tư nhân. Phần lớn số trẻ em này không có việc làm ổn định,  chúng có thể lang thang sống trên đường phố, không có sự chăm sóc và bảo  vệ của gia đình. Cuộc sống của trẻ em đường phố thường diễn ra trong các  hàng quán, công viên hay  chính trên các  vỉa hè, chúng kiếm sống bằng   nhiều hình thức như: đánh giày, bán vé số, bán đồ  lưu niệm cho khách 
  19. 16 nước ngoài  ở  các khu phố  Tây hoặc làm nghề  lặt vặt như: khuân vát đồ  đạc ở chợ, xin ăn . . . Những trẻ  em này thường luôn di chuyển khu vực kiếm sống từ  phường này sang phường khác hoặc quận này sang quận khác, hoặc có thể  các em hoạt động trong một số  địa bàn định phù hợp với cách kiếm sống  của mình. Những nơi có đông trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh   là: Khu vực trung tâm thành phố (đường Nguyễn Huệ, Đồng Khởi, Nhà hát  Thành Phố), Chợ  Bến Thành Quận 1, phố  Tây Phạm ngũ Lão, Đề  Thám,  công viên 23/9, khu vực Chợ Lớn, Ga Sài Gòn , các bến xe Miền Tây, Miền  Đông; khu vực cầu Bình Triệu. . Trẻ  em đường phố  thuộc nhóm người yếu thế  trong xã hội, nhưng  chúng vẫn lớn lên và sẽ  là một lực lượng lao động không nhỏ. Vì vậy, xã  hội cần quan tâm giáo dục để  trẻ  em đường phố  trưởng thành tốt hơn.  Điều 28 Công ước Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em đã xác định: “Các quốc  gia thành viên công nhận quyền trẻ  em được học hành” [50, tr.91],  luật  pháp Việt Nam cũng đã qui định: “Trẻ em có quyền được học tập” [50, tr.  39]. Đây là sự  công nhận về  mặt pháp lý về  quyền được học tập của trẻ  em. Thực hiện “Hiến chương Liên Hiệp Quốc về  quyền trẻ  em” các  chính phủ thường giải quyết vấn đề quản lý trẻ em đường phố  bằng cách  tập trung các em vào các trại mồ  côi, nhà trẻ  hay các nhà dành cho trẻ  vị  thành niên, tuy nhiên, một số em lại lẩn tránh sự quản lý, bỏ chạy khỏi các   cơ sở đó. Điều đó đặt ra vấn đề là, để giáo dục tốt trẻ em đường phố  cần  phải đẩy mạnh tuyên truyền, thu hút, tập hợp các em vào những mô hình   quản lý, chăm sóc thích hợp nhằm giảm bớt tình trạng sốnglang thang, cách 
  20. 17 ly các em khỏi đời sống đường phố,đồng thời tổ  chức giáo dục cho đối   tượng này theo những nội dung, phương thức thích hợp. 1.1.2 Khái niệm về lực lượng giáo dục trẻ em đường phố Theo dữ liệu của Streets Educators’Club, số lượng các trẻ em đường  phố   ở  thành phố  Hồ  Chí Minh năm 2007 có khoảng 8.000 em, đến nay số  lượng trẻ  em đường phố  vẫn còn rất đông đảo. Để  quản lý, giáo dục số  trẻ  em đường phố, các cấp chính quyền có trách nhiệm chăm lo công tác  phổ cập giáo dục, đồng thời động viên, tổ chức các lực lượng, đoàn thể xã  hội trên địa bàn tham gia vào giáo dục các em. Các ban ngành, đoàn thể, tổ  chức xã hội, tổ dân phố  tham gia có hiệu quả  vào giáo dục, vận động các  gia đình nghèo, gia đình khó khăn cho con em đi học, đồng thời là lực lượng  phối hợp, vận động tại địa bàn các nhà hảo tâm hổ  trợ  vật chất, nhân lực   để mở các lớp tình thương, các hoạt động nhân đạo dành cho trẻ em đường   phố. Các tổ  chức nhân đạo giúp đỡ,  ủng hộ  các trẻ  em đường phổ  về  tài   chính và các điều kiện sinh hoạt... Tất cả những sự giúp đỡ  tạo điều kiện  đó đã đưa tới hình thành những cơ  sở  giáo dục trẻ em đường phố  như  các  cơ  sở  bảo trợ, các mái  ấm, nhà mở, các lớp học tình thương, lớp học ban   đêm, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm dạy nghề  và giải quyết  việc làm cho trẻ  em đường phố... Để  tiến hành các hoạt động giáo dục,  dạy học cho trẻ em đường phố tại các cơ sở này cần có các cán bộ quản lý   giáo dục, các giáo viên. . . Những người này tạo thành lực lượng giáo dục   trẻ em đường phố. Như vậy có thể nói: Lực lượng giáo dục trẻ em đường phố là những   tổ  chức và cá nhân tham gia trực tiếp vào các hoạt động quản lý và giáo   dục nhằm nâng cao trình độ  học vấn, chuẩn bị  nghề  nghiệp,  hoàn thiện  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2