intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: Buiduong_1 Buiduong_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:133

199
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở tỉnh thanh hóa', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa

  1. 1 Luận văn Thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa
  2. 2 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều ngành luật khác nhau với những biện pháp trách nhiệm, những chế tài cụ thể khác nhau. Gắn với luật hình sự là biện pháp trách nhiệm hình sự với chế tài c ụ thể là hình phạt. Đó là một loại chế tài đặc biệt trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong số bảy hình phạt chính của pháp luật hình sự Việt Nam.Theo qui định tại Điều 31 Bộ luật hình sự năm 1999 thì: "Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có thời hạn từ sáu tháng đến ba năm được áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng, hoặc phạm tội nghiêm trọng, có nơi làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng khi xét thấy không cần thiết phải cách li người phạm tội ra khỏi xã hội. Còn án treo không phải là một hình phạt, mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều 60 Bộ luật hình sự hiện hành qui định: "Khi phạt tù không quá ba năm xét thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm’’. Việc qui định hình phạt cải tạo không giam giữ và chế định án treo là sự thể chế hóa chủ trương, chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Đó là Trừng trị kết hợp với giáo dục, giáo dục với phòng ngừa là chính, kết hợp với răn đe, giữ nghiêm kỷ cương, đề cao tinh thần nhân đạo X ã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh của cơ quan bảo vệ pháp luật, của các đoàn thể xã hội và mọi công dân trong phòng chống tội phạm,vận dụng thích hợp các biện pháp hành chính, kinh tế, cải tạo và quản lý giáo dục tại cộng đồng dân cư để đạt hiệu q uả
  3. 3 cao nhất đối với từng người phạm tội, tránh khuynh hướng nặng về hình phạt tù [4]. Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về chế định án treo và cải tạo không giam giữ, ngày 30/10/2000, Chính phủ đ ã ban hành Nghị định 60, Nghị định 61/2000/NĐ-CP qui định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người đ ược hưởng án treo, người bị phạt cải tạo không giam giữ, trách nhiệm và quyền của cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án.Việc thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, vừa đem lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đảm bảo sự ổn định của đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế- xã hội của đất nước. Tuy nhiên thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án đ ối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ chưa đạt được kết quả mong muốn. Xin trích lời phát biểu của Đ ại biểu Quốc hội Nguyễn Thạc Nhượng sau chuyến giám sát tại một số địa phương, đã đưa ra lời cảnh báo: "án treo và cải tạo không giam giữ tại các địa phương không hề được các cơ quan chức năng để mắt tới, sự buông lỏng quản lý của các địa phương là lý do khiến việc thực hiện Nghị định 60, 61 của chính phủ về thi hành án hết sức khó khăn’’ [58]. Thanh Hóa cũng trong tình trạng chung của cả nước, là một tỉnh đất rộng, người đông, với tổng diện tích 11.000km2/3,7triệu dân, 636 xã, phường, thị trấn. Cùng với sự phát triển kinh tế, tình hình tội phạm cũng gia tăng và diễn biến phức tạp, số người bị kết án phạt tù cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ tương đối lớn song số người được giám sát, giáo dục theo tinh thần của Nghị định 60,61 không đáng kể, nhiều người không nhận đ ược sự quan tâm từ phía gia đình, xã hội, môi trường để họ tái hòa nhập với cộng
  4. 4 đồng hết sức khó khăn. Có nhiều nguyên nhân d ẫn đến việc thực hiện pháp luật thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ chưa đạt hiệu quả, song nguyên nhân cơ b ản nhất do cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục người bị kết án chưa thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình theo Nghị định 60,61, mặt khác các qui định của Nghị định 60,61 thiếu tính khả thi, nhiều điểm chưa rõ ràng, b ất cập. Bên cạnh đó các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa chưa thực sự quan tâm đến công tác này. Từ năm 2000 đến nay, toàn tỉnh chưa m ở đ ược hội thảo khoa học nghiên cứu về lĩnh vực thực hiện pháp luật thi hành án hình sự, chưa tiến hành sơ kết, tổng kết đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trên địa b àn Tỉnh, chỉ ra nguyên nhân và giải pháp thi hành án có hiệu quả. Xuất phát từ yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, nhất thiết phải đảm bảo các quy định của pháp luật về thi hành án treo và cải tạo không giam giữ đã ban hành phải được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, đơn vị và người bị kết án phải nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, góp phần lập lại trật tự kỷ cương pháp luật trong lĩnh vực thi hành án Từ những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài:" Thực hiện phỏp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa " để nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ luật học, bởi đây bởi đây là đề tài rất cấp thiết có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hiện pháp luật là một nội dung quan trọng của Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, được các nhà khoa học pháp lý, các cơ quan thực thi pháp luật nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Riêng thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ mang đậm tính nhân đạo Xã hội chủ nghĩa và là một vấn đề khá nhạy cảm, mang
  5. 5 tính cấp thiết nên đã có một số công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này ở những khía cạnh nhất định: * Thứ nhất: Về sách và các bài viết đăng trên báo, tạp chí: - Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam. Sách xuất bản năm 2007, tác giả Lê văn Luật. - Một số suy ngh ĩ về Nghị định 61/2000/NĐ-CP về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, Tạp chí To à án nhân dân, số 3/2001. - Bàn về án treo từ góc nhìn so sánh , Trịnh Quốc Toản,Tạp chí khoa học và Tổ Quốc số 22/2004 ngày 20/11/2004. - án treo và thực tiễn áp dụng, tạp chí Toà án nhân dân, số 05/1996. - Chế định án treo và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, tạp chí To à án nhân dân, số 02/2005. - Một số suy nghĩ về chế định án treo, tạp chí To à án nhân dân số 01/1991. Nguyễn Khắc Công - Sự cần thiết của việc áp dụng án treo đối với người phạm tội, tạp chí Toà án nhân dân,số 6/1994. Lê Văn Dũng. - Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án treo theo điều 44 Bộ luật Hình sự, tạp chí Toà án nhân dân số 6/1990. - Một số vần đề thi hành án hình sự, sách của tác giả Trần Quang Tiệp. - Dự thảo Bộ luật thi hành án. - Pháp luật thi hành án Việt Nam- những vấn đề lý luận và thực tiễn [57]. * Thứ hai: Về đề tài khoa học: - Đ ề tài: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm về công tác quản lý, giáo dục người phải thi hành án phạt tù cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ tại Uỷ ban nhân dân cấp xã của Tỉnh Vĩnh Phúc- Đề tài khoa học của Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh Vĩnh Phúc- chủ nhiệm Nguyễn Huy Phượng.
  6. 6 Các công trình nghiên cứu hoặc các bài viết trên chủ yếu phân tích và bình luận về chế định án treo, cải tạo không giam giữ, hoặc có đề tài không dừng lại ở phần lý luận mà có đánh giá thực trạng về thi hành án hình sự đối với người đ ược hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở địa phương mình, song chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực trạng về thực hiện pháp luật, lý giải các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện pháp luật, các biện pháp, giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ nói chung và ở Tỉnh thanh Hóa nói riêng. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết của mình, học viên trình bày trong luận văn cơ sở lý luận, nội dung thực hiện pháp luật thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật ở địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đưa ra nhóm giải pháp đảm bảo hiệu lực các văn bản pháp luật đã ban hành tro ng lĩnh vực thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, đáp ứng vấn đề cấp bách của thực tiễn công tác thi hành án đ ối với người đ ược hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở địa phương mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ, đánh giá thực trạng công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ ở tỉnh Thanh Hóa, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong tác này, đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo phát huy hiệu quả công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
  7. 7 - Phân tích, làm rõ các khái niệm về thi hành án, khái niệm án treo và cải tạo không giam giữ, trình tự thủ tục thi hành án, quyền và nghĩa vụ của người bị kết án, quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan đối với người bị kết án. - Phân tích vai trò thực hiện pháp luật thi hành án trong đời sống, các yếu tố nhằm đảm bảo phát huy hiệu quả thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ. - Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa từ năm 2001 đến năm 2007- Kết quả đạt được; những yếu kém và nguyên nhân, đề xuất giải pháp đảm bảo tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ, kiến nghị sửa đổi và hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự đối với hai loại hình phạt nêu trên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ nói riêng, phân tích đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án đối với người đ ược hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - V ề thời gian: Luận văn đánh giá kết quả thực hiện pháp luật thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, thời gian từ năm 2001 đến năm 2007. - Về không gian: Tác giả khảo sát thực trạng thực thi pháp luật thi hành án hình sự đối với người đ ược hưởng án treo và cải tạo không giam giữ trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
  8. 8 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh và quan điểm của Đảng về công tác thi hành án và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu trong khi trình bày luận văn, chẳng hạn tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử cụ thể khi trình bày sự hình thành và phát triển các chế định án treo, cải tạo không giam giữ, có so sánh khái niệm với một số quốc gia trên thế giới. 6. Đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận văn Đây là đề tài mang tính cấp thiết đ ược các cơ quan bảo vệ pháp luật, Cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Thanh Hóa thực sự quan tâm, là đ ề tài đ ầu tiên đề cập đến công tác thực hiện pháp luật thi hành án đối với người đ ược hưởng án treo và cải tạo không giam giữ trên địa bàn Thanh Hóa, những đóng góp mới của luận văn đó là: Thứ nhất, tác giả phân tích lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ; quan điểm của một số nhà khoa học về thi hành án và thực hiện pháp luật thi hành án. Trên nền tảng lý luận đó, tác giả xây dựng một số khái niệm liên quan đến thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ. Thứ hai, tác giả trình bày vai trò của thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật thi hành án nói riêng và ý nghĩa của nó trong quá trình xây d ựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, các yếu tố nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ trên thực tế.
  9. 9 Thứ ba, tác giả trình bày thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2001 đến 2007, kết quả đạt được, yếu kém và các nguyên nhân khách quan, chủ quan.Từ thực trạng đó, tác giả xây dựng các quan điểm và nêu ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ, kiến nghị sửa đổi các qui định của pháp luật về thi hành án, đáp ứng yêu cầu cấp bách về ho àn thiện pháp luật trong lĩnh vực thi hành án nói chung và thi hành án treo, cải tạo không giam giữ nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án đối với ng ười được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ 1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ 1.1.1. Khái niệm thi hành án Tòa án là cơ quan xét xử, nhân danh Nhà nước ra các phán quyết nhằm góp phần lập lại trật tự kỷ cương xã hội. Song phán quyết có được thi hành trên thực tế hay không nhờ một phần rất lớn vào hoạt động thi hành án. Theo Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [32, tr.1559]. Còn thi hành án đ ược hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo trình tự thủ tục được pháp luật qui định nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án [36, tr.706]. Hiện nay, xung quanh b ản chất pháp lý của khái niệm thi hành án, còn có nhiều ý kiến khác nhau.
  10. 10 Quan điểm thứ nhất: Thi hành án là một giai đoạn tố tụng, hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử, tiếp theo quá trình xét xử và chịu sự chi phối của các cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án.Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác với bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức và quản lý.Thi hành án là nhằm mục đích thực thi các phán quyết của Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành. Quan điểm thứ hai: Thi hành án là một giai đoạn mang tính Hành chính - Tư pháp, bởi lẽ: Thứ nhất, thi hành án thực chất là hoạt động chấp hành, điều hành. Điều hành và chấp hành là đặc trưng của quản lý hành chính. Tuy nhiên đây là hoạt động chấp hành và điều hành đ ể thực hiện bản án, quyết định của Tòa án, tức là một nội dung có tính chất tư pháp. Do vậy khó có thể nói nó là giai đo ạn của tố tụng. Thứ hai, với tính chất là hoạt động điều hành, cho dù căn cứ để thi hành là các bản án, quyết định của Tòa án, nhưng quá trình thi hành án không chỉ là các hoạt động mang tính tố tụng, không chỉ áp dụng luật tố tụng, mà nội dung của nó phải áp dụng nhiều văn bản pháp luật khác để giải quyết (luật nội dung). Thứ ba, trong quá trình thi hành án, phương pháp áp dụng chủ yếu là kết hợp giữa giáo dục thuyết phục và mệnh lệnh hành chính, mục đích tác động trực tiếp tới đối tượng thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích Nhà nước, tập thể và công dân. Thứ tư, việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo được giao cho cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương thực hiện theo thủ tục hành chính. Pháp luật được áp dụng không phải chỉ riêng luật tố tụng mà còn bao gồm các qui định pháp luật hành chính- tư pháp.
  11. 11 Như vậy có thể nói hoạt động thi hành án là sự kết hợp biện chứng giữa quá trình tố tụng và thi hành án hình sự, thi hành án là hoạt động mang tính hành chính- tư pháp. Quan điểm thứ ba: Thi hành án là hoạt động tư pháp bởi những lý do sau đây: Thứ nhất, trước hết cần khẳng định, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử, hoạt động xét xử là tiền đề của hoạt động thi hành án. Thi hành án là giai đoạn diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử và các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành hoạt động thi hành án. Song không thể nói đây là cơ sở pháp lý duy nhất, mà mới chỉ là điều kiện cần. Để tiến hành ho ạt động thi hành án có hiệu quả, phải có các điều kiện đủ là có cơ quan thi hành án, các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành án được quy định cụ thể trong pháp luật thi hành án. Cho nên, hoạt động thi hành án không chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà chịu sự điều chỉnh của pháp luật thi hành án. Thứ hai, mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối như trên, nhưng ở giai đoạn thi hành án, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi lẽ khi bản án, quyết định của Tòa án đ ã có hiệu lực pháp luật, chức năng xét xử đã hoàn thành, chân lý đã được làm sáng tỏ, có tội hay vô tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng. ở thời điểm này, quyền lực của Nhà nước mới chỉ được thể hiện trên các b ản án, quyết định công nhận các sự kiện pháp lý, các quan hệ pháp luật ho ặc buộc người thi hành án có nghĩa vụ phải làm một việc hoặc không làm một việc vì lợi ích của Nhà nước hoặc của người được thi hành án, chứ việc công nhận này chưa được thể hiện trên th ực tế. Để thực hiện nhiệm vụ đưa các phán quyết của Tòa án trở thành hiện thực trên thực tế, cơ quan thi hành án phải có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan, trong đó có Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nhìn chung không
  12. 12 thuộc chức năng của cơ quan xét xử, điều này được thể hiện rõ nhất trong ho ạt động thi hành án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động. Thứ ba, thi hành án không mang tính chất hành chính, b ởi hành chính là hoạt động chấp hành, điều hành, các quyết định hành chính được đưa ra trên cơ sở mệnh lệnh có tính bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp dưới. Hoạt động của cơ quan hành chính chủ yếu xoay quanh người đứng đầu là Thủ trưởng cơ quan hành chính, trong khi đó thi hành án là hoạt động tư pháp có những điểm khác cơ bản. Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng x ã hội, trong đó hoạt động xét xử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng, là khâu trung tâm. Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua những thủ tục tố tụng nhất định nhằm bảo vệ pháp luật, duy trì, b ảo đảm công lý, công bằng xã hội. Là một trong các hoạt động tư pháp, với mục đích chung là: "Bảo vệ Pháp chế x ã hội chủ nghĩa, bảo vệ Chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" [23], thi hành án có những đặc trưng cơ bản sau đây: a) Thi hành án dựa trên cơ sở kết quả xét xử của Tòa án. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước, người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền và lợi ích liên quan thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án. b) Chủ thể thi hành án có rất nhiều loại, đó có thể là Tòa án, cơ quan Công an, cơ quan thi hành án, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc các cơ sở
  13. 13 chuyên khoa y tế. V ai trò của từng loại chủ thể khi tham gia vào quá trình thi hành án khác nhau, phụ thuộc vào từng loại việc thi hành án. c) Các chủ thể thi hành án phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ về thi hành án. Những quy định rất chi tiết, cụ thể như: trình tự, thủ tục ra quyết định thi hành án; cách thức tổ chức việc thi hành án; giải quyết khiếu nại hoặc trả lời kháng nghị việc thi hành án... Những quy định này được thực hiện một cách độc lập, do người có thẩm quyền tiến hành mà không phụ thuộc vào các hoạt động tố tụng khác như trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có hiệu quả một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của x ã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Từ sự phân tích ở trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau: Thi hành án là hoạt động của cơ quan, tổ chức, ng ười có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa b ản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Khái niệm án treo và cải tạo không giam giữ 1.1.2.1. án treo - Khái niệm, bản chất, trình tự, thủ tục thi hành án - Khái niệm án treo: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ, hạn chế quyền lợi của người phạm tội. Theo Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999 thì " Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội
  14. 14 mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống Xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm". Bên cạnh việc áp dụng các hình phạt, Việt nam và một số quốc gia khác sử dụng các biện pháp khác đó là án treo. án treo là một chế định ra đời từ rất sớm. Trên thế giới, mỗi Quốc gia có qui định khác nhau về chế đ ịnh này, chẳng hạn luật hình sự của Anh và Mỹ coi án treo là trường hợp ho ãn tuyên án kèm theo biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp bảo đảm bằng tiền. Luật hình sự của Pháp, Bỉ và một số nước coi án treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành hình phạt. Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây coi án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, nhưng cũng có nước coi án treo là hình phạt chính như Cộng hòa dân chủ Đức [17, tr.8]. ở nước ta, chế định án treo được qui định ngay từ những năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân và tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù chưa có văn bản luật nào đưa ra đ ịnh nghĩa chính thức án treo là gì, song nhìn chung các văn bản đều đưa ra những qui định về án treo, điều kiện được hưởng án treo. Trải theo dòng lịch sử lập pháp Việt Nam, các quy định về án treo có một số thay đổi và ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Văn bản đầu tiên quy định về án treo là Sắc lệnh số 21 năm 1946, giai đoạn này án treo được xem là một biện pháp tạm đình chỉ việc thi hành án: "Khi phạt tù, Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong năm năm bắt đầu từ ngay tuyên án, tội nhân không bị tòa án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi như không có. Nếu trong năm năm ấy, tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một tòa án thì bản án treo sẽ đem ra thi hành". án treo là một biện pháp hoãn hình có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối với những kẻ phạm tội nhẹ, bản chất không
  15. 15 nguy hiểm, xét không cần thiết phải bắt thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích khuyến khích họ tự nguyện lao động cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, đồng thời cảnh báo họ nếu tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách, thì tùy trường hợp, sẽ buộc phải chấp hành án cũ trong mức độ cần thiết. Ngược lại,"nếu trong thời gian thử thách, họ không phạm tội gì mới, án trước sẽ đ ược xóa bỏ" [30]. Theo Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP ngày 18.10.1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Sau này nhiều nhà Luật học có đưa ra các quan điểm về án treo, theo Đinh Văn Quế thì: "án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt tù không qua ba năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù [21, tr.372]. Theo PGSTSKH Lê Văn Cảm thì: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Nhìn chung các tác giả đều thống nhất với sự hướng dẫn, giải thích của Tòa án nhân dân Tối cao trong Nghị quyết số 01/1990, coi án treo là một biện pháp miễn chấp hành hành hình phạt tù có điều kiện, và điều kiện đó là: Người phạm tội bị xử phạt tù không quá ba năm không phân biệt tội gì, có nhân thân tốt, luôn chấp hành chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi thường trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, và xét thấy không cần thiết phải bắt họ chấp hành hình phạt tù thì Tòa án xét xử cho họ hưởng án treo. - Với tinh thần của Nghị quyết, trên cơ sở qui định của Bộ luật hình sự hiện hành, Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật Hà Nội
  16. 16 có nêu: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, án treo thể hiện tính nhân đạo của Luật Hình sự Việt Nam,có tác d ụng khuyến khích người bị kết án tự tu d ưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia đình đ ồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên. - Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự hiện hành cũng xác định án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều 60 khoản 1 Bộ luật hình sự năm 1999 qui định:"Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm". Tuy nhiên, so với qui định về án treo theo Bộ luật Hình sự năm 1985, thì chế định án treo được qui định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 có nhiều sự thay đổi về điều kiện được hưởng án treo (Mức hình phạt tù xem xét cho hưởng án treo từ 5 năm theo Bộ luật Hình sự 1985 xuống còn 3 năm tù theo Bộ luật Hình sự 1999), điều kiện thử thách (điều kiện không phạm tội mới thay thế cho điều kiện không phạm tội mới do cố ý hoặc không phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù). Trên cơ sở tra cứu từ điển luật học, các quan điểm của các nhà Luật học về án treo, hướng dẫn giải thích của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân d ân Tối cao, quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999 về áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với người phạm tội, tác giả có thể đưa ra khái niệm chung nhất về án treo như sau: án treo không phải là một loại hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, điều kiện đó là: Người bị phạt tù không quá ba năm bất kể về tội gì, nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, và xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi xã hội, tòa án cho họ miễn chấp hành hình phạt tù và ấn định cho họ một khoảng thời gian thử
  17. 17 thách từ một năm đến năm năm, trong khoảng thời gian đó nếu họ không phạm tội mới thì họ không phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã tuyên. - Bản chất của án treo: Từ khái niệm chung về án treo, rút ra nhận xét về bản chất của án treo như sau: Thứ nhất: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, không phải là hình phạt tù, đây là điểm cần phân biệt. Pháp luật Hình sự Việt Nam quy định bảy hình phạt chính trong đó có hình phạt tù,và án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù trong các trại giam khi người phạm tội có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành; Thứ hai: Người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách từ một đến năm năm, thời gian thử thách bằng hoặc lớn hơn mức phạt tù. Trong thời gian thử thách phải chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám sát, giáo dục; Thứ ba: Trong thời gian thử thách, nếu người đó phạm tội mới thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người đ ược hưởng án treo buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án mà Hội đồng xét xử đã cho hưởng án treo trước đó cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện. Tóm lại: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Việc cho bị cáo được hưởng án treo thể hiện chính sách nhân đạo của Pháp luật xã hội chủ nghĩa, có mục đích khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo dưới sự giám sát của xã hội, sự giúp đỡ khuyến khích của cộng đồng, người thân, tạo cho họ có cơ hội trở thành người có ích mà không nhất thiết bắt buộc cách ly họ ra khỏi xã hội. Tuy nhiên hiện nay ở một số địa phương, trong từng vụ án cụ thể, trong từng thời điểm cụ thể do có sự không thống nhất trong nhận thức nên việc vận dụng cho bị cáo hưởng án treo còn tùy tiện, không đảm bảo tính công bằng x ã hội, làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp trong chính sách nhân đạo của
  18. 18 Pháp luật Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy có quan điểm cho rằng nên bỏ chế định án treo, quan điểm này cho rằng: Từ trước đến nay luật chưa định nghĩa án treo là gì, án treo đang "Tạo ra sự bất công và không hề nhân đạo, làm một điểm tựa của hiện tượng tiêu cực trong ngành Tòa án" [59]. Bên cạnh đó, căn cứ để Tòa án cho án treo là "nhân thân", là "tình tiết giảm nhẹ", các yếu tố này cũng đã được tòa án cân nhắc khi quyết định hình phạt rồi, nếu cho người phạm tội hưởng án treo, tức là các yếu tố này được xem xét tới hai lần. Hơn nữa, "một ngày tù ngàn thu ở ngoài", một người xử ba năm tù thì được tự do,trong khi một người xử sáu tháng tù giam thì ở trong trại. Như thế là không công bằng. Tuy nhiên không vì những lý do trên để xóa bỏ chế định án treo, bản thân chế định này thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, đối với người phạm tội lần đầu, nhân thân tốt và có đầy đủ các điều kiện luật cho phép, nếu để họ cải tạo tại địa phương, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức mà họ vẫn trở thành người tốt thì tại sao chúng ta không áp dụng chế định án treo, tại sao cứ nhất thiết bắt họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, tốn kém cho Nhà nước, cho gia đình trong khi đó mục đích của hình phạt mà chúng ta muốn hướng tới là: Trừng trị người phạm tội, giáo dục họ thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm đều đạt đ ược. Nếu như vẫn còn tình trạng xử án không công b ằng thì không phải do chế định pháp luật tạo ra, mà chính do người áp dụng pháp luật không tôn trọng các quy định của luật pháp. - Trình tự, thủ tục thi hành án treo: Được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị định 61 của Chính phủ. Sau khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án tổ chức thi hành án, ra quyết định phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án. Người trực tiếp
  19. 19 giám sát, giáo dục phải áp dụng đầy đủ các biện pháp như: Chủ động gặp gỡ, động viên người kết án chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, ba tháng một lần báo cáo với thủ trưởng cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành án, báo cáo cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục khi người bị kết án có đủ điều kiện được xét giảm thời gian thử thách…Về phía cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm tạo điều kiện để người bị kết án cải tạo, giáo dục tốt, lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho người bị kết án. 1.1.2.2. Cải tạo không giam giữ- khái niệm, bản chất, trình tự thủ tục thi hành án Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của Bộ luật Hình sự. - Theo từ điển Luật học thì cải tạo không giam giữ là việc buộc người phạm tội phải tự cải tạo d ưới sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định [36, tr.98]. Xét về bản chất đây là lo ại hình phạt không tước tự do, không buộc người phạm tội cách ly khỏi gia đình, nơi làm việc cũng như xã hội nói chung. Nội dung chính của hình phạt là việc buộc một người bị kết án phải chịu sự giám sát, giáo dục của các cơ quan, tổ chức. Nghĩa vụ mà người bị kết án phải thực hiện là nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm định kỳ và có thể nộp 5% đến 20% thu nhập để sung quỹ nhà nước. Thời hạn cải tạo không giam giữ từ sáu tháng đến ba năm. Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi làm việc hoặc nơi thường trú rõ ràng và khi các điều kiện khác cho thấy họ có thể tự cải tạo, giáo dục mà không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội. So với qui định về cải tạo không giam giữ trong Bộ luật Hình sự năm 1985 (Điều 21 và điều 24), thì qui định về cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự hiện hành có một số điểm khác cơ bản như sau:
  20. 20 Thời hạn cải tạo không giam giữ: Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định thời hạn cải tạo không giam giữ từ sáu tháng đến ba năm, trong khi đó Bộ luật Hình sự năm 1985 qui định thời hạn này là từ sáu tháng đến hai năm. Về điều kiện áp dụng: Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội ít nghiêm trọng ho ặc phạm tội nghiêm trọng. Trong khi đó Bộ luật Hình sự năm 1985 cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng. Sự thay đổi này liên quan đ ến tiêu chí phân loại tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 1985 và 1999. Về nghĩa vụ phải khấu trừ phần trăm thu nhập: Theo Bộ luật hình sự năm 1985, việc khấu trừ phần trăm thu nhập là chế tài tùy nghi do Tòa án quyết định, nhưng ở Bộ luật Hình sự năm 1999, thì đây là chế tài bắt buộc. Có thể Tòa án cho miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Trên cơ sở phân tích qui định của Bộ luật Hình sự hiện hành về chế định cải tạo không giam giữ (có so sánh với qui định của Bộ luật Hình sự 1985), xuất phát từ bản chất của loại hình phạt cải tạo không giam giữ, có thể đưa ra khái niệm như sau: Cải tạo không giam giữ là loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt tù, tạo điều kiện cho người bị phạt tù được cải tạo, học tập trong môi trường xã hội bình th ường, khuyến khích họ cải tạo thành người có ích, được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng đang có nơi làm việc ổn định hoặc n ơi thường trú rõ ràng và xét thấy không cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội. Hiện nay đang có quan điểm cho rằng nên bỏ loại hình phạt này vì một số lý do sau: Thứ nhất: Trên thực tế, số bị án phạt cải tạo không giam giữ có xu hướng giảm đi, hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo tăng lên vì các điều kiện cho bị cáo hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ có nhiều điểm giống nhau,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2