Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
lượt xem 6
download
Luận văn được hoàn thành với mục tiêu nhằm đánh giá đúng thực trạng tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; Đề xuất một số biện pháp cơ bản tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ LÊ THỊ KIM TRINH TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ TRANG ĐIỂM THẨM MỸ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2013
- 2 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ LÊ THỊ KIM TRINH TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ TRANG ĐIỂM THẨM MỸ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Quản lý giáo dục Mã số : 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM ĐÌNH NHỊN HÀ NỘI - 2013
- 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cùng với sự phát triển chung về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, lĩnh vực giáo dục - đào tạo và dạy nghề tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và được sự quan tâm của các cấp, các ngành cùng toàn xã hội, công tác dạy nghề từng bước được phục hồi và phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nguồn lao động, trực tiếp góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đứng trước yêu cầu về nghề nghiệp, việc làm của người lao động, công tác dạy nghề đã có những bước thay đổi tích cực để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, của hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Một trong những thay đổi đó là tốc độ phát triển mạnh mẽ cả về qui mô, phạm vi với sự đa dạng hoá các ngành nghề, trình độ đào tạo không chỉ dừng lại ở các nghề: điện, cơ, tiện, hàn... phục vụ phát triển kỹ thuật công nghiệp mà còn hàng trăm loại hình dịch vụ khác như: nấu ăn, làm bánh, cắm hoa, trang điểm thẩm mỹ, cắt uốn tóc, may thêu, kết cườm... và để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, các cơ sở dạy nghề, các trường và trung tâm đào tạo nghề (sau đây gọi chung là cơ sở dạy nghề) ra đời và có những đóng góp tích cực trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ thợ lành nghề cho xã hội. Cùng với sự phát triển cơ sở dạy nghề, đội ngũ giáo viên dạy nghề nói chung, dạy trang điểm thẩm mỹ nói riêng đã được quan tâm xây dựng, được đào tạo, bồi dưỡng và có bước trưởng thành khá toàn diện với số lượng đông đảo, cơ cấu khá hợp lý và chất lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng bước đầu nhiệm vụ đào tạo lực lượng lao động lành nghề cho xã hội. Tuy nhiên, do tốc độ phát triển nhanh chóng của các cơ sở dạy nghề và nhu cầu xã hội... đội ngũ giáo viên dạy nghề phần đông chưa được đào tạo cơ bản, chưa được bồi
- 4 dưỡng năng lực sư phạm, tham gia vào quá trình đào tạo chủ yếu theo kiểu truyền thụ kinh nghiệm; quá trình tổ chức các hình thức huấn luyện, nhất là chuẩn bị bài giảng, lên lớp lý thuyết còn nhiều lúng túng; thiếu kiến thức toàn diện, nhất là các kiến thức về xã hội, khoa học xã hội và nhân văn... đã làm hạn chế kết quả đào tạo nghề của các cơ sở dạy nghề tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nước nói chung. Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; thời kỳ phát triển mới của thành phố Hồ Chí Minh; trước sự phát triển của nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ công nhân lành nghề và các cơ sở dạy nghề... đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trong đó việc tổ chức bồi dưỡng, nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa rất thiết thực. Đó là lý do thôi thúc tôi lựa chọn vấn đề: "Tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh" làm đề tài luận văn tốt nghiệp với mong muốn sẽ góp thêm tiếng nói trong sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy nghề có chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghề dạy học ra đời rất sớm. Nó hình thành khi nền sản xuất xã hội phát triển đến một trình độ nhất định. Trong quá trình lao động sản xuất, người ta cần phải truyền lại cho nhau những kinh nghiệm đấu tranh với thiên nhiên để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mới đầu ở mức thấp, người ta có thể truyền đạt một cách trực tiếp thành quả lao động tập thể, người này theo kinh nghiệm của người khác, nhưng khi kinh nghiệm đã phong phú theo sự phát triển của sản xuất thì truyền đạt phải đòi hỏi đến vai trò của người trung gian, đó là thầy giáo. Như vậy, nghề dạy học gắn chặt với lao động sản xuất của xã hội, góp phần hình thành phẩm chất, năng lực cần thiết của người lao động.
- 5 Lao động của người thầy, lao động sư phạm là loại hình lao động đặc biệt. Đối tượng lao động của người thầy là con người, là thế hệ trẻ đang lớn lên cùng với nhân cách của họ. Đối tượng này không phải là vật vô tri, vô giác như tấm vải của người thợ may, viên gạch của người thợ hồ hay khúc gỗ của người thợ mộc... mà là một con người nhạy cảm với những tác động của môi trường bên ngoài theo hướng tích cực và cả tiêu cực. Do vậy, người thầy phải lựa chọn và gia công lại những tác động xã hội và tri thức loài người bằng lao động sư phạm của mình nhằm hình thành con người đáp ứng yêu cầu của xã hội. Tác động đến đối tượng đó không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như nhau, hiệu quả đó cũng không tỷ lệ thuận với số lần tác động. Do đó, trong tay người thầy phải có rất nhiều phương án để tác động đến đối tượng không thể rập khuôn máy móc như những lao động khác. Bản thân đối tượng lao động đã quyết định tính đặc thù của lao động sư phạm. Kết quả lao động sư phạm cũng có nhiều điểm đặc biệt. Hiệu quả lao động của người thầy sống mãi trong nhân cách của người học, nên lao động vừa mang tính tập thể rất sâu, vừa mang dấu ấn cá nhân rất đậm. Vì vậy, nó đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao và am hiểu nghề nghiệp nhất định. Tính nghề nghiệp là một đòi hỏi, đồng thời cũng tạo ra điều kiện để cho người giáo viên tự rèn luyện mình. Chính vì thế, việc xây dựng, rèn luyện năng lực đội ngũ nhà giáo là một yêu cầu tất yếu khách quan của xã hội như C.Mác nói: "Bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự bùng nổ về thông tin, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của Internet và công nghệ truyền thông đã có những ảnh hưởng lớn tới cuộc sống con người. Điều đó cũng đã làm thay đổi vị trí, chức năng của nhà trường, của đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên dạy nghề nói riêng. Người thầy giáo không còn là nguồn truyền thụ kiến thức duy nhất cho thế hệ trẻ, mà cùng với thầy giáo, các phương tiện truyền thông nhất là qua
- 6 mạng Internet, thế hệ trẻ tiếp cận nhiều điều mới lạ, phong phú. Vì thế, kiến thức, kỹ năng của người thầy giáo không được phép dừng lại mà phải cập nhật hằng ngày để bắt kịp những thay đổi của công nghệ mới, kỹ thuật mới. Chức năng của người thầy giáo ngày nay không đơn thuần là truyền thụ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp mà còn phải hướng dẫn người học phương pháp tự học, tự nghiên cứu, khả năng tìm tòi, sáng tạo. Lời dạy của V.I.Lênin "Học, học nữa, học mãi" luôn trở nên cần thiết đối với mọi người, trong đó có giáo viên dạy nghề. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh "Không có thầy giáo thì không có giáo dục", mà đã là người thầy thì càng phải học nhiều hơn. Người thầy giáo phải thường xuyên tự bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo". Người đã chỉ rõ: "Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình". Người dẫn lại câu nói của Khổng Tử: "Học không biết chán, dạy không biết mỏi" để nhấn mạnh rằng "người huấn luyện nào tự cho mình đã biết đủ cả rồi thì người đó dốt nhất" [46]. Đó là phương châm đúng đắn nhất để người thầy giáo không bị tụt hậu và hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục được giao. Trong những năm gần đây, lý luận sư phạm hiện đại đã và đang có những bước phát triển lớn cả về các quan niệm cơ bản lẫn các giải pháp sư phạm cụ thể. Đối với công tác đào tạo giáo viên, đặc biệt là công tác bồi dưỡng giáo viên, các quan điểm và lý luận giáo dục hiện đại về "giáo dục suốt đời" có ý nghĩa quan trọng. Giáo dục suốt đời (thường xuyên) là một quan điểm xuất phát từ nhu cầu chuẩn bị cho các thành viên trong xã hội có khả năng thích ứng với những biến đổi thường xuyên và nhanh chóng của xã hội hiện đại. Không như các thành viên khác, vốn tri thức và kỹ năng sư phạm được hình thành từ các trường đào tạo của người thầy giáo sẽ nhanh chóng bị lạc hậu và bất cập với
- 7 thực tiễn giáo dục, thực tiễn cuộc sống. Người lao động nói chung và người giáo viên nói riêng cần tiếp tục bổ sung, cập nhật kiến thức, hoàn thiện kỹ năng, thông qua các khoá bồi dưỡng, tu nghiệp, tự học... trong suốt cả cuộc đời. Yêu cầu bồi dưỡng nâng cao trình độ người thầy là một yêu cầu khách quan, đặc biệt chất lượng đào tạo nghề đáp ứng cho công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước thì cần phải bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên dạy nghề. Đó là một yêu cầu rất cấp bách hiện nay. Năng lực sư phạm là một bộ phận cấu thành văn hoá sư phạm, là yếu tố trực tiếp quyết định đến chất lượng, hiệu quả của các hoạt động sư phạm của người giáo viên. Chính vì thế, việc tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ nói riêng là vấn đề quan trọng được các cơ quan chức năng, trước hết là Bộ Giáo dục - Đào tạo, Tổng cục Dạy nghề và nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình được nghiệm thu và nhiều bài viết đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Tiêu biểu là: - Tác giả Nguyễn Như An với công trình nghiên cứu "Hệ thống kỹ năng giảng dạy trên lớp về môn giáo dục học và quy trình rèn luyện kỹ năng đó cho sinh viên Khoa Tâm lý giáo dục" (1992), đã đề cập đến các vấn đề cơ bản về kỹ năng dạy học môn học Giáo dục học và quy trình để rèn luyện các kỹ năng đó cho sinh viên Khoa Tâm lý Giáo dục - Đại học Sư phạm. - Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thu Thuỷ, với đề tài Một số giải pháp xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trường Đại học bán công Tôn Đức Thắng, đề tài hoàn thành năm 2003. Nội dung chủ yếu trình bày một số vấn đề chung về giáo dục - đào tạo, hệ thống giáo dục quốc dân; Vai trò của đội ngũ giảng viên và việc xây dựng đội ngũ giáo viên; Đề xuất một số giải pháp xây dựng đội ngũ giảng viên (gồm 3 đối tượng giáo viên cơ hữu, bán cơ hữu và thỉnh giảng).
- 8 - Tác giả Nguyễn Thị Hải, Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục trong bài Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên trung học chuyên nghiệp, đã cho rằng, giáo dục trung học chuyên nghiệp là bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Học sinh tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp ngoài trình độ học vấn, sức khỏe, đạo đức còn có khả năng thích ứng cao với thị trường lao động, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp. Việc tổ chức giảng dạy phải phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Vì thế cần xây dựng chương trình bồi dưỡng cho giáo viên thường xuyên như: bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học, bồi dưỡng kỹ năng sư phạm... - Nghiên cứu sinh Đặng Thị Lan, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài Rèn luyện năng lực sư phạm cho người thầy giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh (2001), tác giả đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng, rèn luyện năng lực sư phạm cho người thầy giáo và đặc biệt nhấn mạnh đến công tác bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên của Đảng ủy, Ban giám hiệu trường Đại học Ngoại ngữ trên tinh thần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó đã thực sự góp phần phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng đội ngũ giáo viên ở nhà trường nhằm đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ của nhà trường trong thời kỳ đổi mới. - Thạc sĩ Nguyễn Sỹ Trung với bài báo khoa học Bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên trẻ ở Đại học Giao thông Vận tải hiện nay, đã phân tích cụ thể thực trạng kỹ năng nghiệp vụ sư phạm của các giảng viên trẻ và công tác bồi dưỡng giảng viên của nhà trường, từ đó đưa ra một số giải pháp đồng bộ để khắc phục những hạn chế đồng thời góp phần nâng cao kỹ năng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên trẻ ở trường Đại học Giao thông Vận tải nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và phát triển nhà trường trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- 9 Ngoài các công trình nghiên cứu trên còn có nhiều công trình và các bài viết về năng lực sư phạm của các tác giả như: Nguyễn Văn Hộ với bài Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm - thành phần đặc thù cơ bản trong mô hình đào tạo người thầy (1998); Nguyễn Hữu Dũng Nâng cao năng lực sư phạm của giáo viên tiểu học (2003),... Và trong lĩnh vực quân sự, vấn đề năng lực sư phạm và rèn luyện phát triển năng lực sư phạm của học viên ngành sư phạm, của đội ngũ giáo viên đã thu hút các nhà khoa học, các nhà giáo và các nhà quản lý giáo dục quan tâm nghiên cứu. - Tác giả Nguyễn Chính Trung trong cuốn Những vấn đề cơ bản về phương pháp dạy học trong nhà trường quân đội, đã dành một chương để làm rõ khái niệm và vai trò năng lực sư phạm của người giáo viên ở nhà trường quân sự. Trên cơ sở đó chỉ rõ sự cần thiết phải bồi dưỡng kỹ năng sư phạm cho giáo viên ngay từ khi họ đang học tập trong các nhà trường. Tác giả nhấn mạnh: "Giúp học viên xây dựng được những kỹ năng này ngay từ khi họ còn đang ngồi trên ghế nhà trường, vì những kỹ năng này rất cần thiết cho việc hoàn thành nhiệm vụ sau khi tốt nghiệp". - Tác giả Phạm Minh Thụ với đề tài Giải pháp rèn luyện kỹ năng sư phạm cho học viên hệ đào tạo giáo viên ở Học viện Chính trị hiện nay (2010), đã đề cập và làm rõ các khái niệm cơ bản về kỹ năng sư phạm, rèn luyện kỹ năng sư phạm, con đường hình thành phát triển kỹ năng sư phạm cho học viên hệ đào tạo giáo viên ở Học viện Chính trị . Các công trình trên với các góc độ khác nhau đã tập trung làm rõ năng lực sư phạm của người giáo viên được hình thành, phát triển thông qua quá trình rèn luyện lâu dài, dần dần từng bước, bằng nhiều con đường và biện pháp khác nhau. Trong đó, bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ngay từ khi đang học tập tại các nhà trường luôn được xem như con đường cơ bản.
- 10 Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả với những mảng đề tài hết sức thiết thực trong công tác xây dựng, rèn luyện, bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên và đề xuất các giải pháp tổ chức bồi dưỡng năng lực cho các đối tượng trong phạm vi đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ thì chưa có tác giả, công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống. Trong bối cảnh chung của các trường, các trung tâm và các cơ sở dạy nghề trang điểm thẩm mỹ, đa số giáo viên chưa qua đào tạo ở các trường sư phạm. Do đó, đối tượng này cần được quan tâm bồi dưỡng về nhiều mặt, nhất là bồi dưỡng năng lực sư phạm để họ phát huy hết sức mạnh của mình góp phần phát triển ngành trang điểm thẩm mỹ của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nước nói chung trong thời gian tới. Vì vậy, đề tài luận văn không trùng lặp với các công trình khoa học đã được nghiệm thu, công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất những biện pháp cơ bản tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những vấn đề cơ bản về năng lực sư phạm và tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Đánh giá đúng thực trạng tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- 11 - Đề xuất một số biện pháp cơ bản tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Khách thể nghiên cứu Hoạt động tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. * Đối tượng nghiên cứu Biện pháp tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. * Phạm vi nghiên cứu Hoạt động tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ của các cơ sở dạy nghề trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian từ năm 2007 tới nay. Phạm vi điều tra, khảo sát đội ngũ giáo viên, học viên của các cơ sở dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 5. Giả thuyết khoa học Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ là đòi hỏi khách quan xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nghề nói chung, nghề trang điểm thẩm mỹ nói riêng. Chất lượng bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó và trước hết là vấn đề tổ chức bồi dưỡng của các nhà quản lý giáo dục, của các cơ sở đào tạo, các cơ sở dạy nghề. Nếu trong thực tiễn, trên cơ sở đánh giá đúng chất lượng đội ngũ, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn và thực hiện tốt các biện pháp: xây dựng và thực hiện nghiêm túc kế hoạch bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên; tổ chức và điều hành các hoạt động bồi dưỡng một cách khoa học; thường xuyên kiểm
- 12 tra việc thực hiện; tạo điều kiện và động viên đội ngũ giáo viên tích cực chủ động tự bồi dưỡng năng lực sư phạm thì trình độ, năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ sẽ có bước phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo nghề trong tình hình mới. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo như: Nghị quyết các đại hội Đảng toàn quốc, Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương; Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi 2009), Luật Dạy nghề 2006, các chỉ thị, hướng dẫn, quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng cục Dạy nghề, của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo và quản lý giáo dục - đào tạo. * Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng các phương pháp: - Phương pháp phân tích tổng hợp nhằm phân loại, đánh giá các tài liệu, tư liệu thu thập được để tổng hợp, khái quát, rút ra những kết luận phục vụ cho việc giải quyết các nội dung nghiên cứu đặt ra. - Phương pháp điều tra xã hội học nhằm khảo sát năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trong việc thực hiện nhiệm vụ thông qua việc trả lời các phiếu điều tra hoặc toạ đàm, trao đổi trực tiếp với các đối tượng. - Phương pháp tổng kết thực tiễn nhằm đúc rút thành những kinh nghiệm để tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- 13 - Phương pháp chuyên gia tham khảo ý kiến của một số nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà quản lý để góp ý, tư vấn cho các giả thuyết khoa học, kết quả nghiên cứu đạt được. - Phương pháp thống kê để phân tích và xử lý kết quả các số liệu thu thập được nhằm định lượng kết quả nghiên cứu. 7. Giá trị và ý nghĩa của đề tài * Giá trị - Đưa ra quan niệm tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Xây dựng quy trình tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Đề xuất biện pháp tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. * Ý nghĩa - Đề tài hoàn thành sẽ cung cấp cơ sở khoa học để nâng cao hiệu quả quá trình tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ, góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ trong ngành trang điểm thẩm mỹ tạo điều kiện đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lực lượng lao động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và cả nước. - Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho Ban Giám hiệu, cán bộ quản lý ở các cơ sở dạy nghề trang điểm thẩm mỹ của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và các cơ sở dạy nghề trang điểm thẩm mỹ của cả nước nói chung. 8. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm: Phần mở đầu, phần nội dung gồm 2 chương (5 tiết), phần kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ TRANG ĐIỂM THẨM MỸ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1.1. Năng lực sư phạm và những vấn đề cơ bản về tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 1.1.1. Quá trình hình thành, phát triển và mục tiêu đào tạo của các cơ sở dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nguồn nhân lực là một trong những nhân tố có vai trò quyết định việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Việc thực hiện các chính sách xã hội, xoá đói giảm nghèo đòi hỏi phải đi liền với các hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực đào tạo nghề. Thực tiễn trong những năm qua, mạng lưới các cơ sở dạy nghề phát triển khá mạnh và phân bổ khắp 24 quận, huyện đã góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo thông qua các khóa học ngắn hạn phù hợp yêu cầu thực tế và có chất lượng tốt. Nhờ đó đã tạo thêm nhiều công ăn việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận lớn nam nữ thanh niên Việt Nam. Theo thống kê của Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), hiện cả nước có trên 1.180 trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và các trung tâm dạy nghề. Dự kiến đến năm 2015 số lượng cơ sở dạy nghề sẽ tăng lên 1.410 và năm 2020 sẽ đạt con số 1.590. Đến năm 2015 phấn đấu nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% (khoảng 23,5 triệu người) và 55% (khoảng 34,4 triệu người) vào năm 2020. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển đào tạo nghề, ngành dạy nghề thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai công tác xây dựng và phát triển đào tạo nhiều ngành nghề phong phú trong đó có ngành trang điểm thẩm mỹ.
- 15 Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, bên cạnh các trung tâm dạy nghề của các quận, huyện thì các cơ sở, trường đào tạo nghề ngắn hạn, thiết kế linh hoạt phù hợp với thời gian đào tạo ngắn ngày, với nhiều cấp độ từ sơ cấp tới chuyên sâu nhằm truyền đạt các kỹ năng nghề nghiệp ở mọi cấp độ dạy phổ cập nghề và bồi dưỡng, bổ túc nghề cho lao động cần chuyển dịch nghề nghiệp đã góp phần giải quyết việc làm tại chỗ và đã giúp cho người lao động có cơ hội tự tạo việc làm và tìm việc làm. 1.1.2. Giáo viên dạy nghề trang diểm thẩm mỹ và năng lực sư phạm của giáo viên dạy nghề trang diểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh * Giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ Theo quy định của Điều 58 Luật Dạy nghề, giáo viên dạy nghề là người dạy lý thuyết, dạy thực hành hoặc vừa dạy lý thuyết, vừa dạy thực hành trong các cơ sở dạy nghề và phải có những tiêu chuẩn theo quy định tại Khoản 2 Điều 70 của Luật Giáo dục. Giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ là những giáo viên chuyên dạy các nghề trong lĩnh vực chăm sóc sắc đẹp của con người như: Cắt uốn tóc, trang điểm, chăm sóc da, móng tay, móng chân ở các cơ sở đào tạo nghề trang điểm thẩm mỹ. Họ phải đạt các tiêu chuẩn quy định, thường xuyên được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp sư phạm. - Trình độ chuẩn của giáo viên dạy nghề được quy định như sau: Giáo viên dạy lý thuyết trình độ sơ cấp nghề phải có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề trở lên; giáo viên dạy thực hành phải là người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề trở lên hoặc là nghệ nhân, người có tay nghề cao; Giáo viên dạy lý thuyết trình độ trung cấp nghề phải có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm kỹ thuật hoặc đại học chuyên ngành; giáo viên dạy thực hành phải là người có bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề hoặc nghệ nhân, người có tay nghề cao;
- 16 Giáo viên dạy lý thuyết trình độ cao đẳng nghề phải có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm kỹ thuật hoặc đại học chuyên ngành trở lên; giáo viên dạy thực hành phải là người có bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề hoặc nghệ nhân, người có tay nghề cao; Trường hợp giáo viên dạy nghề theo quy định trên không có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm kỹ thuật hoặc đại học sư phạm kỹ thuật thì phải có chứng chỉ đào tạo sư phạm. - Chức trách, nhiệm vụ của giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ Chức trách: giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ là người làm nhiệm vụ giảng dạy lý thuyết và thực hành nghề trang điểm thẩm mỹ theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Nhiệm vụ: giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ giảng dạy theo đúng nội dung, chương trình quy định và kế hoạch được giao. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật; chấp hành quy chế, nội quy của đơn vị; tham gia các hoạt động chung của cơ sở dạy nghề và với địa phương nơi cơ sở dạy nghề đặt trụ sở. Thường xuyên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; rèn luyện phẩm chất đạo đức; giữ gìn uy tín, danh dự của nhà giáo. Tôn trọng nhân cách và đối xử công bằng với người học; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người học nghề. Chịu sự giám sát của đơn vị về nội dung, chất lượng, phương pháp giảng dạy và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Đội ngũ giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ cũng có vai trò rất quan trọng, là nhân tố quyết định chất lượng đào tạo của các cơ sở dạy nghề, quyết định chất lượng đội ngũ lao động của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nước nói chung, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội trên địa bàn và trên phạm vi toàn quốc. Để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ phải có phẩm chất, năng lực, trong đó năng lực sư phạm giữ vị trí quan trọng đặc biệt.
- 17 * Năng lực sư phạm của giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể đều đòi hỏi con người phải có năng lực nhất định, phải có kiến thức văn hoá cơ bản, có kiến thức cần thiết về hoạt động nghề nghiệp của mình. Năng lực con người được nhiều môn khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tâm lý học Mác-xít cho rằng: "Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý của cá nhân đáp ứng với những yêu cầu hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động nhanh chóng, thành thạo và đạt kết quả cao". Năng lực được hiểu là những thuộc tính tâm, sinh lý quy định khả năng thực hiện các hoạt động của cá nhân. Theo cách hiểu này, tính trội của năng lực là năng khiếu và những tố chất tự nhiên của cá nhân đã được xã hội hoá. Đây là những thuộc tính tâm lý của cá nhân mà chúng ta chỉ có thể cảm nhận được hoặc đo được thông qua các công cụ trợ giúp nào đó. Tức là không thể trực tiếp tri giác được các thuộc tính bằng các giác quan. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó". Định nghĩa trên cho thấy, một hình thái khác của năng lực là khả năng hoạt động của cá nhân được hình thành và biểu hiện trong thực tiễn. Năng lực bao giờ cũng phải gắn với một lĩnh vực hoạt động cụ thể. Tính trội của năng lực ở đây thường được thể hiện trong hoạt động nghề nghiệp của cá nhân mà chúng ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận được biểu hiện đang diễn ra của nó. Đó là phẩm chất của cá nhân được thể hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động thực tiễn. Đạo đức học quan niệm về năng lực trong mối liên hệ với phẩm chất để phản ánh những thuộc tính của nhân cách. Trong đó: năng lực đồng nghĩa với "Tài", phẩm chất đồng nghĩa với "Đức", phẩm chất là điều kiện (đức là gốc),
- 18 năng lực là khả năng nhận thức những hoạt động nhất định và thực hiện có hiệu quả những hoạt động đó. Như vậy, các quan niệm trên đều thống nhất, năng lực là khả năng của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động nhất định, bảo đảm cho hoạt động ấy đạt hiệu quả cao. Từ cách tiếp cận trên đây có thể quan niệm: Năng lực sư phạm là tổng hòa các phẩm chất của cá nhân đáp ứng yêu cầu do nghề nghiệp sư phạm đặt ra, bảo đảm cho hoạt động sư phạm đạt được hiệu quả tốt nhất. Dưới góc độ tâm lý học, năng lực sư phạm là sự tương thích giữa những thuộc tính tâm, sinh lý của cá nhân với những yêu cầu do nghề nghiệp sư phạm đặt ra, được thể hiện trong xu hướng, tài nghệ và phong cách sư phạm của người giáo viên. Năng lực sư phạm là một loại hình năng lực nghề nghiệp. Năng lực sư phạm bị quy định bởi nhiều yếu tố. Trong đó các thuộc tính tâm, sinh lý của cá nhân, trình độ đào tạo và quá trình trải nghiệm thực tiễn nghề nghiệp sư phạm là những yếu tố quan trọng nhất, có vai trò chi phối các yếu tố khác. Năng lực sư phạm không phải là những thuộc tính tự nhiên sẵn có mà được hình thành và phát triển trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội cụ thể. Nếu không được nuôi dưỡng, không có môi trường tương tác thích hợp thì những thuộc tính đó không những không thể trở thành năng lực thực tiễn mà còn bị thui chột đi. Năng lực sư phạm được hình thành, phát triển trong quá trình học tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn sư phạm. Một trong những đặc điểm làm cho năng lực sư phạm không giống với những thứ năng lực khác là sự thâm nhập lẫn nhau giữa năng lực với phẩm chất. Các phẩm chất đạo đức, nhân cách của nhà sư phạm là một bộ phận cấu thành năng lực sư phạm. Nói đến năng lực sư phạm là đã hàm chứa trong đó các phẩm chất đạo đức, nhân cách của nhà sư phạm. Các phẩm chất đó thẩm thấu vào quan điểm, hành vi và tự nó có sức thuyết phục, hỗ trợ cho các kỹ năng hoạt động nghề nghiệp tạo thành năng lực của nhà sư phạm. Những nhà
- 19 sư phạm giỏi, tài năng chính là những người có đức độ, có nhân cách phát triển phù hợp với chuẩn mực giá trị của xã hội. Trong những điều kiện xã hội lịch sử khác nhau thì có những yêu cầu khác nhau về phẩm chất và năng lực sư phạm. Như vậy, năng lực sư phạm là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của người giáo viên, phù hợp với yêu cầu của hoạt động sư phạm, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả. Năng lực sư phạm phản ánh một cách độc đáo cấu trúc hoạt động sư phạm và bao gồm năm thành phần cơ bản: thành phần thiết kế, kiến tạo, tổ chức, giao tiếp và nhận thức. Năng lực sư phạm là loại năng lực chuyên biệt, có liên quan chặt chẽ với năng lực chung và các năng lực chuyên môn khác. - Thành phần nhận thức bao gồm những hành động có liên quan đến việc tích luỹ các tri thức mới về mục đích giáo dục và phương tiện đạt được nó; về tình trạng của khách thể và chủ thể của các tác động sư phạm; các kỹ năng tìm tòi tri thức từ các nguồn khác nhau. Có thể gồm một số kỹ năng cụ thể sau: + Biết nghiên cứu nội dung và phương pháp tác động đến người khác. + Biết tìm hiểu những đặc điểm lứa tuổi và loại hình cá thể của người đó. + Biết tìm hiểu đặc điểm quá trình và kết quả hoạt động của bản thân; nhận ra những ưu điểm và khuyết điểm trong hoạt động của mình. - Thành phần thiết kế bao gồm những hành động có liên quan tới việc quy hoạch tối ưu các nhiệm vụ được giao (những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài) và cách giải quyết chúng trong hoạt động tương lai của nhà sư phạm hướng vào việc đạt được các mục đích muốn tìm. + Biết dự kiến các hoạt động của học viên. + Biết xây dựng kế hoạch giáo dục và giảng dạy trong suốt cả một thời kỳ công tác nhất định với học viên.
- 20 + Biết thiết kế các biện pháp giáo dục động cơ học tập và hứng thú nghề nghiệp của học viên. + Biết xây dựng các biện pháp tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập độc lập của học viên. - Thành phần kiến tạo bao gồm các hành động có liên quan tới việc lựa chọn sắp xếp nội dung thông tin học tập và giáo dục trong bài giảng, xêmina và các biện pháp khác. Thành phần này cũng xác định đặc điểm hoạt động của bản thân nhà giáo và học viên trong các nội dung nói trên, biểu hiện ở một số nội dung cơ bản sau: + Biết lựa chọn và sắp xếp nội dung thông tin mà người học viên cần phải đạt được. + Dự kiến các hoạt động của học viên mà qua đó họ sẽ lĩnh hội được những thông tin cần thiết. + Dự kiến các hoạt động và hành vi của bản thân người giáo viên trong quá trình tác động qua lại với học viên. - Thành phần giao tiếp là những hành động có liên quan tới việc hình thành mối quan hệ hợp lý có tính chất giáo dục giữa người giáo viên và học viên tuân theo mục đích giáo dục, gồm những kỹ năng sau: + Biết thiết lập mối quan hệ qua lại đúng đắn với các chủ thể khác mà người giáo viên cần tác động. + Biết xây dựng các mối quan hệ qua lại đúng đắn với nhà lãnh đạo, quản lý và đồng nghiệp trong cơ sở đào tạo. - Thành phần tổ chức gồm những hành động thực tiễn để tổ chức cụ thể mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của các tác động sư phạm. Hoạt động của chủ thể và khách thể phải tuân theo thời gian và không gian phù hợp với hệ thống các nguyên tắc và thời gian biểu mà quá trình giáo dục cần phải được thoả mãn để hướng vào việc đạt được các kết quả giáo dục và được thể hiện ở những kỹ năng cơ bản sau:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 301 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 230 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 127 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 100 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 19 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 15 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn