intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư - xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:117

24
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư - xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm, góp phần luận giải những vấn đề lý luận – thực tiễn về tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực và góp phần vào việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để Ban Quản lý hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư - xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  NGUYỄN THỊ THẢNH NGUYỄN THỊ THẢNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG NGUỒN NHÂN  LỰC  TẠI BAN QUẢN LÝ ĐẦU TƯ ­ XÂY DỰNG  KHU ĐÔ TH TỔ CHỨC HO Ị MỒ ẠT ĐỘNG B I TH ỚI D  THIÊMỒN NHÂN  ỦNG NGU ƯỠ LỰC  TẠI BAN QUẢN LÝ ĐẦU TƯ ­ XÂY DỰNG  KHU ĐÔ THỊ MỚI THỦ THIÊM LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số: 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:  GS. TS NGUYỄN VĂN TÀI  HÀ NỘI ­ 2013 HÀ NỘI ­ 2013
  2. MỤC LỤC Trang
  3. MỞ ĐẦU 3 Chương  NHỮNG   VẤN   ĐỀ  LÝ   LUẬN   VỀ  TỔ   CHỨC   HOẠT  14 1 ĐỘNG BỒI DƯỠNG NGUỒN NHÂN LỰC  1.1  Các  khái niệm cơ bản của đề tài  14 1.2   Nội dung, phương pháp, hình thức tổ  chức hoạt động  20 bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư ­ xây  dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm Chương  NHỮNG   VẤN   ĐỀ   THỰC   TIỄN  TỔ   CHỨC   HOẠT  29 2 ĐỘNG   BỒI   DƯỠNG  NGUỒN  NHÂN   LỰC  TẠI  BAN  QUẢN LÝ ĐẦU TƯ  ­ XÂY DỰNG  KHU ĐÔ THỊ  MỚI  THỦ THIÊM 2.1 Những   yếu   tố   tác   động   đến   tổ   chức   hoạt   động   bồi  29 dưỡng nguồn nhân lực tại  Ban Quản lý đầu tư  ­ xây  dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm 2.2 Thực trạng nguồn nhân lực và tình hình tổ chức hoạt động  35 bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư – xây  dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm Chương  YÊU   CẦU   VÀ   CÁC   BIỆN   PHÁP   TỔ   CHỨC   HOẠT  46 3 ĐỘNG  BỒI  DƯỠNG  NGUỒN   NHÂN   LỰC  TẠI   BAN  QUẢN LÝ ĐẦU TƯ  ­   XÂY DỰNG KHU ĐÔ THỊ  MỚI  THỦ THIÊM 3.1 Yêu cầu xây dựng các biện pháp tổ chức hoạt động bồi   46 dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây   dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm 3.2 Các   biện   pháp   tổ   chức   hoạt   động   bồi   dưỡng   nguồn   49 nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư ­ xây dựng Khu đô thị  mới Thủ Thiêm hiện nay 3.3 Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện  74 pháp đã đề xuất KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 PHỤ LỤC 89
  4. ch÷ viÕt t¾t trong luËn v¨n ViÕt ®Çy ®ñ ViÕt t¾t Nguồn nhân lực NNL Phát triển nguồn nhân lực PTNNL Khoa học – công nghệ KH­CN Khu đô thị mới Thủ Thiêm KĐTMTT Ban Quản lý Khu Thủ Thiêm BQLKTT Ủy ban nhân dân UBND Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh UBNDTPHCM Giải phóng mặt bằng GPMB Quyết định đầu tư QĐĐT Đầu tư xây dựng ĐTXD Quy hoạch chi tiết QHCT Dự án đầu tư DAĐT Hạ tầng kỹ thuật HTKT
  5. 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong xu thế phát triển của xã hội hiện đại, cùng với việc phát huy  tiềm lực khoa học và công nghệ, nguồn tài chính, năng lực tiếp cận thị  trường... thì chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố bảo đảm tính cạnh tranh   của các quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đang trở thành  đòi hỏi bức thiết quan trọng hàng đầu, nhằm đáp ứng trực tiếp cho nhu cầu   phát triển của các doanh nghiệp và các nhu cầu thiết yếu khác. Chính vì  vậy, Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định phát triển và  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng  cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố    thúc đẩy phát triển  ứng dụng   khoa học công nghệ, cơ  cấu lại nền kinh tế, chuyển  đổi mô hình tăng  trưởng và  lợi   thế  cạnh  tranh  quan  trọng nhất,  bảo  đảm cho  phát  triển   nhanh, hiệu quả  và bền vững. Để  phát triển nguồn nhân lực chất lượng   cao, cùng với đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo  hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc tế  cần phải  đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng; thực hiện liên kết chặt chẽ  giữa các doanh nghiệp, các cơ  sở  sử  dụng lao động để  phát triển nguồn   nhân lực. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề  này, những năm qua,  Ban Quản lý đầu tư  ­ xây dựng Khu đô thị  mới Thủ  Thiêm đã quan tâm,  đầu tư vào con người thông qua các chính sách về tuyển dụng, đào tạo, quy  hoạch, bổ nhiệm và đãi ngộ  về  tiền lương,... nhằm tạo động lực, tăng sự  gắn kết, sự cống hiến của người lao động với Ban Quản lý. Tuy nhiên, qua  thực tiễn còn tồn tại khá nhiều bất cập, hạn chế  trong quản lý, tổ  chức 
  6. 6 hoạt động bồi dưỡng nhân lực. Mặc dù, đội ngũ nhân lực ở đây có trình độ  nhất định thể hiện qua bằng cấp và các chức danh đảm nhiệm nhưng trình   độ chuyên môn, năng lực giải quyết công việc thực tế còn lúng túng, thậm   chí có trường hợp biểu hiện sự  yếu kém trong thực hiện chức trách của  mình. Một trong những nguyên nhân hạn chế  của vấn đề  này là do hoạt   động bồi dưỡng chưa thực  hiện theo đúng qui trình, còn mang tính kinh  nghiệm, chưa khoa học; việc kết hợp các phương pháp, hình thức bồi dưỡng   chưa đa dạng; người lao động chưa tích cực, chủ  động tự  bồi dưỡng để  nâng cao phẩm chất và năng lực của bản thân,... Do vậy, vấn đề  đào tạo,  đào tạo lại, bồi dưỡng để  nâng cao chất lượng nhân lực phải được tiến  hành thường xuyên, liên tục với những chính sách và bước đi thích hợp với   tính chất, đặc điểm, chức năng nhiệm vụ của Ban Quản lý. Trên thực tế, về  phương diện lý luận đã có một số  công trình khoa  học nghiên cứu về nguồn nhân lực, phát triển nhân lực ở các phương diện   khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ  của khoa học quản lý giáo dục vấn đề  bồi dưỡng nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư ­ xây dựng Khu đô thị mới Thủ  Thiêm vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống. Xuất phát  từ  những lý do đó, tác giả  chọn đề  tài  “Tổ  chức hoạt động bồi dưỡng   nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây dựng Khu đô thị  mới Thủ   Thiêm” để làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở  Phương Tây, từ  lâu, các nhà kinh tế  học đã nhận thức thấy tầm   quan trọng của NNL và PTNNL. Chẳng hạn,  Adam Smith đã nhấn mạnh  tầm quan trọng của giáo dục ở nhiều điểm khác nhau trong bài “Sự giàu có  của các quốc gia”, ông cũng đã đưa nội dung “năng lực hữu ích và học   được của tất cả mọi thành viên của xã hội” vào khái niệm là “vốn cố định” 
  7. 7 (Smith A., 1937). Afred Marshall nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục   như “một sự đầu tư quốc gia” và theo quan điểm của ông “vốn giá trị nhất   trong   tất   cả   các   loại   vốn   là   vốn   đầu   tư   vào   con   người”   (Principles   of  Economics, 1930).  Tuy nhiên, sau đó các nhà kinh tế  học hiện đại  không  chú trọng nhiều lắm đến NNL đối với tăng trưởng kinh tế như một số nhà   kinh tế học cổ điển như Smith và Marshall đã từng làm. Có lẽ bởi vì vốn tự  nhiên là có thể đo đạc được và mối quan hệ giữa vốn và đầu ra được minh  chứng  ở  mức độ  tin cậy cách rõ ràng và do vậy một số  nhà kinh tế  học  hiện đại dường như  bỏ  qua yếu tố  NNL trong phát triển kinh tế. Khái  niệm đầu tiên về  vốn con người do   Gary S. Becker (1964) và Theodore  Schultz (1961) đưa ra. Thuyết về vốn con người đã và đang cung cấp một  khuôn khổ  cho chính sách chính phủ  kể  từ  khi những năm 60 và đã trở  thành một trong những lý thuyết có ảnh hưởng lớn trong giáo dục phương  Tây. Nó đưa ra những minh chứng thuyết phục về vai trò của giáo dục và  đào tạo như  là những yếu tố  chủ  chốt thúc đẩy sự  tham gia của các tổ  chức, các công ty, các tập đoàn lớn, và thậm chí toàn bộ quốc gia trong nền   kinh tế  toàn cầu. Lý thuyết này xác nhận tầm quan trọng của học tập và  giáo dục như quá trình tạo động lực cho việc xây dựng lợi thế  cạnh tranh  cho các công ty, tổ chức, và toàn bộ  quốc gia. Đầu tư vào giáo dục sẽ  tích  luỹ  vốn con người, là chìa khoá để  duy trì sự  tăng trưởng kinh tế  và tăng   thu nhập. Giáo dục, đặc biệt là giáo dục cơ bản (giáo dục phổ thông cơ sở)  cũng góp phần làm giảm đói nghèo nhờ  tăng năng suất lao động của tầng   lớp lao động nghèo, giảm sinh đẻ và tăng cường sức khoẻ, giúp mọi người  đều có cùng cơ  hội tham gia đầy đủ  vào hoạt động xã hội và phát triển  kinh tế. Ngoài ra, giáo dục giúp tăng cường các chức năng của xã hội dân  sự, xây dựng tiềm năng và củng cố  quản lý đất nước. Tất cả  những điều  
  8. 8 đó ngày càng được công nhận là những yếu tố  thiết yếu trong việc thực   hiện có hiệu quả các chính sách kinh tế  và xã hội khó khăn. Giáo dục góp  phần vào tăng trưởng kinh tế, nhưng bản thân giáo dục sẽ không thể tạo ra  sự  tăng trưởng. Sự  tăng trưởng nhanh nhất đạt được khi nền kinh tế  thị  trường cạnh tranh hàng hoá và các nhân tố  sản xuất đầu tư  vào cả  con  người lẫn vật chất. Những thị trường này là sản phẩm của các yếu tố  ổn   định kinh tế vĩ mô, thị trường lao động hiệu quả, hoà nhập với thương mại   quốc tế  và nguồn công nghệ  từ  bên ngoài. Sự  tăng trưởng kinh tế  chỉ  thể  hiện một phần  ở nguồn lao động và vốn vật chất. Một bộ  phận cấu thành  quan trọng của tăng trưởng này sinh từ những cải tiến chất lượng lực lượng   lao động, kể cả tăng cường giáo dục và y tế, cùng với tiến bộ khoa học kỹ  thuật và hiệu quả  kinh tế  nhở  qui mô (T.W. Schultz 1961: Denison   1967;  Ngân hàng Thế giới 1991). Những thuyết tăng trưởng kinh tế mới cho rằng   công nghệ thay đổi càng nhanh thì càng thúc đẩy sự  tăng trưởng kinh tế dài  hạn. Về phần mình, công nghệ  thay đổi nhanh hơn khi lực lượng lao động   có trình độ cao hơn. Vì vậy, tích luỹ vốn con người, và đặc biệt là kiến thức,   sẽ  tạo điều kiện phát triển các công nghệ  mới và là nguồn duy trì tăng   trưởng (Romer 1986; Lucas 1988; Azariadis và Drazen 1990, Barro 1991). Ở  Việt Nam vào những năm 1991­1992 với sự  tài trợ  của Chương   trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), UNESCO phối hợp với Bộ  Giáo  dục và Đào tạo đã bắt đầu triển khai Đề  án nghiên cứu tổng thể  về  giáo  dục và nguồn nhân lực VIE­89/022. Từ những năm đầu 90 cho đến nay, các nhà nghiên cứu ở  Việt Nam  bắt   đầu   có   những   nghiên   cứu   sâu   về   NNL   và   PTNNL.   Các   công   trình  nghiên cứu khá đa dạng và thường được tiến hành thông qua các chương  trình nghiên cứu cấp nhà nước, cấp bộ, hội thảo và các bài báo khoa học.  
  9. 9 Nội dung các nghiên cứu về  NNL/PTNNL do các học giả  Việt Nam tiến   hành rất đa dạng và đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về vấn đề này.   Tác giả  Phạm Minh Hạc đưa ra khái niệm: “Nguồn nhân lực là tổng thể  các tiềm năng lao động của một nước hay là địa phương, tức là nguồn lao   động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công   việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kĩ năng (hay khả  năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ  cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện  đại hoá” (Phạm Minh Hạc, 2001). Về  PTNNL, ông cho rằng đó là “phát   triển con người như  là một đơn vị  động lực của nguồn nhân lực, là thức  tỉnh, tích tụ, phát huy, sử dụng tiềm năng thành sức lao động xã hội tạo ra  giá trị  cho mình và cho người. Phát triển nguồn nhân lực con người trước  hết là đào tạo con người có năng lực lao động, phát triển bản thân thực sự  là chủ thể của lao động đủ trách nhiệm phát huy năng lực, tạo ra sản phẩm   lao động; trên cơ  sở  các chính sách sử dụng lao động, thị  trường việc làm,  vào chế độ quản lý nguồn nhân lực”. Theo nghĩa hẹp hơn, tác giả Đỗ Minh   Cương cho rằng “NNL là toàn bộ  lực lượng lao động trong nền kinh tế  quốc dân (hay còn gọi là dân số  hoạt động kinh tế), nghĩa là bao gồm   những người trong một độ  tuổi nhất định nào đó, có khả  năng lao động  thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. Về độ tuổi,  hiện nay  có nhiều quy định khác nhau. Đa số  các nước có quy định tuổi tối thiểu   (thường là 15 tuổi), còn độ tuổi tối đa thường trùng với tuổi nghỉ hưu hoặc   không giới hạn.  Ở  Việt nam, lực lượng lao động bao gồm những người   trong độ  tuổi lao động, đang có việc làm” (Đỗ  Minh Cương, 2002). Ông  cho rằng “PTNNL là các hoạt động (đầu tư) nhằm tạo ra NNL với số  lượng và chất lượng đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế ­ xã hội của 
  10. 10 đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân”. Vũ Văn Tảo  coi “PTNNL được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho con người, trên các  mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ  năng, tâm hồn, thể  lực..., làm cho con người   trở  thành những người lao động có những năng lực và phẩm chất mới và   cao hơn, tạo nên một nguồn vốn, một nguồn tài nguyên về  con người có  chất lượng lao động cao hơn, có thể  khai thác, sử  dụng, phát huy để  phát  triển   đất   nước”   (Vũ   Văn   Tảo,   2002).   Nguyễn   Đức   Trí   phân   tích   rằng  “NNL, theo quan niệm chung, mới chỉ  bao hàm tiềm năng phát triển của   con người. NNL chỉ  trở  thành động lực của sự  phát triển đất nước khi nó  được phát huy bằng cách phát triển nó (PTNNL) thông qua đào tạo, sử  dụng, bồi dưỡng, tạo hành lang pháp lý, chế độ, chính sách phù hợp cho nó.  Như  vậy, khái niệm PTNNL cần được hiểu đầy đủ  hơn trong ý tưởng   quản lý NNL. PTNNL bao gồm ba mặt phải quản lý: Đào tạo, sử dụng và  nuôi   dưỡng   môi   trường   cho   NNL,   chủ   yếu   là   môi   trường   việc   làm”   (Nguyễn Đức Trí, 2002). Khi bàn về  PTNNL các tác giả  Nguyễn Minh  Đường và Phan Văn Kha phân biệt PTNNL theo nghĩa hẹp như là quá trình  giáo dục, đào tạo và đào tạo lại. Còn PTNNL theo nghĩa rộng là “phát triển  nhân cách, sinh lực/thể  lực, đồng thời tạo dựng một môi trường xã hội  thuận lợi, gìn giữ  một môi trường sinh thái bền vững cho con người phát  triển để  cùng nhau lao động và chung sống, nhằm mục tiêu cho sự  phát  triển bền vững của xã hội và phục vụ  con người” (Nguyễn Minh Đường   và Phan Văn Kha, 2006). Theo tác giả Trần Khánh Đức: “Phát triển nguồn   nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi, chuyển biến về số lượng, cơ cấu   và chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh   tế­ xã hội ở các cấp độ khác nhau (quốc gia, vùng, miền, địa phương. v.v.. )   nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cần thiết cho các lĩnh vực hoạt động sản  
  11. 11 xuất ­ dịch vụ  và đời sống xã hội. Thông qua quá trình phát triển nguồn   nhân lực mà phát triển được tiềm năng con người, năng lực hành nghề , tạo   được công ăn việc làm, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống, địa vị  kinh tế, xã hội của các tầng lớp dân cư  và qua đó đóng góp chung cho sự  phát triển của xã hội” (Trần Khánh Đức, 2010). Trong thời gian qua, đã có một số đề tài khoa học, luận án tiến sĩ và  luận văn cao học nghiên cứu về  những vấn đề  xây dựng đội ngũ cán bộ  như là một phần của PTNNL trong thời kỳ mới. Đó là Luận văn thạc sĩ của  tác   giả   Đỗ   Ngọc   Mỹ   “Một   số   giải   pháp   phát   triển   đội   ngũ   giáo   viên   trường Trung học Kỹ thuật Lý Tự Trọng” (2002). Đã có nhiều tác giả quan  tâm đến vấn đề  bồi dưỡng và tổ  chức hoạt động bồi dưỡng NNL  ở  các  lĩnh vực hoạt động khác nhau. Luận văn thạc sĩ của tác giả  Nguyễn Sơn  Thành “Một số  biện pháp quản lý nhằm phát triển đội ngũ    giảng viên   Trường Đại học Hải Phòng đến năm 2010” (2004). Luận văn thạc sĩ của  tác giả Dương Đức Sáu “Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên Trường   Cao đẳng Sư  phạm Quảng Bình” (2005). Trong lĩnh vực quân sự, đề  tài  “Nghiên cứu giải pháp bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ  quản lý giáo dục   nhà trường quân đội”  (2008) do tác giả  Mai Văn Hóa làm chủ  nhiệm, đã  luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc bồi dưỡng kiến thức   nghiệp vụ  cho đội ngũ cán bộ  quản lý giáo dục nhà trường quân đội. Đề  xuất hệ thống biện pháp bồi dưỡng cho họ. Tác giả Nguyễn Quốc Nghị với  luận văn thạc sĩ “Tổ chức hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội   ngũ giáo viên trường Quân sự Quân khu 4”, tuy chỉ đi sâu vào một khía cạnh  là năng lực sư phạm và tổ chức hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho  một đối tượng là đội ngũ giáo viên  ở  một quân khu (Quân khu 4) nhưng   những luận giải của tác giả về tổ chức hoạt động bồi dưỡng lại có tính khái 
  12. 12 quát cao. Những biện pháp mà tác giả  đề  xuất có thể  vận dụng  ở  các  nhà  trường khác trong việc bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên. Luận văn thạc sĩ của tác giả  Lê Đình Huấn “ Thực trạng công tác   quản lý phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Sư  phạm Bình   Phước” (2010). Những công trình nghiên cứu này đã luận giải cơ sở lý luận  và thực tiễn của việc phát triển NNL trong các nhà trường. Đề xuất những  giải pháp để phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ  giáo  dục đào tạo trong thời kỳ mới. Tác giả Đào Duy Định với luận văn thạc sĩ “Giải pháp phát triển đội   ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở  các trường sĩ quan hiện nay” (2010) đã đề  xuất những giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có đủ  số  lượng, có chất lượng tốt và cơ  cấu phù hợp. Tác giả  Nguyễn Xuân Sinh   với luận văn thạc sĩ “Biện pháp bồi dưỡng phương pháp học tập cho học   viên trường Sĩ quan Chính trị hiện nay” (2009) và tác giả Lã Hồng Phương  với luận văn thạc sĩ “Bồi dưỡng năng lực dạy học cho học viên sư phạm ở   Học viện Chính trị hiện nay” (2011). Luận văn thạc sĩ của tác giả  Vũ Văn  Nghi “Phát triển đội ngũ giáo viên chuyên môn kỹ thuật Trường Trung cấp   kỹ thuật xe – máy, Tổng cục Kỹ thuật” (2012) đã luận giải cơ sở lý luận và  thực tiễn của việc phát triển đội ngũ giáo viên  ở  một nhà trường đặc thù   của Tổng cục Kỹ  thuật, Bộ Quốc phòng. Hệ  thống biện pháp của tác giả  đề xuất góp phần phát triển NNL ­ những cán bộ chuyên môn kỹ thuật của   quân đội. Các tác giả đã luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bồi  dưỡng phương pháp học tập và năng lực dạy học cho học viên ở trường Sĩ   quan Chính trị và Học viện Chính trị. Hệ thống biện pháp mà các tác giả đề  xuất đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo  ở  các nhà trường   quân đội hiện nay.
  13. 13 Các công trình, đề tài khoa học trên thế giới và ở Việt Nam  nêu ở trên  đã tiếp cận, nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau; đề cập, luận giải làm rõ  cơ  sở  lý luận, thực tiễn và đề  xuất giải pháp bồi dưỡng, phát triển nguồn  nhân lực nói chung và nguồn nhân lực của từng đơn vị, cơ  quan, doanh  nghiệp nói riêng; chỉ  rõ những đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, đào tạo; đề  xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, trong đó  có vấn đề  phát triển nguồn nhân lực cho quốc gia cho các lĩnh vực hoạt   động khác nhau. Những công trình nghiên cứu đó đã giúp chúng tôi kế thừa,   phát triển và xây dựng cơ  sở  lý luận để  nghiên cứu đề  tài “Tổ  chức hoạt   động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư ­ xây dựng Khu đô   thị mới Thủ Thiêm hiện nay”. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu cơ  sở  lý luận và thực tiễn tổ  chức hoạt động bồi dưỡng  NNL, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn  nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư ­ xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm, góp  phần luận giải những vấn đề  lý luận – thực tiễn về  tổ  chức hoạt động bồi   dưỡng nguồn nhân lực và góp phần vào việc phát triển và nâng cao chất lượng   nguồn nhân lực để Ban Quản lý hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm  rõ   những  vấn  đề   lý   luận  về   tổ  chức  hoạt  động  bồi  dưỡng  nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây dựng Khu đô thị  mới Thủ  Thiêm. Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và thực trạng tổ chức hoạt động  bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây dựng Khu đô thị  mới Thủ Thiêm.
  14. 14 Đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực  tại Ban Quản lý đầu tư ­ xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu Hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây   dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm Đối tượng nghiên cứu Các biện pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban  Quản lý đầu tư ­ xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Phạm vi nghiên cứu Nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây dựng Khu đô thị  mới  Thủ  Thiêm là phạm trù rộng, bao gồm nhiều thành phần, nội dung, tính   chất hoạt động khác nhau. Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu các biện  pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đối tượng khảo sát là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động  tại Ban Quản lý đầu tư ­ xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Thời gian khảo sát và các số liệu nghiên cứu từ năm 2007 đến 2012. 5. Giả thuyết khoa học Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có   hoạt động tổ chức bồi dưỡng. Đối với công tác quản lý ở Ban Quản lý đầu  tư  ­  xây dựng Khu đô thị  mới Thủ  Thiêm, nếu thực hiện có hiệu quả  và  đồng bộ các vấn đề: nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng, các  tổ  chức; tích cực, chủ  động bồi dưỡng cho cán bộ, công chức,  người lao   động cả về phẩm chất và trình độ mọi mặt; xây dựng và thực hiện có hiệu  quả  kế  hoạch tổ  chức bồi dưỡng; đa dạng hoá phương pháp, hình thức tổ  chức bồi dưỡng; phát huy tính tích cực của cán bộ, công chức, người lao 
  15. 15 động trong tự tổ chức hoạt động bồi dưỡng; thường xuyên kiểm tra, sơ tổng  kết, rút kinh nghiệm kịp thời về tổ chức hoạt động bồi dưỡng nhân lực thì  chất lượng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây dựng Khu đô thị  mới Thủ Thiêm sẽ được nâng lên. 6. Ý nghĩa của đề tài Đề tài có những đóng góp cơ bản sau đây: Đề  tài góp phần làm sáng tỏ  lý luận và thực tiễn của quá trình tổ  chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây  dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực  góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư  ­  xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Luận văn có thể  dùng làm tài liệu tham khảo cho việc tổ  chức các  hoạt động bồi dưỡng nhằm phát triển nguồn nhân lực ở  các lĩnh vực kinh  tế xã hội trong giai đoạn hiện nay. 7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật  biện chứng của Chủ  nghĩa Mác­Lênin;  quán triệt tư  tưởng giáo dục và  quản lý giáo dục của Hồ  Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam; chủ  trương chính sách của Đảng, Nhà nước về  quản lý nguồn nhân lực, phát  triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Nhà nước và vận  dụng phương pháp luận nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục. Qúa trình nghiên cứu, tác giả  sử  dụng các quan điểm tiếp cận hệ  thống ­ cấu trúc, quan điểm lôgíc – lịch sử và quan điểm thực tiễn để luận  giải nhiệm vụ của đề tài. Phương pháp nghiên cứu
  16. 16 Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học   chuyên ngành, bao gồm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu  thực tiễn,... Cụ thể là: Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài  liệu lý luận chuyên ngành, liên ngành, các văn kiện, nghị quyết của Đảng,  các văn bản pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước về  lĩnh vực giáo  dục đào tạo; các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề  tài   nghiên cứu ; các báo cáo, tổng kết của Ban Quản lý đầu tư ­ xây dựng Khu   đô thị mới Thủ Thiêm về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp quan sát sư  phạm: tiến hành quan sát hoạt động bồi  dưỡng tại Ban Quản lý đầu tư  ­ xây dựng Khu đô thị  mới Thủ  Thiêm và  hoạt động tự bồi dưỡng của cán bộ công chức, viên chức, người lao động. Tiến hành điều tra, khảo sát 63 cán bộ, công chức, viên chức, người  lao động trong Ban Quản lý đầu tư  ­ xây dựng Khu đô thị  mới Thủ  Thiêm  để đánh giá thực trạng tổ chức hoạt động bồi dưỡng. Nghiên cứu các sản phẩm tổ chức hoạt động bồi dưỡng như chương   trình, kế hoạch, báo cáo, thống kê, đăng ký kết quả bồi dưỡng của Ban. Toạ  đàm với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động  trong Ban Quản lý với mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Tiến hành xin ý kiến chuyên gia, tổng kết kinh nghiệm hoạt động tổ  chức bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Ban Quản lý đầu tư ­ xây dựng Khu đô  thị mới Thủ Thiêm. Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu nhằm đánh giá chính xác kết   quả điều tra khảo sát thu được. 8. Kết cấu luận văn
  17. 17 Đề  tài có kết cấu bao gồm 3 chương (7 tiết); kết luận, kiến nghị,   danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ  LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG  BỒI DƯỠNG NGUỒN NHÂN LỰC  1.1 Các khái niệm cơ bản của đề tài 1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là khái niệm có nội hàm rộng, thể  hiện sức người   được sử dụng trong lao động sản xuất, là thành phần cơ bản tạo lên giá trị  cốt lõi nhất của một tổ chức. Trong thời đại ngày nay, ở một tổ chức, nhất   là  ở  một doanh nghiệp, các yếu tố  cấu thành như: vốn, máy móc thiết bị,  công nghệ, con người,... thì vốn có thể  huy động, vay được từ  rất nhiều  ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác nhau; máy móc, thiết bị, công nghệ  là bình đẳng giữa các công ty trên toàn cầu trong thế  giới phẳng (chuyển  giao công nghệ trong và ngoài nước), một yếu tố còn lại duy nhất tạo nên   sự  hùng mạnh, sự  khác biệt của một cơ  quan chính là yếu tố  con người ­  chất lượng nhân lực của tổ  chức. Vì vậy, muốn tổ  chức phát triển nhanh,  bền vững thì cần phải chú trọng đặc biệt tới việc phát triển nguồn nhân  lực của tổ chức. Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng được hiểu như  nguồn nhân lực của   mỗi quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các nguồn lực có khả  năng huy động, tổ  chức quản lý để  tham gia vào một quá trình phát triển  kinh tế ­ xã hội như nguồn lực vật chất  (Physical Resources), nguồn lực tài  chính (Financial Resources). Theo Begg Fischer & Donbusch  (1995) nguồn 
  18. 18 nhân lực được hiểu là toàn bộ  trình độ  chuyên môn con người con người   tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập cao cho tương lai. Nguồn nhân lực  theo nghĩa rộng là toàn bộ  dân cư  có khả  năng lao   động, bao gồm cả  người muốn lao động và không muốn lao động. Theo   nghĩa hẹp và có thể  lượng hoá được là một bộ  phận của dân số  bao gồm   nhiều người trong độ  tuổi quy đinh, đủ  15 tuổi trở  lên có khả  năng lao  động hay còn gọi là lực lượng lao động. Số  lượng nguồn nhân lực được  xác định dựa trên qui mô dân số, cơ  cấu tuổi, giới tính và sự  phân bố  theo   khu vực và vùng lãnh thổ của dân số. Ở  nước ta, số  lượng lao  động trong độ  tuổi lao động (nhân lực)  được xác định bao gồm những người trong độ  tuổi lao động (Nam từ  16 ­  60, nữ  từ  16 ­55) đang có việc hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu  làm việc. Muốn phát triển nguồn nhân lực, gia tăng thêm các giá trị sử dụng  con người thì tất yếu phải quan tâm đến mục tiêu phát triển con người, gia   tăng thêm các giá trị về chính trị, đạo đức, trí tuệ, thể lực, thẩm mỹ...Trong   nguồn nhân lực, Đảng ta luôn quan tâm đến nguồn nhân lực chất lượng   cao, coi nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu   tố  đẩy mạnh phát triển và  ứng dụng khoa học công nghệ, cơ  cấu lại nền   kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế  cạnh tranh quan trọng   nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả  và bền vững. Phát triển và  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao   trước hết phải chú ý vai trò giáo dục. Nguồn nhân lực có hai cách hiểu, tùy thuộc vào hoàn cảnh. Cách hiểu   thứ  nhất được bắt nguồn từ  lĩnh vực kinh tế  học và kinh tế  chính trị  và  theo truyền thống thường được gọi là  lao động,  với tư  cách như  là một  trong bốn nhân tố sản xuất. Cách hiểu thứ hai được sử dụng phổ biến hơn 
  19. 19 trong cấp độ  cụ  thể  của các tổ  chức doanh nghiệp và thuật ngữ  này dùng  để  đề  cập đến cá nhân trong các tổ  chức và các công việc liên quan đến  tuyển dụng, sa thải, đào tạo và các vấn đề nhân sự khác. Theo tác giả F. H.  Harbison 1973 nguồn nhân lực là sức lực, kỹ năng, tài năng và tri thức của  những người trực tiếp tham gia hoặc có tiềm năng tham gia vào sản xuất   và sản xuất ra sản phẩm hoặc thực hiện những dịch vụ hữu ích. Từ những nghiên cứu trên có thể quan niệm:  nguồn nhân lực là tổng   thể  các tiềm năng lao động của một nước, một địa phương hay một tổ   chức được thể hiện ở cơ cấu, trạng thái thể lực, trí lực, trình độ  văn hóa,   năng lực chuyên môn, phong cách, phẩm chất chính trị, đạo đức của đội   ngũ lao động để tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. 1.1.2. Khái niệm bồi dưỡng nguồn nhân lực Bồi dưỡng là một thuật ngữ hiện nay được sử dụng khá nhiều trong  giáo dục như: bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng  nâng cao, bồi dưỡng nhân lực, bồi dưỡng nhân tài...Có nơi, có lúc chúng ta  còn dùng thuật ngữ bồi dưỡng dưới tên gọi tái đào tạo, đào tạo lại. Khái niệm bồi dưỡng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu tìm hiểu   và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt [53, tr.191] cho rằng: “Bồi dưỡng là làm cho   tốt hơn, giỏi hơn”.  Còn tác giả  Nguyễn Minh Đường quan niệm:  “Bồi   dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc   đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và thường được xác nhận bằng một   chứng chỉ”. Trong bài quản lí nhân sự  trong giáo dục, đào tạo, tác giả  Mạc Văn   Trang có nêu: “Bồi dưỡng là nâng cao trình độ về kiến thức và kỹ năng lên   một bước mới”.
  20. 20 Unesco định nghĩa:  Bồi dưỡng có nghĩa là nâng cao trình độ  nghề   nghiệp. Quá trình này chỉ  diễn ra khi cá nhân và tổ  chức có nhu cầu nâng   cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp   ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp. Như vậy, các quan niệm trên đều cho rằng bồi dưỡng là làm cho tăng  thêm trình độ, năng lực hoặc phẩm chất, sức khoẻ  với nhiều hình thức,   mức độ  khác nhau. Bồi dưỡng không đòi hỏi chặt chẽ  chính qui như  đào   tạo và được thực hiện trong thời gian ngắn. Đối tượng bồi dưỡng là người  lao động đã được đào tạo và đã có trình độ chuyên môn nhất định. Từ  nghiên cứu những quan niệm, định nghĩa về  bồi dưỡng nguồn  nhân lực trên, chúng tôi quan niệm bồi dưỡng nguồn nhân lực là quá trình   bổ sung kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, rèn luyện trí lực, thể lực và phẩm   chất chính trị đạo đức, nhằm chuyển hoá, tiến tới đạt chuẩn về chất lượng   nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hoạt động chuyên môn. Mục đích  bồi dưỡng nguồn nhân lực  ở  Ban Quản lý đầu tư  – xây  dựng Khu đô thị  mới Thủ  Thiêm là bổ  sung kiến thức, nâng cao trình độ,  năng lực quản lý và hoạt động nghề  nghiệp chuyên môn, rèn luyện những  phẩm chất chuyên môn nghề nghiệp và chính trị đạo đức cho cán bộ, công  chức, viên chức, người lao động để  đáp  ứng yêu cầu, nhiệm vụ  của Ban   Quản lý. Đối với quá trình bồi dưỡng nguồn nhân lực ở Ban Quản lý đầu tư ­  xây dựng Khu đô thị  mới Thủ  Thiêm thì chủ  thể tiến hành hoạt động bồi  dưỡng nguồn nhân lực là bộ  máy lãnh đạo của Ban  Quản lý.  Cụ  thể  là  Đảng uỷ, Lãnh đạo Ban... mỗi chủ  thể  của quá trình bồi dưỡng nguồn  nhân lực có chức năng, nhiệm vụ cụ thể, với nội dung quản lý hoạt động  bồi dưỡng nhất định. Cấp  ủy đảng, chi  ủy, chi bộ  có nhiệm vụ  lãnh đạo  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2