Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam
lượt xem 78
download
Trên cơ sở vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý thu BHXH, luận văn phân tích thực trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc từ năm 2009 đến năm 2013, qua đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý thu BHXH bắt buộc, đảm bảo thực hiện các quy định của Nhà nước về BHXH có hiệu quả và phát triển sự nghiệp BHXH một cách bền vững. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là trụ cột trong hệ thống ASXH được thực hiện ở nước ta ngay từ những ngày đầu thành lập nước. Ngày 01/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 54/SL quy định điều kiện cho công chức, viên chức Nhà nước hưởng chế độ hưu trí. Từ đó đến nay, chính sách BHXH không ngừng được sửa đổi, bổ sung phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước, góp phần đảm bảo cuộc sống cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang nhân dân, NLĐ. Tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ và trong xây dựng bảo vệ tổ quốc, đưa đất nước vững bước đi lên trên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội, để chính sách BHXH phù hợp với tình hình thực tiễn và hội nhập quốc tế; Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm cần phải giải quyết tốt việc "Thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn định, từng bước cải thiện". Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: "Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH đối với NLĐ thuộc các thành phần kinh tế". Tháng 01/2007 Luật BHXH có hiệu lực thi hành, các đối tượng tham gia đóng, hưởng BHXH đã được thực hiện đến tất cả lao động làm việc trong các thành phần kinh tế và mở rộng loại hình BHXH tự nguyện,
- 2 tạo nên sự bình đẳng về BHXH đối với mọi NLĐ. Từ năm 2009 2013, số lao động tham gia BHXH tăng hàng năm bình quân khoảng 7%, số thu BHXH tăng bình quân khoảng 33% và hình thành quỹ BHXH độc lập với NSNN. Đây là bước chuyển đổi căn bản về sự nghiệp BHXH từ chế độ bao cấp chủ yếu dựa vào NSNN sang cơ chế quỹ BHXH chủ yếu d ựa trên nguồn thu do NLĐ, chủ sử dụng lao động đóng góp để chi trả các chế độ BHXH, góp phần ổn định chính trị, xã hội thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách BHXH thời gian qua còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất là trong công tác thu BHXH đã và đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm giải quyết, đó là: Việc phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc còn nhiều hạn chế; tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH, chưa tham gia hoặc tham gia không đầy đủ cho số lao động làm việc tại đơn vị còn xẩy ra phổ biến ở các địa phương. Số lao động tham gia BHXHchiếm tỷ lệ thấp so với lao động trong diện tham gia BHXH bắt buộc. Số lao động chưa tham gia BHXH tập trung chủ yếu ở khối loại hình DN ngoài quốc doanh (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân…), thậm chí có những DN lạm dụng quỹ BHXH, chiếm dụng tiền đóng BHXH của NLĐ để sử dụng làm vốn SXKD... Do đó, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH đối với NLĐ và kết quả thu BHXH. Vấn đề quản lý lao động làm việc trong các thành phần kinh tế là cơ sở để phát triển đối tượng tham gia BHXH của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về chính sách BHXH của cơ quan BHXH và các đơn vị chưa được thường xuyên; công tác kiểm
- 3 tra, xử lý vi phạm pháp luật BHXH đối với các chủ sử dụng lao động cố tình không đóng, đóng không đúng, không kịp thời, đầy đủ BHXH cho NLĐ còn chưa thực sự quyết liệt; giải quyết nợ đọng BHXH là một trong những vấn đề gây bức xúc hiện nay. Thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tác phong, phong cách phục vụ NLĐ của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thu BHXH và ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thu, tạo thuận lợi tối đa cho tổ chức, cá nhân tham gia BHXH. Trong tình hình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nhiều DN mới được thành lập và cũng có không ít DN không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường, hoặc làm ăn thua lỗ kéo dài phải giải thể, phá sản. Dẫn đến những biến động tăng, giảm, di chuyển lao động rất phức tạp và xảy ra thường xuyên, liên tục khó khăn cho công tác quản lý người tham gia cũng như thu BHXH. Do vậy hoạt động thu BHXH là rất khó khăn. Thực trạng đặt ra đó đòi hỏi cần phải có những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu BHXH làm cơ sở để giải quyết chế độ chính sách cho người tham gia, đảm bảo tăng trưởng quỹ BHXH và thực hiện công bằng xã hội. Do đó, tôi lựa chọn đề tài: “Quản lý thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua BHXH Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, đề tài dưới góc độ khoa học cấp bộ, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đi sâu nghiên cứu những vấn đề chung, cũng như từng lĩnh vực cụ thể về BHXH. Có thể nói tới các công trình như:
- 4 Đề tài: “Thực trạng quản lý thu Bảo hiểm xã hội hiện nay và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thu”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do Tiến sĩ Nguyễn Văn Châu làm chủ nhiệm đề tài bảo vệ năm 1996.Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thu BHXH của một số nước trên thế giới và tổng kết hoạt động thực tiễn của quản lý thu BHXH ở Việt Nam trước năm 1995 và đến năm 1996, tác giả làm rõ thực trạng hoạt động BHXH, đặc biệt là công tác thu BHXH trong thời gian qua, nhằm phân tích khả năng thu BHXH để bù đắp các chế độ BHXH được hưởng nhằm thay thế dần các nguồn chi lấy từ Ngân sách Nhà nước, đồng thời đề xuất kiến nghị một số vấn đề cụ thể nhằm cải tiến công tác thu BHXH ở Việt Nam Đề tài khoa học: “Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH” đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Tiến sĩ Dương Xuân Triệu, Chủ nhiệm, bảo vệ năm 1999 do BHXH Việt Nam chủ trì. Đề tài đã đánh giá việc tổ chức thực hiện quy trình thu và đề xuất các giải pháp đổi mới, hoàn thiện quy trình thu đem lại hiệu quả trong thực hiện Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000: “Hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực DN ngoài Quốc doanh ở Việt Nam”. Luận văn đã phân tích, tình hình thực hiện thu BHXH đối với các đơn vị, doanh nghiệp ngoài nhà nước, đánh giá những thành công và tồn tại hạn chế, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH nói chung và khu vực DN ngoài quốc doanh nói riêng. Luận án Tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh (năm 2004) với đề tài “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”: Luận án đã tập trung phân tích tình hình tài chính quỹ BHXH qua các thời kỳ và đưa ra các giải pháp liên quan đến quản lý và cân đối quỹ BHXH.
- 5 Nhìn chung các công trình, bài viết trên, dưới những góc độ tiếp cận khác nhau đã đề cập đến vấn đề quản lý thu BHXH nói chung, trong đó quản lý thu BHXH bắt buộc. Một số kết quả nghiên cứu về quản lý thuBHXH bắt buộc ở từng địa phương cụ thể. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu cụ thể về quản lý thu BHXH bắt buộc và đề xuất các giải pháp nâng cao hoạt động thu BHXH bắt buộc tại BHXH Việt Nam dưới góc độ quản lý kinh tế. Do đó, đề tài có tính cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về qu ản lý thu BHXH, luận văn phân tích thực trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc từ năm 2009 đến năm 2013, qua đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý thu BHXH bắt buộc, đảm bảo thực hiện các quy định của Nhà nướ c về BHXH có hiệu quả và phát triển sự nghiệp BHXH một cách bền vững. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý thu BHXH bắt buộc. Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH Việt Nam, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những hạn chế và những vấn đề đang đặt ra hiện nay trong công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH Việt Nam. Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý thuBHXH bắt buộc tại BHXH Việt Nam. Kiến nghị với Nhà nước bổ sung sửa đổi chính sách liên quan đến công tác thuBHXH bắt buộc.
- 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH Việt Nam trên 3 nội dung đối tượng tham gia BHXH, tiền lương làm căn cứ tính đóng BHXH và nguồn thu BHXH. Luận văn không nghiên cứu thu BHXH tự nguyện, bảo hiểm y tế… Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về công tác quản lý thu BHXH bắt buộc tại Việt Nam từ năm 2009 – 2013. Luận văn chỉ nghiên cứu quản lý thuBHXH bắt buộc trong phạm vi đối tượng dân sự, không nghiên cứu đối tượng công an, quân đội, cơ yếu Chính phủ. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng được đề ra trong các kỳ Đại hội, các số liệu tổng hợp báo cáo về thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam. Tác giả sử dụng phương pháp hệ thống và khái quát hóa, có minh hoạ, đối chiếu, so sánh, kế thừa một số công trình đã công bố có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để đánh giá và làm sáng tỏ vấn đề cần quan tâm. 6. Những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận văn Đề tài của luận văn nghiên cứu về một trong những nhiệm vụ thư ờng xuyên của ngành, đã và đang có những vấn đề đặt ra cần giải quyết, tháo gỡ để góp phần phát triển bền vững sự nghiệp, đáp ứng được yêu cầu hiện tại cũng như thực hiện mục tiêu "BHXH cho mọi NLĐ". Những giải pháp được đề xuất và những kiến nghị với các cấp có thẩm quyền có thể tham khảo, vận dụng vào thực tế công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam. 7. Ý nghĩa của luận văn
- 7 Luận văn tập trung phân tích chi tiết, tổng h ợp và đánh giá thực trạng công tác quản lý thu BHXH b ắt buộc ở Vi ệt Nam giai đoạn 2009 2013, trên cơ sở đó đưa ra một số gi ải pháp thiết thực hiệu qu ả trong t ổ chức thực hiện, đồng thời đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiệ n hơn đố i với công tác quản lý thu BHXH bắt bu ộc, đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình mới ở Việt Nam. Đề tài có thể tham khảo, vận dụng vào thực tế công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
- 8 Chương1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC 1.1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc * Khái niệm BHXH bắt buộc, các loại hình và chế độ BHXH bắt buộc. Khái niệm BHXH: Hệ thống BHXH đầu tiên ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ XIX dưới thời Thủ tướng Bismark (18831889) với cơ chế ba bên (Nhà nước giới chủ giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho NLĐ trong một số trường hợp họ gặp rủi ro. Chế độ BHXH này bao gồm: Chế độ bảo hiểm ốm đau (1883); bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp (1884) và bảo hiểm tuổi già, tàn tật (1889). Trước tác dụng tích cực của hệ thống BHXH này nhiều nước bắt đầu áp dụng hệ thống BHXH. Trong những năm 30 của thế kỷ XX, một số nước còn mở rộng thêm những chế độ khác ngoài BHXH và xuất hiện khái niệm mới: An sinh, an toàn xã hội (Social Security). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã có Công ước số 102 năm 1952 về ASXH. Hiện nay, trên thế giới nói chung người ta coi BHXH là một bộ phận cấu thành của ASXH. Ở nước ta, BHXH xuất hiện vào những năm 30 của thế kỷ XX, một số chế độ được áp dụng khi đó là chế độ ốm đau, chế độ tai nạn, chế độ hưu trí và cũng chỉ áp dụng cho một số đối tượng làm việc, phục vụ trong bộ máy hành chính, quân đội của Pháp. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, tại văn bản pháp luật cao nhất đã có những quy định
- 9 về BHXH, thể hiện sự quan tâm và nhận thức của Nhà nước về vấn đề này. Tuy nhiên, do tình hình chính trị xã hội phức tạp khi đó cũng như những khó khăn về quỹ, về đối tượng tham gia và hưởng BHXH… mà pháp luật BHXH chưa được áp dụng theo nghĩa đầy đủ về mặt nội dung pháp lý cũng như xã hội của nó. Pháp luật BHXH được chính thức áp dụng rộng rãi kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 kèm theo Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước. Văn bản pháp luật này điều chỉnh tất cả các vấn đề về BHXH ở nước ta trong suốt thời gian dài, từ khi được ban hành cho đến những năm 80 của thế kỷ XX. Sau đó, với sự thừa nhận và phát triển của nền kinh tế thị trường, pháp luật nói chung và pháp luật BHXH nói riêng đã có sự đổi mới về chất. Điều 56 Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận: “Nhà nước quy định… chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với NLĐ”. Trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 43/CP ngày 22/6/1993 quy định tạm thời chế độ BHXH. Sau một thời gian thực hiện, trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm và từ yêu cầu của thực tế đời sống, pháp luật BHXH được xây dựng thành một chương độc lập (chương XII) trong Bộ luật Lao động ngày 23/6/1994 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc đổi mới, cải cách chế độ BHXH. Để cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Lao động, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 kèm theo Điều lệ BHXH; Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 về việc ban hành Điều lệ BHXH đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân và Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam. Với sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động (tháng 4/2002) trong đó có các nội dung về BHXH, Nghị
- 10 định của Chính phủ số 01/2003/NĐCP ngày 09/01/2003 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 được ban hành. Tiếp đó, trên cơ sở các cam kết của Chính phủ Việt Nam trong việc gia nhập WTO về chính sách ASXH cùng với sự chín muồi về nhận thức, về điều kiện kinh tế xã hội đất nước, nhu cầu của đời sống xã hội… ngày 29/6/2009 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI nước ta đã thông qua Luật BHXH và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 (riêng đối với BHXH tự nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2008; BHTN có hiệu lực từ ngày 01/01/2009). Như vậy, việc xây dựng và phát triển pháp luật BHXH ở nước ta luôn phản ánh và song hành với các nhu cầu của đời sống trên cơ sở điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Tuy nhiên, tùy theo góc độ tiếp cận khác nhau mà có những quan niệm khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt, BHXH là sự: “Bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động…”[8,tr.36]. Theo TS. Đỗ Văn Sinh: “BHXH là biện pháp Nhà nước sử dụng để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động, chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia BHXH đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm ổn định đời sống cho họ và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội” [20, tr.14]. Kể từ khi xuất hiện đến nay, BHXH luôn phát huy tác dụng trong những lúc NLĐ gặp khó khăn hiểm nghèo do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già… trên cơ sở những cam kết đóng góp của NLĐ và người
- 11 SDLĐ cho một bên thứ ba (cơ quan bảo hiểm) trước khi xảy ra những biến cố đó. Tuy nhiên, BHXH không trực tiếp chữa bệnh cho người tham gia BHXH khi họ ốm đau, tai nạn, sắp xếp việc làm cho người mất việc làm… mà chỉ giúp họ giữ thăng bằng phần thu nhập bị giảm hay bị mất hoặc giúp họ trang trải phần chi tiêu bị tăng cao đột xuất do gặp các rủi ro nói trên. Vì vậy,BHXH là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho NLĐ khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Sở dĩ khái niệm BHXH được tiếp cận với những nội dung đa dạng như trên bởi trước khi có Luật BHXH thì không có văn bản pháp lý nào quy định một cách cụ thể và chính thức về vấn đề này, hơn nữa sự đa dạng đó còn được giải thích bởi góc độ tiếp cận và nhu cầu nghiên cứu khác nhau. Hiện nay, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật BHXH thì BHXH được định nghĩa như sau: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”.[15, tr.2]. * Khái niệm BHXH bắt buộc BHXH bắt buộc là loại hình BHXH mà NLĐ và NSDLĐ phải tham gia. Mặc dù là loại hình bắt buộc nhưng xét về bản chất nội hàm hai ý nghĩa: Một là, BHXH mang tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc. Tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn trong các chế độ BHXH quy định bản chất củaBHXH, đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mnh thông qua m ́ ột loạt các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập,
- 12 gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc và trợ cấp cho các gia đình đông con. Đối với các rủi ro như trên, nhiều khi từng cá nhân không đủ khả năng tài chính để khắc phục, do vậy Nhà nước ban hành các quy định để huy động mọi người trong xã hội đóng góp một khoản nhất định cùng với Nhà nước hình thành quỹ BHXH để chi trả cho một số người gặp rủi ro cần khắc phục hay do điều kiện sinh học như tuổi tác, môi trường sống, điều kiện làm việc mà NLĐ phải nghỉ làm việc, khi đó cần có một khoản kinh phí để đảm bảo cuộc sống cho chính bản thân và gia đình họ. Mục tiêu của BHXH là tạo ra màng lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả các thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do những biến cố hoặc những "rủi ro xã hội". Vì vậy, để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, BHXH phải dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau.Có thể thấy rõ bản chất của BHXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các thành viên của xã hội trước mọi biến cố xã hội bất lợi. BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân văn cao đẹp: mọi người trong xã hội với tư cách là một công dân, họ phải được đảm bảo mọi mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo...đều bình đẳng về BHXH. Hai là, BHXH là một công cụ để quản lý xã hội, là sự bảo đảm của Nhà nước để ổn định đời sống cho người tham gia BHXH và an toàn xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đồng thời đây là quá trình phân phối lại thu nhập xã hội.
- 13 BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng, song hành cùng với chính sách kinh tế, nhằm bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho mọi NLĐ, chống các tệ nạn xã hội, góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy sản xuất phát triển. Với tư cách là công cụ để quản lý xã hội, Nhà nước quy định quyền và trách nhiệm giữa các bên tham gia BHXH, đặc biệt mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ; yêu cầu NSDLĐ phải thực hiện những cam kết, đảm bảo điều kiện làm việc, nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần cho NLĐ, trong đó có nhu cầu cơ bản về tiền lương, tiền công, chăm sóc sức khoẻ khi bị ốm đau, tai nạn... Đây là những ràng buộc mang tính nguyên tắc và thông qua đó Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. BHXH dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia, gồm NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước trong một số trường hợp, thực chất quỹ BHXH là quỹ của NLĐ tiết kiệm được, bất luận trong hoàn cảnh nào Nhà nước phải đứng sau hỗ trợ, duy trì, bảo toàn để thực hiện các chế độ trợ cấp cho NLĐ, nếu không thì xã hội sẽ mất ổn định, kinh tế sẽ trì trệ. Ngược lại, nếu quỹ BHXH được hình thành và phát triển lớn mạnh sẽ có khoản nhàn rỗi để đầu tư trở lại giúp cho sản xuất phát triển. BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập xã hội. Đây là quá trình phân phối lại theo hướng có lợi cho người tham gia BHXH khi gặp phải rủi ro trong lao động sản xuất và đời sống xã hội, vì chính việc tổ chức thu, chi BHXH là quá trình thực hiện phân phối lại thu nhập: Thu BHXH dựa trên cơ sở mức tiền lương, tiền công do Nhà nước quy định và mỗi ng ười tham gia có một mức đóng BHXH khác nhau tương ứng với mức tiền lương, tiền công đó; hằng năm Nhà nước còn trích một khoản nhất định từ Ngân sách để hỗ trợ quỹ BHXH. Chi BHXH là việc trả tiền cho người có nhu cầu phát sinh về BHXH dựa trên mức đóng và thời gian đóng BHXH
- 14 trong chế độ dài hạn, nhưng trong chế độ ngắn hạn thì không dựa trên nguyên tắc này mà có sự chia sẻ giữa người khoẻ cho người ốm, người trẻ cho người già. * Các loại hình BHXH Hiện nay, có hai loại hình BHXH cơ bản: BHXH bắt buộc BHXH tự nguyện * Các chế độ bảo hiểm xã hội Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với NLĐ. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Hiện nay, tồn tại 9 chế độ BHXH, song tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, mà số lượng các chế độ được thực hiện ở mỗi nước khác nhau. Ở nước ta, Điều 4 Luật BHXH quy định rõ các chế độ BHXH, gồm: BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây: + Ốm đau; + Thai sản; + Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; + Hưu trí; + Tử tuất. BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây: + Hưu trí; + Tử tuất. BHTN bao gồm các chế độ sau đây:
- 15 + Trợ cấp thất nghiệp; + Hỗ trợ học nghề; + Hỗ trợ tìm việc làm. Nội dung của các chế độ nêu trên được quy định thống nhất trong Luật BHXH. Mỗi một chế độ được xây dựng đều căn cứ vào những cơ sở như: điều kiện kinh tế xã hội, môi trường lao động, điều kiện sinh học… 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thu bảo hiểm xã hội bắt buộc * Khái niệm thu BHXH bắt buộc: Khi nói đến thu BHXH là nói đến các mối quan hệ khăng khít, bao gồm quan hệ giữa Nhà nước, NSDLĐ, NLĐ và cơ quan BHXH. Trong mối quan hệ này thì NLĐ, NSDLĐ là đối tượng quản lý; Nhà nước giao cho cơ quan BHXH chủ thể quản lý; Nhà nước là chủ thể duy nhất điều tiết và quản lý BHXH vì các bên tham gia có lợi ích khác nhau thậm chí trái ngược nhau (NLĐ muốn đóng ít nhưng lại muốn được hưởng thụ quyền lợi nhiều, NSDLĐ muốn đóng BHXH càng ít càng tốt để giảm chi phí sản xuất nâng cao lợi nhuận). Nhà nước với hai tư cách: một là, thông qua cơ quan lập pháp (Quốc hội) đề ra Luật BHXH, thông qua Chính phủ đề ra các quy định về BHXH; hai là, thông qua các cơ quan nhà nước để thực hiện nộp BHXH cho NLĐ hưởng lương từ NSNN và thành lập cơ quan chuyên trách (BHXH Việt Nam) thực hiện chính sách BHXH. Để thực hiện thu BHXH đảm bảo theo đúng các quy định của Nhà nước, cơ quan BHXH phải xây dựng biện pháp, kế hoạch, tổ chức các thao tác nghiệp vụ, phối hợp với các đơn vị liên quan và hình thành hệ thống chuyên thu từ Trung ương đến cấp huyện, thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, khép kín. Như vậy, trong hoạt động thu BHXH, mối quan hệ ba bên là NLĐ, NSDLĐ và cơ quan BHXH được xác lập quyền và trách nhiệm của mỗi bên do pháp luật về BHXH quy định, các quy định này là những căn cứ pháp lý mà mỗi bên phải
- 16 tuân thủ, thực hiện nghiêm túc. Mặt khác để thu đúng, đủ, kịp thời, không để thất thoát tiền thu, đòi hỏi cơ quan BHXH phải có phương pháp và biện pháp hữu hiệu, kể các các biện pháp hỗ trợ. Thu BHXH là một khái niệm phức hợp, bao gồm các định hướng, chủ trương, phương pháp và biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, chỉ đạo, khuyến khích đẩy mạnh công tác thu BHXH. Như vậy, thu BHXH bắt buộc là sự tác động của Nhà nước thông qua các quy định mang tính pháp lý bắt buộc các bên tham gia BHXH phải tuân thủ thực hiện; trong đó cơ quan BHXH sử dụng các biện pháp nghiệp vụ và các phương pháp đặc thù tác động trực tiếp vào đối tượng đóng BHXH để đạt mục tiêu đề ra. * Các đối tượng thu bảo hiểm xã hội BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do NLĐ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của NLĐ bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những NLĐ tham gia BHXH. Còn đối tượng tham gia BHXH là NLĐ và người SDLĐ. Tuy vậy, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó. Ở nước ta, Điều 2, Luật BHXH quy định đối tượng áp dụng như sau: NLĐ tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm: Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; Cán bộ, công chức, viên chức; Công nhân quốc phòng, công nhân công an; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
- 17 quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc. Người SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho NLĐ. * Chủ thể thu BHXH Theo Nghị định số 19CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH hiện nay ở Trung ương và địa phương; Nghị định số 100/NĐCP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam; Nghị định số 94/2008/NĐCP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam, BHXH Việt nam có nhiệm vụ tổ chức thu BHXH theo quy định của Chính phủ. BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, gồm có: + Ở Trung ương là BHXH Việt Nam. + Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là BHXH tỉnh, thành phố trực
- 18 thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là BHXH tỉnh) trực thuộc BHXH Việt Nam. + Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là BHXH huyện) trực thuộc BHXH tỉnh. * Đặc điểm thu BHXH bắt buộc Số đối tượng phải thu rất lớn và gia tăng theo thời gian nên thu BHXH rất khó khăn và phức tạp. Theo quy định của Luật BHXH, số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc rất lớn. Do đó, quản lý thu BHXH phải đảm bảo để tất cả các đối tượng thuộc diện phải tham gia BHXH đều phải tham gia BHXH nhằm bảo đảm quyền lợi cho NLĐ. Thu BHXH mang tính chất định kỳ, lặp đi lặp lại, do đó khối lượng công việc rất lớn, đòi hỏi nguồn nhân lực và cơ sở vật chất phục vụ cho thu cũng phải tương ứng. Theo quy định, hàng tháng, khi có phát sinh tăng giảm lao động hoặc tiền lương, chủ SDLĐ lập danh sách gửi cơ quan BHXH để được tăng, giảm kịp thời. Số đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng đòi hỏi nguồn nhân lực, cơ sở vật chất phục vụ quản lý phải phù hợp. Chỉ có như vậy thì quản lý thu BHXH mới đảm bảo kịp thời và chính xác. Đối tượng thu là tiền nên dễ xảy ra sai phạm, vi phạm đạo đức và lạm dụng quỹ BHXH. Theo quy định, chậm nhất đến ngày cuối cùng của tháng, đơn vị trích tiền đóng BHXH bắt buộc trên quỹ tiền lương, tiền công tháng của những NLĐ tham gia BHXH bắt buộc, đồng thời trích từ tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc của từng NLĐ theo mức quy định, chuyển cùng một lúc
- 19 vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc nhà nước. Trong thực tế hiện nay, số đơn vị thực hiện theo đúng quy định này không nhiều, một số đơn vị còn nộp chậm BHXH, do vậy đòi hỏi trong thu BHXH phải sát sao, kịp thời. * Vai trò của thu BHXH bắt buộc Thứ nhất, vai trò của thu BHXH trong việc tạo lập quỹ BHXH và thực hiện chính sách BHXH. Thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt tập trung, thống nhất. Qua đó, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH nói chung và giữa những người tham gia BHXH nói riêng. Thu BHXH ở hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai. BHXH cũng như các loại hình bảo hiểm khác đều dựa trên cơ sở nguyên tắc có đóng có hưởng BHXH đã đặt ra yêu cầu đối với thu nộp BHXH. Nếu không thu được BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn để chi trả các chế độ BHXH cho NLĐ. Do đó, thu BHXH đóng một vai trò quyết định, then chốt trong quá trình đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ. Thứ hai, vai trò của thu BHXH trong mối quan h ệ gi ữa các bên trong BHXH. Để thực hiện chính sách BHXH thuận lợi thì thu BHXH có vai trò như một điều kiện cần và đủ. Bởi thu BHXH là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập quỹ BHXH. Đồng thời thu BHXH cũng là một khâu bắt buộc đối với NLĐ và người SDLĐ tham gia BHXH. Thứ ba, vai trò của thu BHXH trong vi ệc đảm bảo sự công bằng trong BHXH. BHXH không nhằm mục đích kinh doanh, không vì lợi nhuận, nhưng
- 20 phân phối trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại thu nhập. BHXH dựa trên nguyên tắc NLĐ bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp và hưởng quyền lợi BHXH thông qua hoạt động của mình. BHXH tham gia vào phân phối và phân phối lại thu nhập xã hội giữa những NLĐ thế hệ trước với thế hệ sau, giữa những ngành nghề sản xuất, giữa những người thu nhập cao và người có thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh, may mắn có việc làm ổn định và những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo đồng thời góp phần thực hiện công bằng xã hội. Thu BHXH là khâu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để BHXH thực hiện được vai trò vừa nêu. Bởi lẽ, thu BHXH đảm bảo nguồn lực để thực thi chính sách BHXH. Bên cạnh đó, ngoài việc đảm bảo cho quỹ BHXH tập trung về một mối, thu BHXH còn đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người tham gia BHXH ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương hoặc trên phạm vi toàn quốc. Bởi thu BHXH cũng được tổ chức tập trung, thống nhất, có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính, đảm bảo độ chính xác trong ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan đơn vị cũng như của từng NLĐ. Hơn nữa, hoạt động thu BHXH là hoạt động có tính kế thừa, số thu BHXH một phần dựa trên số lượng người và số tiền lương, tiền công tham BHXH để tạo lập lên quỹ BHXH nguồn lực để thực hiện chính sách BHXH. 1.2. QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC 1.2.1. Khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc * Khái niệm quản lý thu BHXH Xuất phát từ khái niệm của quản lý: "Quản lý là sự tác động có
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 301 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 230 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 127 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 100 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 19 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 15 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn