Luận văn Thạc sĩ Quản lý Khoa học và Công nghệ: Ứng dụng khoa học luận của Thomas Samuel Kuhn trong khoa học về chính sách khoa học
lượt xem 4
download
Luận văn góp phần làm rõ mối liên hệ giữa cơ sở lý thuyết về khoa học luận của Thomas Samuel Kuhn với việc xây dựng và củng cố một khoa học về chính sách khoa học, góp phần làm luận cứ khoa học cho các nghiên cứu xa hơn về chủ đề này. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các lớp khoa học luận tổng quan hay tổng quan chính sách khoa học công nghệ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý Khoa học và Công nghệ: Ứng dụng khoa học luận của Thomas Samuel Kuhn trong khoa học về chính sách khoa học
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VIỆT HÙNG ỨNG DỤNG KHOA HỌC LUẬN CỦA THOMAS SAMUEL KUHN TRONG KHOA HỌC VỀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI, 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VIỆT HÙNG ỨNG DỤNG KHOA HỌC LUẬN CỦA THOMAS SAMUEL KUHN TRONG KHOA HỌC VỀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ Mã số: 8 34 04 12 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH HỮU TUỆ HÀ NỘI, 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan nghiên cứu này là kết quả nghiên cứu của bản thân tác giả dưới sự hướng dẫn của TS. Trịnh Hữu Tuệ. Mọi tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ. Nếu có gì sai phạm tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm Tác giả luận văn Lê Việt Hùng
- LỜI CẢM ƠN Tác giả xin cảm ơn thầy hướng dẫn, các thầy cô giáo dạy khóa học, học viện và cơ quan công tác đã tạo mọi điều kiện học tập, nghiên cứu. Xin cảm ơn, gia đình và bạn bè đã luôn động viên hỗ trợ cho tác giả trong quá trình làm luận văn. Để có thể tiếp tục được học hỏi và hoàn thiện hơn nữa luận văn này, tôi chân thành mong muốn nhận được sự góp ý quý báu của quý thầy, cô giáo và các bạn học viên cho bản luận văn này của tôi. Hà Nội, tháng 09 năm 2019 Tác giả luận văn Lê Việt Hùng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHOA HỌC CỦA CHÍNH SÁCH KHOA HỌC..................................................................................................... 7 1.1. Khoa học học – khoa học lý thuyết về khoa học ................................. 7 1.2. Khoa học về chính sách khoa học – Khoa học hành động về khoa học ............................................................................................................. 15 Chương 2: KHOA HỌC LUẬN CỦA THOMAS SAMUEL KUHN ....... 24 2.1. Bối cảnh ra đời các tư tưởng khoa học luận của Thomas Kuhn. ....... 24 2.2. Các tư tưởng chủ đạo trong khoa học luận của Thomas Kuhn.......... 32 2.3. Các tư tưởng khoa học luận của Kuhn trong các ngành khoa học học cụ thể .................................................................................................. 37 Chương 3: ỨNG DỤNG KHOA HỌC LUẬN CỦA KUHN VÀO KHOA HỌC VỀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC .......................................... 54 3.1. Xây dựng mẫu hình: Đặt nền tảng cho khoa học về chính sách khoa học .................................................................................................... 54 3.2. Củng cố mẫu hình: Các kiến nghị cho khoa học về chính sách khoa học từ khoa học luận của T. S. Kuhn ............................................... 57 KẾT LUẬN .................................................................................................... 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 62
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế giới đang bước vào thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ với cả những mặt tích cực cũng như tiêu cực đi kèm với nó, một thời đại mà Klaus Schwab nói rằng nó sẽ “thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau” [18, tr.7]. Tác động qua lại của khoa học công nghệ với xã hội đòi hỏi phải có sự quản lý chủ động tích cực của con người đối với cả việc tạo ra tri thức khoa học và công nghệ lẫn tác động ngược trở lại của khoa học công nghệ. Mỗi chính sách nói chung và chính sách khoa học công nghệ nói riêng của các quốc gia, tổ chức đều có hệ thống các tư tưởng về khoa học công nghệ nền tảng, tường minh hoặc ngầm ẩn cho chính sách và quản lý. Để quản lý khoa học một cách hiệu quả và khoa học, bản thân các dữ liệu về chính sách khoa học phải chính xác, khách quan, điều này chỉ có thể có được khi có một bộ môn khoa học độc lập nghiên cứu về chính sách khoa học, chứ không chỉ nương tựa vào dữ liệu hay hoạt động thu thập thông tin của các cơ quan chuyên môn của các chính phủ, các tổ chức sự nghiệp. Để xây dựng một khoa học về chính sách khoa học, cần làm rõ nền tảng về khoa học luận (Khoa học luận”, tiếng anh là “Theory of Science” hay “Science Studies”, là hệ thống lý thuyết về khoa học hoặc một bộ môn nghiên cứu về các khoa học, lấy chính khoa học làm đối tượng nghiên cứu.) mà dựa trên đó tạo ra các định hướng để xây dựng khoa học về chính sách khoa học. Khoa học học (science studies) là một bộ môn nghiên cứu về chính khoa học, ra đời manh nha từ thời Hy Lạp cổ đại, với những bộ Công cụ Logic học của Aristotles như là phương pháp luận cho nghiên cứu khoa học. Một hệ tư tưởng của một nhà khoa học, hay một trường phái nào đó của khoa học học được gọi là khoa học luận. 1
- Từ năm 1970 đến nay môn khoa học và công nghệ luận dần dần tiếp cận liên ngành với môn nghiên cứu chính sách khoa học công nghệ, bắc chiếc cầu từ khoa học và công nghệ luận sang ứng dụng thực hành về chính sách và quản lý khoa học. Thomas Samuel Kuhn (T. S. Kuhn hay Kuhn) là một trong những nhân vật bước ngoặt của ngành khoa học học, các tư tưởng về khoa học học của ông ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nghiên cứu liên ngành về khoa học công nghệ và xã hội. Là một nhà vật lý chuyển sang làm nhà lịch sử và triết học về khoa học [15, tr.9] , Thomas Kuhn chủ yếu được nghiên cứu dưới góc độ triết học khoa học và lịch sử khoa học hoặc xã hội học khoa học [17, tr. 6]. Tuy nhiên, các nghiên cứu về ứng dụng tư tưởng về khoa học của ông trong khoa học hành động, cụ thể là khoa học chính sách lại chưa nhiều, đặc biệt là khoa học về chính sách khoa học, vốn là bộ môn cần thiết trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ. Với những phân tích và lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Ứng dụng khoa học luận của Thomas Samuel Kuhn trong khoa học về chính sách khoa học” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài. Mặc dù Kuhn tự giới hạn mình trong các lý luận về khoa học tự nhiên, đặc biệt là các khoa học vật lý (vật lý, hóa học) [17, p. 217] nhưng ảnh hưởng tư tưởng của Kuhn (đặc biệt là với khái niệm “mẫu hình” (paradigm) của ông lên các khoa học khác là rất lớn, Barnes, B. (1982) đã phân tích ảnh hưởng của Thomas Kuhn lên các khoa học xã hội ; Dando, M. R. và Bennett, P. G. (1981), đã đưa khái niệm paradigm của Kuhn vào phân tích sự khủng hoảng trong môn khoa học quản lý và nghiên cứu vận trù học (operation research). 2
- Trong chuyên ngành quản lý khoa học công nghệ và nghiên cứu chính sách khoa học công nghệ, có các công trình nghiên cứu sau: - Beatriz Ruivo; ‘Phases’ or ‘paradigms’ of science policy?, Science and Public Policy, Volume 21, Issue 3, 1 June 1994, Pages 157– 164, https://doi.org/10.1093/spp/21.3.157 trong bài báo này, Ruivo đã phân tích sự tiến hóa và chu kỳ hóa của chính sách khoa học nhiều nước khác nhau, ông nhận ra rằng bất chấp những khác biệt về quốc gia, thì có những sự tương đồng về quan điểm cốt lõi cũng như các công cụ được sử dụng. Dựa vào thuật ngữ “mẫu hình” của T. S. Kuhn, Ruivo đưa ra thuật ngữ “mẫu hình của chính sách khoa học” để chỉ sự tương đồng đó, và cho rằng mẫu hình sinh ra từ bản chất quốc tế của hoạt động khoa học cùng với sự quốc tế hóa của chính sách khoa học mà trong đó các cơ quan liên chính phủ đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, có thể nói nghiên cứu của Ruivo tập trung vào phân tích hệ hình cho chính sách khoa học hơn là cho khoa học về chính sách khoa học. Hơn nữa, Ruivo không tách bạch giữa “cộng đồng các nhà phân tích (nghiên cứu) về chính sách khoa học” và “cộng đồng các nhà quản lý, hoạch định chính sách khoa học” mà gộp chúng chung vào một hệ hình quốc tế của chính sách khoa học. 2.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Về Thomas Kuhn đã có một số tác giả có những đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực triết học khoa học của ông như: Đỗ Khắc Linh (2016). Quan niệm của Thomas Samuel Kuhn về cách mạng khoa học trong tác phẩm “Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Nguyễn Thái Hòa (2017) “Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm “Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học””, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Có một số chuyên khảo có điểm qua khoa học luận của Kuhn như của tác giả 3
- Đỗ Anh Thơ, Những kiến giải về triết học khoa học cùng một số sách giáo trình, chuyên khảo về triết học phương Tây…Các công trình trên chủ nghiên cứu khoa học luận của ông dưới giác độ triết học. Theo tìm hiểu của tác giả thì chưa thấy có công trình nào vạch ra ý nghĩa ứng dụng trong triết học khoa học của ông với ngành quản lý khoa học hay nghiên cứu chính sách khoa học. Về Kuhn trong khoa học luận và trong quản lý và phân tích chính sách khoa học có các công trình nghiên cứu: Tác giả Vũ Cao Đàm, trong Giáo trình Khoa học luận Đại cương, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhắc đến Thomas Kuhn trong tổng thể môn học rộng lớn hơn là Khoa học và Công nghệ luận. Cũng tác giả Vũ Cao Đàm trong Tập bài giảng Lý thuyết hệ thống và cuốn sách Kỹ năng Phân tích và Hoạch định Chính sách đã dựa vào khái niệm paradigm của Kuhn để đưa ra khái niệm khung mẫu của chính sách gồm 4 tầng. Việc khung mẫu hóa chính sách khiến cho việc nghiên cứu chính sách nói chung và chính sách khoa học nói riêng đến gần hơn khoa học chuẩn định, bởi lẽ chính sách khoa học như là đối tượng nghiên cứu của khoa học về chính sách khoa học được định dạng, định hình. Ở Việt Nam có tương đối ít công trình khoa học và sách vở đề cập đến khoa học luận của Kuhn, và theo sự tìm hiểu của tác giả, chưa có công trình nào nghiên cứu về ứng dụng khoa học luận của Kuhn trong khoa học về chính sách khoa học trong chuyên ngành quản lý khoa học công nghệ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu. Luận văn đưa ra những gợi ý ứng dụng khoa học luận của Kuhn vào khoa học về chính sách khoa học. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Hệ thống hóa các khái niệm của khoa học học 4
- - Phân tích thực trạng môn khoa học học trên thế giới - Làm rõ ý nghĩa ứng dụng của khoa học luận của Kuhn với bộ môn khoa học về chính sách khoa học 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về ý nghĩa ứng dụng khoa học luận của T. S. Kuhn vào khoa học về chính sách khoa học. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu khoa học luận của Kuhn trong toàn bộ tiến trình tư tưởng của ông về khoa học, từ bài báo đầu tiên của ông trên tạp chí Isis cho đến bài phỏng vấn ông trước khi qua đời tại khoa triết học và lịch sử khoa học ở Hy Lạp năm 1995. (Danh mục các công trình khoa học của Kuhn được ghi ở phụ lục 1 của luận văn.) Từ đó, chắt lọc và nghiên cứu tập trung vào các tư tưởng khoa học luận của Kuhn có khả năng ứng dụng trong việc xây dựng môn khoa học về chính sách khoa học. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các tác phẩm gốc của Thomas Samuel Kuhn, tác phẩm được dịch sang tiếng Việt của ông, có tham khảo thêm các tài liệu như luận văn, luận án, các bài báo khoa học và sách chuyên khảo và để phân tích, làm rõ, hệ thống hóa nội dung tư tưởng về khoa học luận của ông; đối chiếu các khái niệm, học thuyết của Kuhn về khoa học luận và các khái niệm, học thuyết của quản lý khoa học nhằm vạch ra các mối liên hệ khả dĩ. Việc phân tích các tư tưởng khoa học luận của Kuhn được đặt trong bối cảnh lịch sử kinh tế - chính trị - xã hội cùng với môi trường trí thức mà chúng ra đời nhằm nắm bắt chính xác các tư tưởng của ông về khoa học. Luận văn sử dụng các tư liệu nước ngoài và trong nước về khoa học về chính sách khoa học để nhận biết, đánh giá thực trạng của bộ môn khoa 5
- học này, đối chiếu với quan điểm khoa học luận của T. S. Kuhn để đưa ra các đánh giá. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm rõ mối liên hệ giữa cơ sở lý thuyết về khoa học luận của Thomas Samuel Kuhn với việc xây dựng và củng cố một khoa học về chính sách khoa học, góp phần làm luận cứ khoa học cho các nghiên cứu xa hơn về chủ đề này. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các lớp khoa học luận tổng quan hay tổng quan chính sách khoa học công nghệ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo. Luận văn được kết cấu thành 3 chương. Chương 1. Cơ sở lý luận của khoa học về chính sách khoa học Chương 2: Khoa học luận của Thomas Samuel Kuhn Chương 3: Ứng dụng khoa học luận của Kuhn vào khoa học về chính sách khoa học 6
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHOA HỌC CỦA CHÍNH SÁCH KHOA HỌC 1.1. Khoa học học – khoa học lý thuyết về khoa học 1.1.1. Lược sử khoa học học “Khoa học học” là thuật ngữ được dùng đầu tiên bởi nhà xã hội học và triết học xã hội người Ba Lan Maria Ossowska (1896 - 1974) và nhà xã hội học Ba Lan Stanisław Ossowski (1897 – 1963) [20, p.3]. Tuy nhiên các tư tưởng về khoa học luận có thể truy nguyên về thời kỳ triết học cổ đại như ở Xenophanes [20, p.73], ông được coi là người đầu tiên đưa ra vấn đề phân biệt giữa niềm tin đúng và hiểu biết thực sự [19, p.66-67] , Aristotle với Bộ công cụ Logic như là phương pháp luận cho nghiên cứu về thế giới, các quan điểm xã hội học và chính trị học về khoa học cũng manh nha trong tư tưởng của Plato và Aristotle về địa vị, vai trò của tầng lớp trí thức trong xã hội. Cách mạng công nghiệp ra đời, khiến các nhà tư tưởng như Karl Marx và F. Engels lưu ý tính chất quan trọng của khoa học tự nhiên và các ứng dụng kỹ thuật của nó. Marx và Engels đã chỉ ra nhiều lần mối tương tác giữa các yếu tố xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất và khoa học, công nghệ. [21] [22] Công nghệ là yếu tố quan trọng cấu thành nên lực lượng sản xuất, sự phát triển của công nghệ dưới góc độ công cụ lao động là một nhân tố then chốt dẫn đến những biến động lớn lao của lịch sử loài người như sự thay đổi các hình thái kinh tế xã hội. Công nghệ lại dựa vào khoa học tự nhiên, do vậy sự phát triển của khoa học, hay khoa học và công nghệ có quan hệ mật thiết với sự phát triển của lịch sử nhân loại. Khoa học học lấy các khía cạnh, phương diện khác nhau của khoa học làm đối tượng nghiên cứu của mình, María Ossowska và Stanislaw Ossowski đã chia khoa học luận theo hai cách tiếp cận: cách tiếp cận nhận thức luận và cách tiếp cận nhân học [20, pp.72]. Cách tiếp cận nhận thức luận xem khoa 7
- học như một một cách nhận thức thế giới, cách tiếp cận nhân học xem khoa học như một hoạt động văn hóa đặc thù trong tổng thể các hoạt động văn hóa đa dạng của con người. Tất nhiên, các tác giả này nhấn mạnh, sự phân chia theo 2 cách tiếp cận chỉ là tương đối, có những phân môn của khoa học học, chú ý đến cả khía cạnh nhân học lẫn khía cạnh nhận thức luận của khoa học như môn tâm lý học về khoa học [20, p.73]. Khách thể nghiên cứu của khoa học học chính là khoa học, đối tượng nghiên cứu của khoa học học là những phương diện xoay quanh khoa học cũng như mối liên hệ giữa khoa học và các lĩnh vực khác. Phương pháp nghiên cứu khoa học học rất đa dạng tùy theo từng chuyên ngành khoa học học; khoa học học là một khoa học mang tính đa bộ môn, liên bộ môn và xuyên bộ môn. Từ năm 2015, Hakob Barseghyan của Viện nghiên cứu Lịch sử và Triết học Khoa học, Đại học Toronto đã đưa ra khái niệm về một bộ môn khoa học học mang tính mô tả về sự phát triển khoa học lấy tên là scientonomy. Hakob đã kế thừa các tư tưởng khoa học luận từ Kuhn, Lakatos, Laudan và các bậc tiền bối khoa học luận khác để đề xuất một bộ môn mới: gồm nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu quan sát về sự thay đổi các lý thuyết khoa học. [28] Kể từ đó đến nay, cộng đồng khoa học học scientonomy dần định hình bằng một cộng đồng, có tạp chí chuyên ngành, có từ điển bách khoa, có các buổi hội thảo chuyên đề và thảo luận thường niên, mở ra một triển vọng cho một môn khoa học học thực sự mang tính hệ thống. 1.1.2. Các khái niệm cơ bản trong khoa học học 1.1.2.1. Khoa học Vì khoa học là một đối tượng động, thay đổi theo thời gian nên định nghĩa về khoa học cũng thay đổi theo thời gian. Ta có thể điểm qua các mốc định nghĩa của lịch sử khái niệm “khoa học”. 8
- Aristotle quan niệm “Chỉ có cái tổng quát mới đáng gọi là khoa học” và “Đối tượng thực sự của khoa học không phải là cái tổng quát mà là cái tất yếu, vì rằng nếu khoa học là tổng quát thì cũng chính vì tính tất yếu đã hàm chứa tính tổng quát” (trích dẫn bởi Lê Tử Thành, 2006) [5]. Bacon cũng cho rằng: “Chỉ có cái tất yếu mới là khoa học”. Fouliqué: “Khoa học là hệ thống những chân lý tổng quát hoặc hơn nữa, tất yếu về cùng một đối tượng”. Cuvillier: “Khoa học là hệ thống những nhận thức và nghiên cứu có phương pháp, nhằm mục đích khám phá ra những định luật tổng quát về các hiện tượng”. Lalande: “Khoa học là toàn thể những nhận thức và những nghiên cứu có trình độ thống nhất, tổng quát, chính xác nhờ đó có thể quy tụ các nhà khảo cứu, vượt lên trên những thành kiến cá nhân và những ước định độc đoán để chỉ ra những quan hệ khách quan có thể được chứng minh hay kiểm chứng bằng những phương pháp đúng đắn”. Hữu Ngọc và các tác giả khác định nghĩa: “Khoa học là hệ thống tri thức gồm những quy luật về tự nhiên, xã hội và tư duy, được tích lũy trong quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn, được thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết. Nhiệm vụ khoa học là miêu tả hiện tượng một cách chính xác và phát hiện những quy luật khách quan của các hiện tượng ngẫu nhiên để giải thích và dự kiến chúng. Khoa học giúp con người ngày càng có khả năng chinh phục tự nhiên và xã hội”. [5] Karl Hemper đưa ra định nghĩa: “Khoa học là một hoạt động tìm kiếm một thế giới quan ngày càng bao quát, được tổ chức có hệ thống, mang tính giải thích và dự đoán về thế giới”. [11, p. 73-100]. Luận văn sử dụng định nghĩa này của Karl Hemper về khoa học và áp dụng nó cho định nghĩa về khoa học của chính sách khoa học. 9
- 1.2.2.2. Phân loại khoa học – cây tri thức Phân loại khoa học là phân tách khoa học như một tổng thể thành các cụm và các phạm trù khác nhau. Có nhiều cách để phân loại khoa học: phân theo đối tượng nghiên cứu, phân theo phương pháp nghiên cứu, phân theo mục đích của nghiên cứu. [1, tr. 40-47] Phân theo đối tượng nghiên cứu ta có khoa học tự nhiên, nghiên cứu về giới tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu về con người, khoa học hình thức và tư duy nghiên cứu các đối tượng hình thức của tư duy và các đối tượng logic, toán học, mẫu hình tính toán. Phân theo cấu trúc của hệ thống tri thức ta có khoa học cơ bản và khoa học chuyên ngành. Trong hệ thống tri thức của một ngành khoa học cụ thể ta có thể có: khoa học cơ bản, khoa học cơ sở và khoa học chuyên ngành. Phân loại theo cách thức hình thành khoa học ta có thể thấy có khoa học tiên nghiệm (tiên đề): dựa trên những tiên đề hoặc hệ tiên đề, khoa học hậu nghiệm được hình thành trên cơ sở quan sát, thực nghiệm. Khoa học phân lập tách ra từ một chuyên ngành lớn hơn, hoặc khoa học tổng hợp là “con lai” của hai ngành khoa học như lý hóa hay hóa sinh. Phân loại theo mục đích, chức năng của khoa học ta có thể có: khoa học mô tả, khoa học ứng dụng, khoa học hành động. Khoa học về chính sách nói chung và khoa học về chính sách khoa học nói riêng thuộc về khoa học hành động. 1.1.3. Các bộ môn và các học thuyết trong khoa học học. Có rất nhiều môn khoa học học tùy theo phương diện nghiên cứu, cách tiếp cận và đối tượng nghiên cứu, nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của khoa học như triết học về khoa học, lịch sử khoa học, xã hội học khoa học, kinh tế học khoa học, nhân chủng học khoa học, tâm lý học khoa học. Các bộ môn này có thể chồng lấn, phân tách, tổng hợp và bổ trợ lẫn nhau. Luận văn chỉ điểm qua bốn bộ môn khoa học học xuất hiện trong hệ tư tưởng về khoa 10
- học của Kuhn, đó là lịch sử khoa học, triết học về khoa học, tâm lý học về khoa học và xã hội học khoa học. 1.1.3.1. Lịch sử khoa học Lịch sử khoa học là bộ môn nghiên cứu quá trình phát triển, sự thay thế, quy luật lịch sử nếu có của cá nhân, tổ chức, và các quan niệm, lý thuyết khoa học theo thời gian, thời kỳ, thời đại. Trong đó, sự phát triển và thay thế các lý thuyết khoa học là phần quan trọng nhất và khó nhất. Bộ môn lịch sử khoa học có thể coi là được thành lập bởi nhà bác học, sử gia và triết gia khoa học William Whewell (1794-1866), các tác phẩm của ông về lịch sử khoa học nổi tiếng như History of the Inductive Sciences (1837) và The Philosophy of the Inductive Sciences, Founded Upon Their History (1840) trong đó ông truy nguyên các bộ môn khoa học như là đã tiến hóa từ các bộ môn thời cổ đại và đưa ra một lý thuyết chung về sự phát triển và thống nhất của tri thức khoa học. Lịch sử khoa học ngoài việc khám phá các sự kiện và quy luật lịch sử phát triển của khoa học ra còn nghiên cứu phương pháp luận của việc chép sử khoa học. Ngoài William Whewell, các ông tổ khác của bộ môn phương pháp chép sử khoa học có thể coi gồm Pierre Duhem và Alexandre Koyré. Thomas Kuhn là một bước ngoặt lớn đóng góp cả về phương pháp luận lẫn nội dung của lịch sử khoa học. Các nhà lịch sử khoa học sau ông, dù có thể bất đồng hay đồng thuận, bác bỏ hay kế thừa, cũng khó có thể phủ nhận Kuhn là một nhà sử học lý thuyết lẫn thực hành lớn trong bộ môn lịch sử khoa học. Lịch sử khoa học, ngoài nhiệm vụ chung nâng cao dân trí, còn đóng góp cho môn lịch sử nói chung hay các môn lịch sử khác; khoa học là đặc trưng của loài người, nên lịch sử nhân loại gắn bó mật thiết với lịch sử khoa học. Nghiên cứu lịch sử khoa học, có thể giúp nhận biết những nét chi tiết hoặc đại cương trong tiến trình phát triển tri thức của nhân loại, có thể thúc đẩy sự tăng 11
- trưởng tri thức, hoặc giúp khai thác tốt hơn các tri thức đã có trong kho tàng tri thức của nhân loại. 1.1.3.2. Triết học về khoa học Triết học về khoa học là một tiểu lĩnh vực của triết học nghiên cứu các nền tảng, phương pháp và ý nghĩa của khoa học. Triết học khoa học nghiên cứu bản thể của tri thức khoa học (tri thức khoa học có tồn tại độc lập, khách quan với con người, xã hội không, hay tri thức là một dạng kiến tạo xã hội, hay tri thức khoa học sinh ra từ đầu óc thiên tài của cá nhân nhà khoa học?), vấn đề chân lý trong tri thức khoa học (chân lý khoa học là tương đối hay tuyệt đối, liệu có thể đạt đến chân lý tuyệt đối bằng khoa học hay không? Liệu chân lý có phải là tiêu chuẩn cao nhất để vươn tới của tri thức khoa học hay không? Bản chất của một cộng đồng khoa học là gì? Triết học khoa học cũng nghiên cứu vấn đề đạo đức học của khoa học, chẳng hạn như hệ quan điểm nào của khoa học thì đúng đắn về mặt đạo đức, những đối tượng nào không được phép nghiên cứu, những phương pháp nghiên cứu nào không đúng đắn về mặt đạo đức? Trách nhiệm của nhà khoa học với các hệ quả sinh ra từ nghiên cứu của mình là gì? Mối quan hệ của khoa học và đạo đức là gì? Triết học về khoa học manh như từ thời cổ đại, và vào thế kỷ 20, chủ nghĩa thực chứng logic nổi lên như một trào lưu lớn về triết học khoa học; tuy triết học này có nhiều ưu điểm nhưng cũng không ít bất cập. Triết học về khoa học có một quan tâm lớn về ngôn ngữ, và do đó có sự giao nhau lớn giữa triết học ngôn ngữ và triết học khoa học. Do tầm quan trọng của ngôn ngữ và đặc biệt là ngôn ngữ chuyên ngành; đồng thời những xem xét về lịch sử cũng là một đòi hỏi thực tế trong triết học khoa học. Triết học lịch sử và triết học ngôn ngữ về khoa học là những tiếp cận quan trọng của triết học khoa học. Điều đó ta sẽ thấy rõ ở Kuhn. 12
- 1.1.3.3. Tâm lý học khoa học Tâm lý học khoa học nghiên cứu phương diện tâm lý của hoạt động khoa học, bao gồm hoạt động sáng tạo, hoạt động tổ chức quản lý trong khoa học. Phân ngành này của tâm lý học nổi lên từ những năm 1960 với tác phẩm có ảnh hưởng của nhà tâm lý học nổi tiếng Abraham Maslow “The Psychology of Science: A Reconnaissance” (1966), lĩnh vực này sau đó bị quên lãng và quay trở lại được chú ý vào những năm 1980. [12] Nhà khoa học với tư cách là một con người mang những đặc điểm tâm lý của một con người và với tư cách nhà khoa học, nhà nghiên cứu, đều có thể là đối tượng của ngành tâm lý học. Có thể nói, tâm lý học khoa học là sự soi chiếu, ứng dụng nói chung của tâm lý học nói chung vào khoa học, đồng thời nghiên cứu những khía cạnh tâm lý đặc thù của đời sống khoa học. Tâm lý của nhà khoa học có thể được nghiên cứu dưới góc độ cá nhân (tâm lý học cá nhân) và tập thể (tâm lý học xã hội), bởi nhà khoa học vừa là các cá nhân độc lập, đặc thù, nhưng lại làm việc trong mối liên hệ mật thiết với cộng đồng khoa học của mình. Một trong những “mảnh đất” mà khoa học về chính sách khoa học thường bỏ qua đó là việc xây dựng sự phát triển khoa học ở cấp độ nhận thức. Những khảo sát vi mô này về chính sách khoa học là một lĩnh vực đang xuất hiện dưới sự hợp tác giữa các tâm lý học và các kỹ sư. [9, pp. 5] Trong những chương dưới, ta có thể thấy Kuhn đã dùng các lý thuyết của môn tâm lý học hình trạng (Gestalt psychology) là tâm lý học về tri giác để giải thích một số khía cạnh tâm lý khoa học. 1.1.3.4. Xã hội học về khoa học Xã hội học khoa học bắt nguồn từ xã hội học tri thức và dần tách ra thành một bộ môn độc lập. Xã hội học khoa học manh nha từ xã hội học tri thức (trong đó có tri thức khoa học) mang lập trường duy vật của Marx- 13
- Engels và lập trường duy tâm của Sorokin. Với Marx và Engels, sự phát triển của khoa học bị ảnh hưởng bởi cấu trúc giai cấp và quan hệ sản xuất. Với Sorokin, các nền tảng tinh thần văn hóa (cultural mentalities) là đặc tính chung, thiết yếu quy định tính chất của các tổ chức, cá nhân tại một thời kỳ nhất định. Cả Marx và Sorokin, dù ở lập trường duy vật hay duy tâm, cũng đều dành một tính tự trị tương đối cho các tổ chức cụ thể trong xã hội, đặc biệt là các tổ chức tri thức chuyên ngành. [18, p.152] Sự độc lập của xã hội học khoa học có thể coi được đánh dấu bởi nhà xã hội học khoa học Hoa Kỳ Robert K. Merton với nghiên cứu về khoa học ở Vương quốc Anh thế kỷ 17. Xã hội học khoa học nổi lên mạnh mẽ từ cuối những năm 1960 đầu 1970 và chủ yếu ở Anh, một vài nơi khác xuất hiện sớm là Pháp, Đức và Mỹ (đặc biệt tại đại học Cornell). Xã hội học khoa học nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa xã hội và khoa học, nó nghiên cứu các vấn đề xoay quanh mạng lưới, quyền lực và các thể chế trong khoa học. [9, p.56] Xã hội học khoa học có hai loại: xã hội học về nhà khoa học (hoặc tổ chức khoa học) và xã hội học về tri thức khoa học. Xã hội học về khoa học xem khoa học như một hoạt động xã hội, đặc biệt là “các điều kiện xã hội ảnh hưởng đến khoa học và các quá trình cũng như cấu trúc của các hoạt động khoa học.” [7]. Về cơ bản, xã hội học khoa học không cổ súy một thứ chủ nghĩa tương đối hay là công kích các dự án khoa học mà tìm cách giải thích vì sao trong khoa học một diễn giải này lại được ưa chuộng hơn một diễn giải khác tùy theo các yếu tố xã hội. Xã hội học về tri thức khoa học nổi lên như một cách tiếp cận khác Merton (tập trung vào nhà khoa học và tổ chức khoa học). Trường phái Edinburg với David Bloor và Barry Barne đã dựa vào truyền thống nhân học văn hóa của Durkheim, Mauss; triết học ngôn ngữ của Wittgenstein hậu kỳ và 14
- một phần khoa học luận của Kuhn để phát triển một xã hội học có thể tính đến cả nội dung các ý tưởng khoa học. Có nhiều trường phái và quan niệm khác nhau về xã hội học khoa học, nhưng về cơ bản chúng đều phân biệt với tâm lý học khoa học, rằng đơn vị cơ bản của phân tích chuyên ngành phải là cộng đồng khoa học cùng hệ giá trị của chúng, hơn là tâm lý học cá nhân hay tâm lý học tập thể của các nhà khoa học. Điều này chúng ta sẽ thấy Kuhn chỉ ra trong các tác phẩm của mình. 1.2. Khoa học về chính sách khoa học – Khoa học hành động về khoa học 1.2.1. Chính sách Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về chính sách. Luận văn xin điểm qua một vài định nghĩa và quan niệm về “chính sách”. Theo từ điển Australian Concise Oxford Dictionary: “Chính sách là một loại nguyên tắc hay chương trình hành động, được thực thi hay đề xuất bởi một chính phủ, một đảng phái, một doanh nghiệp hay một cá nhân.” Richard Rose định nghĩa chính sách không phải là những hành vi rời rạc mà là “một chuỗi dài các hoạt động ít nhiều có liên quan đến nhau”, nhấn mạnh tính xâu chuỗi, tính xuyên suốt, tính liên kết, tính thống nhất của các hành động trong chính sách. [21, x] Amitai Etzioni coi chính sách như một dạng ra quyết định tổng quát trong đó “toàn bộ tập hợp các quyết định được xem xét và hoàn cảnh ra quyết định được tính tới” [8, p. 252]. James E. Anderson định nghĩa: “Chính sách là quá trình hành động có mục tiêu mà một chủ thể theo đuổi để giải quyết những vấn đề mà họ quan tâm”. Chính sách được chia thành chính sách công và chính sách tư. Theo tác giả Đặng Duy Thịnh, chính sách công là “những chính sách do các cơ quan 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 303 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 231 | 44
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “Một cửa”, “Một cửa liên thông” tại Ủy ban nhân dân cấp Phường tại quận Nam Từ Liêm
28 p | 237 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về dịch vụ công ích vệ sinh môi trường trên địa bàn quận Hà Đông
90 p | 74 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Tạo động lực làm việc cho viên chức tại Ban quản lý dự án quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
115 p | 59 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Công tác quản lý hồ sơ tại cơ quan Tổng cục Thuế, Bộ tài chính
117 p | 72 | 10
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 18 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 27 | 5
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng
28 p | 104 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn