Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất một số biện pháp phát triển các trường mầm non nhằm đảm bảo quy mô, chất lượng giáo dục mầm non của Tỉnh đến năm 2020; góp phần sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bạc Liêu. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ CAO XUÂN THU VÂN PHÁT TRIỂN CÁC TRƯỜNG MẦM NON TỈNH BẠC LIÊU ĐẾN NĂM 2020 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2013
- 1 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ CAO XUÂN THU VÂN PHÁT TRIỂN CÁC TRƯỜNG MẦM NON TỈNH BẠC LIÊU ĐẾN NĂM 2020 CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC MÃ SỐ: 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH VĂN HỌC HÀ NỘI - 2013
- 2 MỤC LỤC Tran g MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT 16 TRIỂN CÁC TRƯỜNG MẦM NON TỈNH BẠC LIÊU ĐẾN NĂM 2020 1.1 Một số khái niệm cơ bản 16 1.2 Thực trạng phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc 25 Liêu hiện nay. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế Chương 2 DỰ BÁO NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU 40 CẦU VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC TRƯỜNG MẦM NON TỈNH BẠC LIÊU ĐẾN NĂM 2020 2.1 Dự báo những yếu tố tác động và yêu cầu phát triển các 40 trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020 2.2 Biện pháp phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu 49 đến năm 2020 2.3 Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện 68 pháp phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77 PHỤ LỤC 81
- 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế kỷ 21, con người được coi là vị trí trung tâm, là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định mục tiêu của sự nghiệp phát triển xã hội. Tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “Thực sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển” [10, tr.7]. Trong hệ thống các bậc học, giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên có nhiệm vụ quan trọng là hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em (từ 03 tháng đến 06 tuổi) là vô cùng quan trọng vì phần lớn nhân cách, kỹ năng sống ở một người bình thường gần như được hình thành trong vòng năm năm đầu tiên của cuộc đời. Giáo dục mầm non đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mĩ của trẻ. Theo các chuyên gia trong ngành giáo dục thì trẻ được tiếp cận với bậc học mầm non càng sớm thì càng thúc đẩy quá trình học tập và phát triển ở các giai đoạn tiếp theo. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của bậc học có nhiều nét đặc thù này nên việc phát triển giáo dục mầm non một cách vững chắc là yêu cầu bức thiết, góp phần tạo nền tảng cho sự phát triển nguồn lực con người chất lượng cao. Việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, của toàn dân và xã hội. Lứa tuổi mầm non có vị trí rất quan trọng trong suốt quá trình phát triển cuộc đời của mỗi con người, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học về sự phát triển đặc biệt của não bộ trong những năm đầu tiên của cuộc đời, khiến chính phủ nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam ngày càng quan tâm đến phát triển giáo dục mầm non.
- 4 Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương chính sách về phát triển giáo dục mầm non. Nhận thức của xã hội về vai trò, vị trí giáo dục mầm non ngày càng được nâng cao. Tỉnh Bạc Liêu thời gian qua cũng như các địa phương khác luôn quan tâm, chăm lo, ưu tiên đầu tư nguồn lực phát triển giáo dục mầm non và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tính đến năm học 2010 - 2011 trên địa bàn Tỉnh có 79 trường mầm non, mẫu giáo (04 trường mầm non tư thục), 100,0% xã phường có trường mầm non mẫu giáo, số trẻ đến trường đạt 7,36%, trẻ 03 - 05 tuổi đạt 60,77%, riêng trẻ 05 tuổi đạt 85,4%; trình độ cán bộ quản lý đạt chuẩn 100,0%, giáo viên mầm non đạt chuẩn 99,48%, riêng giáo viên mầm non tư thục đạt chuẩn 67,0%… .Tuy nhiên, trong thực tế giáo dục mầm non hiện nay chưa được quan tâm đúng mức, mặc dù đã được đưa vào hệ thống giáo dục quốc dân, nhưng hiện nay bậc học mầm non cả nước, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long trong đó có Bạc Liêu đang thiếu thốn trường lớp, đồ dùng dạy học, đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên y tế và nhân viên dinh dưỡng, nên không thể đáp ứng 100,0% trẻ mầm non có nhu cầu đi học được tiếp nhận mà phải dành ưu tiên cho nhóm trẻ 05 tuổi để đạt mục tiêu phổ cập trẻ 05 tuổi, chuẩn bị vào lớp 01; mặt khác, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn đào tạo khá cao, nhưng phần lớn được đào tạo “chấp vá” và qua nhiều thế hệ, nhiều loại hình đào tạo nên năng lực thực tế chưa tương thích với trình độ đào tạo. Trong khi đó mạng lưới trường mầm non chưa đáp ứng yêu cầu, nơi có trường thì không đủ lớp học hoặc có đủ lớp học thì lại thiếu phòng chức năng; ngược lại nơi có trường lớp đầy đủ lại thiếu giáo viên, do nhiều nguyên nhân trong đó có việc đào tạo giáo viên mầm non vừa qua còn nhiều bất cập, chế độ cho người dạy quá thấp, công tác xã hội hóa giáo dục mầm non, nhất là chính sách thu hút đầu tư nhân lực thực hiện chưa tốt, sự quan tâm đầu tư dành cho bậc học này so với bậc học khác khá khiêm tốn, hầu hết trường mầm non công lập đều quá tải.
- 5 Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: trẻ em như búp trên cành; biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan và Công ước Quốc tế về quyền trẻ em mà nước ta tham gia và ký kết cũng nêu khá rõ về quyền trẻ em, trong đó có quyền được học hành đầy đủ… Việc thực hiện quyền thiêng liêng cho trẻ cùng với chiến lược đào tạo con người ngay từ khi chập chững biết đi là rất quan trọng. Vì vậy, không thể xem nhẹ việc giáo dục, đào tạo ở bậc học này. Để giải quyết được những bức xúc trên thì giải pháp duy nhất vẫn là quan tâm một cách đồng bộ với mức độ đầu tư cao, nhất là đầu tư, xây dựng cở sở vật chất cho các trường mầm non, trong đó đặc biệt quan tâm đến những địa bàn đang xảy ra tình trạng “cung không đủ cầu”, có vậy mới mong thực hiện được phổ cập giáo dục mầm non trong tương lai. Do vậy, việc đầu tư phát triển các trường mầm non là yêu cầu bức thiết. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về giáo dục mầm non và đã có đóng góp đáng kể vào lĩnh vực phát triển giáo dục mầm non nhưng chỉ đề cập đến lĩnh vực chất lượng, chương trình, nội dung giáo dục mầm non, đến nâng cao chất lượng giáo viên, về xã hội hóa giáo dục mầm non. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đề cập đến vấn đề này một cách cơ bản toàn diện và chưa có nghiên cứu về phát triển các trường mầm non tại tỉnh Bạc Liêu. Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trên thế giới đến nay có trên 160 quốc gia và tổ chức quốc tế đã cam kết coi giáo dục mầm non là một mục tiêu quan trọng của giáo dục cho mọi người. New Zealand, có một nền giáo dục tiên tiến, tài liệu giáo dục mầm non hàng đầu thế giới và được coi là giáo trình có giá trị quốc tế. Chính phủ New Zealand hỗ trợ cho các loại trường giáo dục mầm non dựa trên kết quả hoạt động của cơ sở giáo dục đạt được, điều kiện nhận hỗ trợ phải đáp ứng được
- 6 chuẩn do Bộ Giáo dục quy định, mức độ hỗ trợ là 50,0% chi phí hoạt động giáo dục mầm non, hỗ trợ này dành cho cả hai loại hình: cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập, chi phí hoạt động giáo dục mầm non còn lại (50,0%) do cha mẹ các cháu theo học đóng góp. Đối với trẻ bị khuyết tật hoặc thuộc gia đình khó khăn về thu nhập có thể làm đơn xin miễn đóng góp phần chi phí hoạt động thuộc trách nhiệm gia định phải đóng góp. Thụy Điển là đất nước thực hiện chính sách giáo dục mầm non như sau: Trường mầm non là trường tự nguyện do chính quyền địa phương quản lý, trẻ 5 tuổi có thể học không mất tiền 03 tiếng/ngày. Indonesia công nhận giáo dục mầm non là giai đoạn tiền đề cho hệ thống giáo dục cơ bản. Thái Lan nhấn mạnh gia đình và Chính phủ cùng chia sẻ trách nhiệm đối với giáo dục mầm non nhằm thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Ở Nhật Bản, giáo dục bắt buộc bắt đầu từ lúc 06 tuổi nhưng có khoảng 95,0% trẻ đã tham gia hệ thống giáo dục trước tuổi học ít nhất 02 năm. Nhật Bản tồn tại song song hai hệ thống giáo dục mầm non gồm: Trung tâm chăm sóc trẻ cả ngày và trường mẫu giáo bán trú, số tuần học tối thiểu ở mẫu giáo bán trú là 39 tuần/năm và số giờ học chuẩn là 04 giờ/ngày, trong khi đó trung tâm chăm sóc trẻ cả ngày thường cung cấp dịch vụ này quanh năm, trừ ngày chủ nhật, số giờ chuẩn là 08 giờ/ngày. Trường mẫu giáo được Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ của Nhật Bản công nhận là một bộ phận của hệ thống giáo dục còn trung tâm chăm sóc trẻ cả ngày thuộc quản lý của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội. Tại Nhật Bản, tỉ lệ trẻ đăng ký học trường mẫu giáo là 58,0%, trẻ tham gia học tại trung tâm chăm sóc trẻ cả ngày là 42,0%, số trẻ tham gia trường mầm non công chiếm 20,0% tổng số trẻ theo học trường mầm non, 80,0% trẻ tham gia trường mầm non tư, 50,0% trẻ học tại trung tâm giữ trẻ cả ngày hệ công lập và 44,0% trẻ tham gia học tại
- 7 trung tâm giữ trẻ cả ngày tư nhân. Chính phủ Nhật Bản đã cung cấp những khoản trợ cấp cho giáo dục trước tuổi học, học phí trường mẫu giáo công lập bằng 1/3 trường mẫu giáo ngoài công lập. Ở nước ta, trong các thời kỳ bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, việc phát triển các trường mầm non luôn được quan tâm coi trọng, là mối quan tâm của các cấp, các ngành và toàn xã hội, các nhà khoa học và là đề tài nghiên cứu của nhiều tác giả. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến phát triển các trường mầm non. Sau khi giành được độc lập từ tay thực dân, thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, trước khi ban hành Sắc lệnh về việc thành lập ngành học sư phạm thì ngày 10 tháng 8 năm 1946 lịch sử đã chứng kiến sự ra đời của giáo dục mầm non bằng Sắc lệnh số 146/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sắc lệnh đã nêu lên những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục mới, trong đó ghi rõ: “bậc học ấu trĩ nhận giáo dục trẻ em dưới 07 tuổi và tổ chức theo điều kiện của Bộ Quốc gia giáo dục ấn định sau” [18, tr1]. Trong toàn bộ di sản tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề cơ bản nổi bật là vấn đề phát triển và hoàn thiện con người thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục, trong đó giáo dục bậc mầm non có vị trí quan trọng. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 đã ghi: “Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho những người mẹ của trẻ em, đảm bảo phát triển các nhà đỡ đẻ, các nhà trẻ và vườn trẻ” [29, tr.6]. Sau khi Sắc lệnh số 146/SL ngày 10 tháng 8 năm 1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời, Ban Giáo dục ấu trĩ được thành lập vào ngày 15 tháng 12 năm 1946 và cho ra đời trường mẫu giáo đầu tiên đó là Trường Mẫu giáo Tây Hồ ngoại thành Hà Nội chỉ có 20 cháu do các nhân sĩ tổ chức, tiếp theo là Trường Mẫu giáo Bách Thảo, làng Ngọc Hà. Các trường ở Liên khu IV cũ, ở Việt Bắc, Trung du, Đồng bằng Bắc Bộ đều hình thành các lớp ấu trĩ viên, lớp
- 8 vỡ lòng, các nhà trẻ, nhiều nơi còn có cô nhi viện để nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh, gia đình quân nhân không nơi nương tựa. Các khóa huấn luyện giáo viên mẫu giáo, ấu trĩ cũng được đẩy mạnh, đến cuối năm 1948 đã có 200 cô mẫu giáo, tổ chức mở trên 300 lớp ấu trĩ thu hút hàng chục ngàn cháu đến lớp. Bộ Quốc gia giáo dục đã tổ chức Hội nghị Mẫu giáo toàn quốc đầu tiên trong lịch sử vào ngày 02/01/1949. Hội nghị xác định rõ mục tiêu, phương châm, phương pháp giáo dục mẫu giáo, những quan điểm về giáo dục trẻ thơ là bảo vệ tính mạng, sức khỏe và giáo dục trẻ. Trong giai đoạn này đã khởi xướng phong trào giáo dục mầm non do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ động phối hợp với ngành giáo dục gây dựng và phát triển nhằm mục đích là bảo vệ trẻ cùng các bà mẹ. Từ 20 trẻ của lớp học mẫu giáo đầu tiên, sau 18 năm duy trì và phát triển đến cuối năm 1964 đã có 5.682 giáo viên, tổ chức 4.944 lớp mẫu giáo thu hút 149.000 trẻ đến lớp. Ngày 19 tháng 01 năm 1966, Chính phủ ban hành Nghị định về nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy giáo dục, trong đó quy định thành lập Vụ Mẫu giáo là một trong bốn ngành học thuộc Bộ Giáo dục. Đến thời gian này bậc học mầm non đã trở thành một ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân, hình thức tổ chức phân tán nhỏ lẻ theo nhóm trẻ, lớp mẫu giáo đảm bảo an toàn cho trẻ trong hoàn cảnh đất nước bị chiến tranh. Giai đoạn 1965 - 1975, Giáo dục mầm non đã đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất, đời sống và phục vụ công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, mang tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa. Sau năm 1975, quy mô, chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ đã được chú trọng hơn. Đây là thời kỳ mở đầu cho việc phát triển công tác nghiên cứu, công tác đào tạo phục vụ cho nhiệm vụ của phát triển giáo dục mầm non, bao gồm nghiên cứu khoa học chăm sóc giáo dục trẻ trên các mặt tâm sinh lý, chăm sóc nuôi dưỡng, phát triển ngôn ngữ, xây dựng chương trình chăm sóc giáo dục trẻ với nội dung, phương pháp và cơ sở vật chất phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi phát triển của trẻ và tiếp tục được mở rộng tới cả lĩnh vực sức khỏe, dinh dưỡng và gắn kết
- 9 với thực nghiệm trên trẻ. Trường đào tạo đội ngũ giáo viên được hình thành và hỗ trợ đắc lực cho công tác xây dựng đội ngũ giáo viên cho bậc học này có trình độ từ sơ cấp đến trung cấp, cao đẳng. Đến năm 1986, đã phát triển được trên 153.000 giáo viên, tổ chức được hơn 40.000 nhà, nhóm trẻ và 57.200 lớp mẫu giáo. Trong thời kỳ này tuy tỉ lệ huy động trẻ phát triển nhưng không mang sức sống tự thân, chứa đựng nhiều yếu tố bất cập khi thực hiện cơ chế bao cấp, giáo dục mầm non gặp nhiều khó khăn, một số nơi không còn nhà trẻ, mẫu giáo. Thích nghi với cơ chế mới từ năm 1987 đến nay, giáo dục mầm non Việt Nam được phục hồi và phát triển thông qua việc xây dựng và thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 1991 - 2000, 2001 - 2010, xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch giáo dục mầm non trong chiến lược phát triển giáo dục để thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non là: Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt nông thôn và những vùng khó khăn, tăng cường cả hoạt động phổ biến kiến thức và tư vấn nuôi dạy trẻ cho các gia đình. Hiện nay, Việt Nam thực hiện chính sách Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong thực hiện các chính sách phát triển giáo dục mầm non; chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế để khuyến khích đầu tư xây dựng trường, nhóm lớp mầm non ngoài công lập. Nguồn lực dành đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường mầm non công lập được thực hiện theo hướng kiên cố hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, trong đó ưu tiên thành lập và xây dựng mới các cơ sở giáo dục mầm non công lập vùng nông thôn, nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và các xã phường có mức sống thấp của thành phố, thị xã; ngoài ra Nhà nước còn thực hiện chính sách hỗ trợ cho trẻ thường trú nơi khó khăn, trẻ thuộc diện hộ nghèo...; dành một phần ngân sách các cấp hỗ trợ cho giáo viên mầm non công lập... .
- 10 Giáo dục mầm non có vị trí là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, cùng với các địa phương trong cả nước, tỉnh Bạc Liêu đã ban hành Đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006 - 2015 thể hiện quan điểm của cấp ủy, chính quyền về phát triển giáo dục mầm non thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Đề án có các mục tiêu cụ thể về củng cố, mở rộng mạng lưới trường, lớp, bảo đảm nhu cầu gửi trẻ tại các nhà trẻ, nhóm trẻ từ 7,36% năm 2010 lên 10,0% - 12,0% vào năm 2015 và 25,0% năm 2020; tăng tỷ lệ trẻ đến trường, lớp mẫu giáo lên 80,0% năm 2015 và trên 90,0% năm 2020; nâng tỷ lệ các cơ sở giáo dục mầm non đạt chuẩn quốc gia từ 9,0% lên 20,0% vào năm 2015. Trong những năm gần đây có nhiều đề tài nghiên cứu về chuyên ngành quản lý giáo dục, trong đó có nhiều đề tài nghiên cứu về giáo dục mầm non như: - Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục mầm non và phổ thông (Ngô Thượng Chính, 2004). - Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non Hà Nội (Vũ Thị Minh Hà, 2004). - Các biện pháp tăng cường quản lý đội ngũ giáo viên của Hiệu trưởng trường mầm non quận Tân Bình - Thành phố Hồ Chí Minh (Trần Thị Kim Thoa, 2006). - Một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên mầm non tỉnh Bắc Giang đến năm 2010 (Nguyễn Thị Lư, 2006). - Một số biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên mầm non ở các xã đặc biệt khó khăn tỉnh Sơn La (Nguyễn Thị Hồng Vân, 2006). - Biện pháp quản lý hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non thành phố Thái Nguyên (Lưu Thị Kim Phương, 2009). - Giải pháp bồi dưỡng chuẩn hóa giáo viên mẫu giáo các tỉnh Duyên hải Miền trung (Nguyễn Huy Thông, 1999).
- 11 - Một số giải pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (Vũ Đức Đạm, 2005). Các tác giả nêu trên với đề tài của Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục đề cập đến công tác phát triển và chuẩn hóa đội ngũ và quản lý đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên nhân viên khác của cơ sở giáo dục mầm non, quy hoạch phát triển mầm non. Các đề tài của các tác giả nói trên đều mang tính đặc thù của từng địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục bậc mầm non ở địa phương. Từ các nghiên cứu trên, ta có thể rút ra một số nhận xét sau: Thực trạng xã hội vẫn còn có những ý kiến coi nhẹ bậc học mầm non, cho rằng đó là nghề trông trẻ chứ không phải là dạy trẻ. Vì thế, giáo viên mầm non vẫn bị coi nhẹ so với các cấp học khác. Trong khi đó độ tuổi mầm non là giai đoạn trẻ hình thành các phẩm chất, yếu tố về sức khỏe, ngôn ngữ, tình cảm, nhận thức xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển sau này. Mặt khác các đề tài nghiên cứu đều khẳng định, giáo dục mầm non là bậc học quan trọng, nên phải có sự đầu tư toàn diện, đồng bộ từ khâu xây dựng, quy hoạch mạng lưới trường lớp đến đầu tư cơ sở vật chất; đặc biệt là xây dựng và quản lý chặt chẽ, có hiệu quả đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mầm non, đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng và cơ cấu tổ chức hợp lý. Tuy nhiên, những nghiên cứu dành cho bậc học này còn khá khiêm tốn, chỉ dừng lại ở việc đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp để xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục mầm non, quản lý bồi dưỡng giáo viên, bồi dưỡng chuẩn hóa giáo viên, phát triển đội ngũ giáo viên ở vùng đặc thù. Riêng ở tỉnh Bạc Liêu cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào đề cập đến phát triển trường mầm non một cách đầy đủ và có hệ thống. Mặc dù tỉnh Bạc Liêu đã xây dựng Đề án thực hiện phát triển giáo dục mầm non, quy hoạch ngành giáo dục đào tạo giai đoạn 2007 - 2010 và tầm
- 12 nhìn đến năm 2020, Tỉnh ủy có Chỉ thị số 03 về chấn chỉnh, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Tuy nhiên, việc tìm hiểu, phân tích đánh giá và xây dựng các biện pháp cho việc phát triển hệ thống trường mầm non chưa được nghiên cứu với tư cách như một đề tài khoa học. Do vậy, trong Luận văn này tác giả mong muốn đưa ra một số giải pháp phù hợp đặc điểm tình hình của tỉnh Bạc Liêu trong thực hiện phát triển trường mầm non trước yêu cầu và nhiệm vụ mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển giáo dục mầm non tỉnh Bạc Liêu, đề xuất một số biện pháp phát triển các trường mầm non nhằm đảm bảo quy mô, chất lượng giáo dục mầm non của Tỉnh đến năm 2020; góp phần sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bạc Liêu. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển các trường mầm non. - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng các trường mầm non của tỉnh Bạc Liêu, xác định nguyên nhân những hạn chế của sự phát triển trường mầm non của Tỉnh. - Đề xuất một số biện pháp phát triển các trường mầm non trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu Công tác phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp phát triển các trường mầm non trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
- 13 4.3. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu đang tồn tại các trường mầm non công lập và tư thục, Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp phát triển các trường mầm non công lập đến năm 2020. Các số liệu điều tra khảo sát để nghiên cứu chỉ hạn chế trong vòng năm năm tính từ năm 2008 đến nay. 5. Giả thuyết khoa học Phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều vấn đề cần phải giải quyết đòi hỏi phải có nhiều thời gian, công sức và kinh phí lớn với nhiều cách làm khác nhau. Nếu trong quá trình phát triển các trường mầm non thực hiện có hiệu quả và đồng bộ các vấn đề: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp và của các cơ quan chuyên môn trong quá trình phát triền trường mầm non; xây dựng và tổ chức thực hiện chặt chẽ kế hoạch phát triển các trường mầm non; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phát triển trường mầm non; xã hội hóa việc phát triển trường mầm non và tăng cường kiểm tra, đánh giá, giám sát sự phát triển trường mầm non thì các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu sẽ phát triển mạnh, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của giáo dục, đào tạo trong tình hình mới. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được tổ chức nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Đồng thời vận dụng các quan điểm logic - lịch sử, hệ thống - cấu trúc và các quan điểm thực tiễn để xem xét phân tích các vấn đề có liên quan. Để hoàn thành công trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng dạng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của khoa học giáo dục như:
- 14 - Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các báo cáo có liên quan đến các trường mầm non và phát triển các trường mầm non ở tỉnh Bạc Liêu. Chú trọng nghiên cứu các tài liệu như Đề án phát triển giáo dục mầm non 2005 - 2015, chính sách phát triển đa dạng hóa các loại hình giáo dục và công tác xã hội hóa giáo dục mầm non, quy hoạch ngành giáo dục tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020, chính sách thu hút đầu tư trên lĩnh vực giáo dục và một số văn bản có liên quan khác. - Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm: + Phương pháp quan sát: quan sát các hoạt động quản lý các trường mầm non như: Xây dựng kế hoạch, xây dựng tiến độ thực hiện, quan sát hoạt động của giáo viên, nhân viên các trường mầm non… . + Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến để khảo sát một số đối tượng là lãnh đạo, giáo viên, nhân viên về những vấn đề nghiên cứu. + Phương pháp phỏng vấn: thực hiện trao đổi, tọa đàm với một số cán bộ lãnh đạo ở các cấp từ tỉnh đến xã, một số cán bộ ở các cơ quan như Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, Phòng Giáo dục và Đào tạo ở một số huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và một số cán bộ, giáo viên ở một số trường mầm non. + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra những nguyên nhân, hạn chế và kinh nghiệm phát triển trường mầm non. + Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý báo cáo số liệu điều tra, khảo sát. 7. Ý nghĩa, giá trị của Đề tài - Đề tài “Phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020” góp phần làm sáng tỏ một số cơ sở lý luận về phát triển trường mầm non như: khái niệm trường mầm non; khái niệm phát triển trường mầm non và nội hàm của nó.
- 15 - Đánh giá đúng thực trạng các trường mầm non hiện nay, xác định rõ những nguyên nhân hạn chế đến sự phát triển của các trường mầm non. - Luận văn được nghiên cứu thành công có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ lãnh đạo, các cơ quan hữu quan trong hoạch định chính sách, chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc phát triển các trường mầm non ở tỉnh Bạc Liêu. 8. Kết cấu của luận văn Luận văn được kết cấu gồm: - Phần Mở đầu. - Phần Nội dung: + Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020. + Chương 2. Dự báo những yếu tố tác động, yêu cầu và một số biện pháp phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020. - Kết luận, Kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
- 16 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN CÁC TRƯỜNG MẦM NON TỈNH BẠC LIÊU ĐẾN NĂM 2020 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm trường mầm non Hiện nay vẫn còn tồn tại những quan niệm khác nhau về trường mầm non. Có quan niệm cho rằng trường mầm non chỉ là nơi “giữ trẻ”, “trông trẻ”, không phải là “trường học dạy trẻ”. Vì vậy, để có thể làm rõ khái niệm trường mầm non cần phải đề cập đến khái niệm nhà trường và khái niệm giáo dục mầm non. Theo từ điển Tiếng Việt thì“Nhà trường là nơi tiến hành công tác giảng dạy, đào tạo toàn diện hay về một lĩnh vực chuyên môn nào đó cho các loại học sinh, nơi rèn luyện, bồi dưỡng con người về mặt nào đó” [28, tr.701]. Theo Luật Giáo dục thì: “Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 03 tháng đến 06 tuổi” [06, tr.6]. Điều lệ trường mầm non cũng khẳng định: “Nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo công lập do cơ quan Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên” [15, tr.2]. Các chuyên gia Nhật Bản cho rằng, tại Nhật trường mầm non được định nghĩa là nơi có cơ cấu giáo dục theo từng nhóm, trẻ được học tập các quy tắc của cuộc sống tập thể trong mối quan hệ giữa các bé đồng trang lứa với nhau; là nơi rèn luyện các cháu thái độ sống hòa hợp, hòa nhập, ươm mầm tinh thần ý thức, tinh thần hợp tác, tính độc lập, tự chủ, niềm tin, gia đình và người xung quanh. Ở nước ta hiện nay có trường mầm non công lập do cơ quan Nhà nước thành lập và trường ngoài công lập do cơ quan Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân thành lập khi đảm bảo đủ điều kiện theo quy định (nhóm trẻ, trường
- 17 mầm non ngoài công lập). Việc đầu tư cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động cho nhà trường từ nhiều nguồn: Ngân sách Nhà nước, các nguồn thu hợp pháp khác và sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân, tùy theo loại hình giáo dục mầm non mà ngân sách Nhà nước đóng vai trò chủ đạo hay hỗ trợ một phần. Mặt khác, Nhà nước thể hiện vai trò là người định hướng giáo dục mầm non thông qua xây dựng khung chương trình, các chuẩn, điều kiện để hình thành nhóm, lớp, trường mầm non và yêu cầu đối với việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ theo độ tuổi. Từ những phân tích trên có thể thấy trường mầm non là tổ chức giáo dục mang tính Nhà nước và xã hội, là nơi trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng trẻ theo độ tuổi quy định (từ 03 tháng đến 06 tuổi). - Chức năng trường mầm non Có thể nêu một cách khái quát trường mầm non có chức năng là nơi thực hiện các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 03 tháng đến 06 tuổi theo quy chuẩn, bao gồm tổ chức đón, trả trẻ; chăm sóc, giáo dục vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường; quản lý sức khỏe và an toàn cho trẻ; tổ chức các hoạt động vui chơi, học tập, lao động; hoạt động ăn, nghỉ của trẻ (đối với trường bán trú); tổ chức thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 03 đến 06 tuổi theo Chương trình giáo dục mầm non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; tổ chức phối hợp các cơ quan, tổ chức chính trị xã hội và cá nhân để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ cho cha mẹ và cộng đồng; tổ chức thực hiện nhiệm vụ huy động các nguồn lực của cộng đồng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục mầm non. - Tính đặc thù của trường mầm non Với xu hướng phát triển trường mầm non công lập theo hướng toàn diện, vững chắc đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập, chăm sóc giáo
- 18 dục trẻ, đồng thời triển khai các chính sách ưu đãi để thu hút các thành phần kinh tế tham gia phát triển hệ thống trường lớp mầm non ngoài công lập. Việc đầu tư giáo dục mầm non theo hướng ưu tiên phát triển giáo dục mầm non công lập cho các xã đặc biệt khó khăn, vùng xa, đồng thời xây dựng các chính sách nhằm thu hút đầu tư cho phát triển hệ thống trường mầm non tư thục khu vực đô thị trong Tỉnh, thì trường mầm non có những nét đăc thù, cụ thể: Đối tượng nuôi dạy là trẻ từ 03 tháng đến 06 tuổi, giai đoạn nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục có ý nghĩa quan trọng đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm và thẩm mĩ của con người. Nội dung thực hiện nhiệm vụ của trường mầm non là khá phong phú, từ việc nuôi dưỡng, chăm sóc đến giáo dục. Nhà trường đảm bảo thực hiện yêu cầu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi theo hướng nâng dần tỷ lệ trẻ được đến lớp để thực hiện chăm sóc giáo dục 02 buổi/ngày đủ một năm học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, tiếng Việt và tâm lý; bảo đảm chất lượng cho trẻ khi vào lớp 01. Những người thực hiện nhiệm vụ ở trường mầm non là cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên - những người lao động đa năng ở môi trường rất đặc thù, thể hiện phong phú, đa dạng những nét nhân cách của người mẹ, của nhà giáo dục, vừa của người nghệ sĩ và vừa của người y tế, người bảo mẫu… . - Cơ cấu tổ chức trường mầm non Theo quy định của Điều lệ trường mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành thì cơ cấu tổ chức của trường mầm non bao gồm: Tổ chuyên môn, gồm giáo viên, người làm công tác thiết bị giáo dục và cấp dưỡng; Tổ văn phòng, gồm các nhân viên làm công tác y tế trường học, văn thư, kế toán và nhân viên khác; hiệu trưởng và phó hiệu trưởng, là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý các hoạt động và chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em của nhà trường; Hội đồng trường đối với trường mầm non công lập, Hội
- 19 đồng quản trị đối với trường mầm non dân lập, tư thục được gọi chung là Hội đồng trường. Hội đồng trường là tổ chức chịu trách nhiệm quyết định về phương hướng hoạt động của nhà trường, huy động và giám sát việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trường, nhà trẻ, gắn nhà trường, nhà trẻ với cộng đồng và xã hội, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục; Hội đồng thi đua khen thưởng, Hội đồng tư vấn; Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam và đoàn thể trong nhà trường. Quản lý trường mầm non Quản lý Nhà nước về trường mầm non là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý (hiệu trưởng) đến tập thể cán bộ, giáo viên để chính họ tác động trực tiếp đến quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đối với từng độ tuổi và mục tiêu chung của bậc học. Theo phân cấp quản lý Nhà nước đối với giáo dục mầm non thì Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quản lý nhà trường, nhà trẻ công lập trên địa bàn; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý nhà trường, nhà trẻ dân lập; nhà trường, nhà trẻ tư thục và các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo công lập trên địa bàn; Phòng Giáo dục và Đào tạo thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về giáo dục đối với loại hình nhà trường, nhà trẻ, lớp mẫu giáo độc lập trên địa bàn. Quản lý trường mầm non là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể cán bộ giáo viên nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu, kế hoạch giáo dục của nhà trường, trên cơ sở vận dụng các tiềm lực vật chất và tinh thần của xã hội, nhà trường và gia đình. Thực chất công tác quản lý trường mầm non là quản lý quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ, đảm bảo cho quá trình đó vận hành thuận lợi và có hiệu quả. Quá trình chăm sóc giáo dục trẻ gồm các nhân tố tạo thành
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 299 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 221 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 126 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 97 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 15 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn