intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:124

141
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay, việc thu hút đầu tư đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nước nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế mỗi quốc gia trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết thể hiện ở luật pháp. Đối với mọi quốc gia, Luật Đầu tư là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà tất cả nhà đầu tư quan tâm. Nhà nước với vai trò thiết kế và quản lý mọi mặt đời...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam Thực trạng và giải pháp

  1. LUẬN VĂN: Thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, việc thu hút đầu tư đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nước nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế mỗi quốc gia trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết thể hiện ở luật pháp. Đối với mọi quốc gia, Luật Đầu tư là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà tất cả nhà đầu tư quan tâm. Nhà nước với vai trò thiết kế và quản lý mọi mặt đời sống xã hội đã sử dụng pháp luật – một công cụ rất hữu hiệu để thống nhất và định hướng hoạt động đầu tư. Hoàn thiện pháp luật, tạo môi trường đầu tư có sức hút mạnh mẽ là mối quan tâm của mọi quốc gia. Tuy nhiên, pháp luật dù hoàn thiện như thế nào đi nữa mà không được thực hiện có hiệu quả thì không thể đem lại những gì tốt đẹp mà chủ thể ban hành mong muốn, không đem lại lợi ích cho xã hội, thậm chí là ngược lại. Thực hiện pháp luật là sự tiếp nối xây dựng pháp luật, là quá trình hiện thực hoá pháp luật, làm bộc lộ và phát huy những giá trị tiềm năng của pháp luật trong thực tế, là thực tiễn sinh động kiểm nghiệm chất lượng xây dựng pháp luật. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề thực hiện pháp luật trong đó có thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực tiễn những năm qua cho thấy, việc thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể. Các biện pháp khuyến khích đầu tư về thuế đặc biệt là theo ngành và lĩnh vực đã bước đầu phát huy tốt hiệu quả định hướng đầu tư. Các chính sách ưu đãi hướng về xuất khẩu nhìn chung đã phát huy tác dụng tốt, góp phần quan trọng trong việc nâng tổng kim ngạch xuất khẩu, các dự án sản xuất kinh doanh, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh chóng qua các thời kỳ. Vấn đề bảo vệ môi trường cũng được các doanh nghiệp quan tâm; thủ tục đầu tư đã và
  3. đang tiếp tục được thực hiện theo hướng chuyển dần sang cơ chế một cửa, mở rộng phân cấp, uỷ quyền cấp phép đầu tư. Nhờ đó, các thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục triển khai sau giấy phép đã được đơn giản hơn, nhiều vướng mắc của doanh nghiệp đã được phát hiện và xử lý kịp thời, môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện từng bước. Nhìn chung, các cơ quan quản lý đầu tư đã thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư. Trong chỉ đạo và điều hành đã kịp thời ban hành các chính sách thích hợp theo quy định chung, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. So với các năm đầu tiên thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các cơ quan quản lý, cấp phép địa phương đến nay đã có những bước tiến đáng kể trong hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý nhà nước của mình. Công tác quản lý đầu tư đã dần đi vào nề nếp. Tuy nhiên, thực trạng thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng cho thấy những tồn tại cần được khắc phục như: Các văn bản pháp luật về khuyến khích đầu tư quá phức tạp, kém chất lượng, gây khó khăn trong việc thực hiện cho cả cơ quan nhà nước và các nhà đầu tư; một số chính sách thuế, tài chính và ưu đãi đầu tư không phát huy tác dụng trên thực tế; cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý; pháp luật đầu tư quy định nhiều biện pháp ưu đãi đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn nhưng trên thực tế, việc thu hút đầu tư vào các lĩnh vực này còn nhiều hạn chế, các biện pháp khuyến khích đầu tư chưa thực sự phát huy vai trò định hướng thu hút đầu tư; trong một số trường hợp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền can thiệp sâu vào quyền tự do quyết định đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài; việc bảo đảm quyền và lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài được quy định trong giấy phép đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật được thực hiện chưa nhất quán. Vì vậy, để thực hiện chủ trương mà Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra là: “Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài”. 1, việc đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện một cách có hiệu quả pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam hiện nay là hết 1 . Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, tr. 238.
  4. sức cần thiết và mang tính thời sự. Đây là lý do thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu đề tài: Thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: Pháp luật và thực thi pháp luật về khuyến khích đầu tư là một vấn đề khá mới mẻ đối với Việt Nam, chỉ với hơn 20 năm đi vào cuộc sống, còn đang ở trong giai đoạn thử nghiệm để hoàn chỉnh dần. Kinh nghiệm lập pháp cũng như thực thi pháp luật trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế nên đang được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề pháp luật và thực thi pháp luật về khuyến khích đầu tư như : Nghiên cứu thực nghiệm ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp tư nhân hiện nay của Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004. Kết quả chủ yếu của công trình này là những đánh giá về việc thực hiện các ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp trong các doanh nghiệp tư nhân. Dựa trên kết quả nghiên cứu của công trình, chúng ta có được những luận cứ khoa học cho việc thực hiện ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp – một trong các nội dung của biện pháp đầu tư về thuế. Như vậy, công trình này không những chưa đưa ra những đánh giá toàn diện về việc thực hiện biện pháp ưu đãi đàu tư về thuế mà còn chưa nghiên cứu việc thực hiện các biện pháp ưu đãi đầu tư khác. Chuyên đề tổng kết các ưu đãi đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao của Lê Tuyển Cử và Nguyễn Thị Thanh Hà năm 2004. Mặc dù, công trình đã nghiên cứu khá toàn diện về việc thực hiện các ưu đãi đầu tư nhưng lại chỉ giới hạn trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao trong khi đó pháp luật ưu đãi đầu tư không chỉ được thực hiện trong các các khu vực này mà được thực hiện ở không gian rất rộng. Tổng kết 17 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2005. Có thể thấy, đây là công trình nghiên cứu khá công phu, tương đối sâu sắc về thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên, cơ sở pháp luật của những đánh giá trong công trình này lại là các văn bản pháp luật đã được ban hành ở thời điểm trước đây( Trước khi có Luật Đầu tư năm 2005). Những kiến giải
  5. của công trình mới chỉ nhằm phục vụ cho việc ban hành Luật đầu tư năm 2005. Luật đầu tư năm 2005 ra đời đã khắc phục hàng loạt những bất cập của các văn bản trước đó. Vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu,đánh giá về mức độ hiện thực hoá các quy định của pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện hành và hiệu quả của nó trong đời sống thực tiễn, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp tiếp tục thực hiện. Tổng kết 9 năm thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2005. Công trình đã đi sâu nghiên cứu và đánh giá những thành tựu và yếu kém trong thực hiện pháp luật đầu tư. Kết quả nghiên cứu của công trình đã đưa ra cái nhìn tổng quan về các yếu tố tạo nên hiệu quả thực hiện pháp luật nhưng lại chỉ đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư ở trong nước và trên cơ sở Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Báo cáo của Chuyên gia Quốc tế và Chuyên gia Việt Nam về hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư tháng 07 năm 2006. Công trình đã tổng hợp các ý kiến của các chuyên gia trong nước và quốc tế về hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư. Tuy nhiên, những ý kiến này chỉ dừng lại ở việc nêu ra những nội dung của Luật đầu tư cần chủ yếu cho việc ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đầu tư mà thôi. Công trình chưa quan tâm sâu sắc đến việc đưa ra các giải pháp để hiện thực hoá các quy định đó. Đánh giá 6 tháng thi hành Luật đầu tư của Viện Quản lý kinh tế Trung ương năm 2007. Công trình này đã đánh giá khá toàn diện về thực hiện luật đầu tư nhưng chỉ mới đánh giá ở một giai đoạn rất ngắn(6 tháng) và ở thời điểm mà Luật đầu tư mới vừa có hiệu lực, bắt đầu đưa vào thực hiện – một giai đoạn có nhiều khó khăn khách quan, ảnh hưởng không nhỏ tới thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một năm thi hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư: Mặt được, chưa được và việc cần làm, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 15/2007; Thực hiện Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp: Nhìn từ góc độ cải cách thể chế, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 19/2008 của Thạc sỹ. Nguyễn Đình Cung. Tác giả đã đánh giá những mặt được, chưa được của công tác thực hiện pháp luật đầu tư nói chung, từ đó đánh giá những bất cập nhìn từ góc độ thể chế. Tuy nhiên, công trình này mới chỉ tập trung đánh giá những hạn chế nhìn từ góc độ thể chế chưa đi vào các yếu tố bộ máy, trình đọ dân trí...Mặt khác, Công trình cũng chỉ mới đánh giá việc thực hiện pháp luật trong một thời gian rất ngắn và chưa đi
  6. sâu vào đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi đó, thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải được đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện. Luật đầu tư năm 2005 - Một số vấn đề bất cập của Thạc sỹ. Đoàn Trung Kiên, Tạp chí Luật học số 5/2008. Công trình đã chỉ ra những bất cập của Luật đầu tư năm 2005, một trong những khó khăn của việc thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện pháp luật không chỉ phụ thuộc vào thực trạng pháp luật mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Như vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên đã tiếp cận vấn đề thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở những phạm vi và mức độ khác nhau, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống, đồng bộ, gắn với việc khảo sát thực tiễn, nhất là sau khi có Luật đầu tư năm 2005. 3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài: Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc mà thực tiễn đặt ra, đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ sau: - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trùc tiÕp n-íc ngoµi . - Phân tích, đánh giá khách quan, khoa học về thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trùc tiÕp n-íc ngoµi ở nước ta thời gian qua; khái quát thành tựu, kết quả đạt được cũng như chỉ ra những yếu kém, tồn tại và nguyên nhân. -Khái quát những quan điểm, định hướng cơ bản của Đảng, Nhà nước về thực thi pháp luật khuyến khích đầu tư trùc tiÕp n-íc ngoµi; đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm thùc thi mét c¸ch cã hiÖu qu¶ ph¸p luËt khuyÕn khÝch ®Çu t- trùc tiÕp n-íc ngoµi trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ë ViÖt Nam.
  7. 4. Nội dung của đề tài Đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, gồm các nội dung sau: 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2. Thực trạng thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 3. Định hướng và những giải pháp đảm bảo thực hiện hiệu quả pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 5. Phương pháp nghiên cứu: - Đề tài vận dụng lý luận và phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để phân tích, đánh giá và giải quyết các vấn đề. - Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp, phương pháp chuyên gia, tổng kết thực tiễn và một số sơ đồ minh hoạ các số liệu cụ thể. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài : - Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung luận cứ khoa học cho chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam trong những năm tới; trực tiếp phục vụ việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật đầu tư. - Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc thực hiện pháp luật về đầu tư trước mắt cũng như trong tương lai. - Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập liên quan tới xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế.
  8. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở MỘT SỐ NƯỚC 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN 1.1.1.Khái niệm pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với những cách tiếp cận khác nhau, có nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư. Tuy nhiên, định nghĩa về đầu tư được thừa nhận về mặt pháp lý ở Việt nam là định nghĩa trong Điều 3 của Luật đầu tư năm 2005. Theo luật này, “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.” Có nhiều cách phân loại đầu tư nhưng dựa vào tính chất đầu tư, người ta có thể chia đầu tư thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Trong đó, đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Với hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư thường kiểm soát hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư của mình. Đầu tư trực tiếp mang theo sự đồng bộ về nguồn lực của đối tác kinh doanh( vốn, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, khả năng cung ứng vốn và năng lực maketing) nên tạo ra nhiều nghành nghề mới và thúc đẩy sự phát triển của tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Nếu dựa vào nguồn gốc đầu tư, chúng ta có thể chia đầu tư thành hai loại : Đầu tư trong nước và đầu tư ngoài nước. Theo định nghiã tại Điều 3 Luật đầu tư 2005 của Việt Nam : “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư ”. Như vậy, có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI = Foreign Direct Investment) là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư kinh doanh tại Việt Nam dưới các hình thức: 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; liên doanh; hợp đồng BCC, BTO và BT ; đầu tư phát
  9. triển kinh doanh; mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; sáp nhập và mua lại doanh nghiệp… Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề tăng nhanh vốn đầu tư và tăng liên tục tốc độ tăng trưởng kinh tế là một vấn đề sống còn của dân tộc. Khuyến khích đầu tư trong nước đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài như hai dòng chảy vào một con kênh, tạo nguồn lực cho đất nước trong hiện tại và những năm sắp tới. Về lâu dài thì nguồn lực bên trong sẽ tăng dần và trở thành chủ đạo. Nhưng trước mắt, trong khi nguồn lực bên trong còn có hạn, hơn nữa lại chưa tạo ra được môi trường đầu tư để huy động tối đa nguồn lực đó, thì nguồn lực bên ngoài lại chiếm tỷ lệ lớn và đáp ứng được những dự án đầu tư quan trọng nhất. Vì vậy, Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều xây dựng một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài hấp dẫn theo xu hướng xoá bỏ dần những rào cản bất lợi trong việc dịch chuyển vốn đầu tư. Khuyến khích đầu tư là hệ thống các chính sách, biện pháp ưu đãi đầu tư của Nhà nước nhằm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước hoặc định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định. Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực khuyến khích đầu tư dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng với nội dung ngày càng trở nên phức tạp. Để đảm bảo cho hoạt động đầu tư và hệ thống các biện pháp, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo quyền lợi và sự bình đẳng trong quá trình đầu tư, các biện pháp khuyến khích đầu tư không thể tồn tại dưới dạng các quan hệ xã hội bình thường mà cần phải có sự điều chỉnh của Pháp luật. Dưới sự tác động của các quy phạm pháp luật, Nhà nước quản lý và hướng các hoạt động đầu tư và ưu đãi đầu tư theo định hướng của mình. Do đó, pháp luật khuyến khích đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài ra đời. Pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài là hệ thống những quy phạm pháp luật, tạo những điều kiện thuận lợi nhất mà mỗi quốc gia có thể dành cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút vốn đầu tư và trên cơ sở đó tạo ra lợi thế so sánh với các nước khác. Chính phủ các nước đã sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư trong các quy định pháp luật. Ở Việt Nam, để thúc đẩy đầu tư trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế và
  10. hướng đầu tư vào một số địa bàn, lĩnh vực ưu tiên phát triển, các biện pháp khuyến khích đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định ở nhiều văn bản pháp lý từ Hiến pháp đến các đạo luật và các văn bản dưới luật, thể hiện tập trung nhất là trong Luật Đầu tư, Luật đất đai, Luật xây dựng, các Luật Thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhìn chung các biện pháp khuyÕn khÝch đầu tư được quy định trong ph¸p luËt bao gồm các c¸c biÖn ph¸p -u ®·i ®Çu t- vµ các biÖn ph¸p hç trî ®Çu t-. Trong đó, các biện pháp ưu đãi đầu tư gồm ưu đãi về thuế và ưu đãi khác về tài chính. Mục tiêu chính của các ưu đãi thuế là nhằm giảm bớt gánh nặng về thuế thực sự và nâng cao tỷ lệ thu hồi vốn đối với đầu tư mà đáng kể là quy định miễn một phần hoặc toàn bộ Thuế thu nhập doanh nghiệp thông thường. Các ưu đãi về thuế khác là việc miễn thuế nhập khẩu, hoàn thuế nhập khẩu, khấu hao nhanh, các khoản khấu trừ cụ thể, giảm thuế đối với đầu tư và tái đầu tư và các khoản khấu trừ đối với đóng góp an ninh xã hội. Các ưu đãi khác về tài chính bao gồm việc cung cấp vốn cho các công ty để tài trợ cho các dự án đầu tư mới hoặc thanh toán vốn và các chi phí hoạt động, chuyển lỗ trong kinh doanh, khấu hao tài sản, ưu đãi về sử dụng đất…Hộ trợ đầu tư là những biện pháp tích cực chủ động về phía nhà nước nhằm giúp đỡ các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Các biện pháp này thường được áp dụng trong trường hợp xảy ra những khó khăn, những bất lợi, những rủi ro đối với nhà đầu tư trong những dự án, những lĩnh vực, những địa bàn mà Chính phủ khuyến khích đầu tư. Các biện pháp này bao gồm cơ sở hạ tầng được bao cấp, các dịch vụ được bao cấp, hỗ trợ về thủ tục hành chính, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ thông tin… Pháp luật về khuyến khích đầu tư của các nước OECD nói chung không phân biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước trong việc thiết kế và thực hiện các ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường phân biệt có lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, một phần là do định hướng thực tiễn đầu tư, muốn thu hút đầu tư nước ngoài được nhiều hơn do sự thiếu vốn để công nghiệp hóa và một phần là do chi phí tài chính phải trả nếu giành cho tất cả các nhà đầu tư. Trong khi pháp luật về ưu đãi đầu tư có thể hợp lý đối với một nước cụ thể thì cuộc cạnh tranh thu hút FDI đã dẫn đến pháp luật về ưu đãi đầu tư nói chung là tương tự giữa các nước. Kết quả là một số lợi ích của đầu tư đang được chuyển từ lợi ích của nhà
  11. nước chủ nhà sang các công ty đa quốc gia dưới hình thức các nhân nhượng về thuế và các khoản bao cấp, và điều này làm giảm nguồn lợi đối với nhà nước chủ nhà. 1.1.2. Khái niệm chung về thực hiện pháp luật Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng song sinh. Nhà nước ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, đồng thời duy trì trật tự xã hội. Pháp luật với các đặc trưng của nó, trở thành công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước quản lý xã hội. Tuy nhiên, pháp luật chỉ thực sự có giá trị khi nó được thực hiện trong đời sống thực tiễn. Vấn đề thực hiện pháp luật luôn được các nhà nước quan tâm cả trên phương diện nghiên cứu lý luận và phương diện tổ chức thực tiễn. Trên phương diện lý luận, thực hiện pháp luật là nội dung trọng tâm của khoa học pháp lý. Vấn đề là ở chỗ những quy phạm pháp luật được nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác lập trật tự xã hội, cho dù có sức mạnh cưỡng chế, thậm chí bằng cả những chế tài tàn khốc cũng không thể tự mình đi vào cuộc sống. Pháp luật được ban hành nếu chỉ “đọng” lại trên các văn bản thì chỉ là pháp luật ở trạng thái “tĩnh”, vấn đề quan trọng là pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước,cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời sống cộng đồng. Thực hiện pháp luật là một hiện tượng mang tính lịch sử, thể hiện ra là một quá trình hết sức phức tạp nhằm thực hiện hóa các giá trị của pháp luật. Và cũng vì thế, trước đây cũng như hiện nay trong khoa học pháp lý khái niệm thực hiện pháp luật vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm, nhận thức và cách thức giải thích khác nhau, đáng chú ý là các quan niệm sau: - Có quan điểm cho rằng “ Thực hiện pháp luật là hành vi hành động hoặc không hành động của con người phù hợp với những quy định của pháp luật. Nói khác đi, tất cả những hoạt động nào của con người, của các tổ chức mà thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì đều được coi là biểu hiện của việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật”2 2 Trường Đại học Luật Hà Nội (2004),Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
  12. - Quan điểm thứ hai cho rằng “ Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”3. - Lại có quan điểm coi “ Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”4. Các quan niệm trên đều tương đối đồng nhất về nội dung, đó là: Khẳng định thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm là cho các quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Sự khác nhau trong các quan niệm là không cơ bản, chỉ ở chỗ coi thực hiện pháp luật là một quá trình hay là một hiện tượng xã hội, song đều hướng đến mục đích chung là hành vi hợp pháp của đối tượng thực hiện pháp luật. Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc tăng cường pháp chế, coi trọng việc thực hiện pháp luật, củng cố trật tự pháp luật và kỷ cương nhà nước. Những quan điểm tư tưởng trên về thực hiện pháp luật đã được Hiến pháp- luật cơ bản của Nhà nước nghi nhận như một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội. Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) quy định: “ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật” Từ việc nghiên cứu những quan điểm trên có thể rút ra khái niệm về thực hiện pháp luật như sau: Thực hiện pháp luật là toàn bộ quá trình được diễn ra theo một cơ chế chặt chẽ, trong đó các cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi phù hợp với ý chí của nhà nước được thể hiện trong pháp luật về từng lĩnh vực cụ thể mà cá nhân, tổ chức đó chịu tác động điều chỉnh. Dưới góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành vi đó không trái, không vượt quá phạm vi quy định của pháp luật, phù hợp với quy định của 3 Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật(2007), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Tr.396 4 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật(2004), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Tr 162
  13. pháp luật và có lợi cho xã hội, cho nhà nước, cho cá nhân. Tuy nhiên, đó chỉ là cách nhìn nhận chung, chưa cụ thể. Pháp luật gồm rất nhiều các quy phạm khác nhau về nội dun g, về cách thức, phương pháp điều chỉnh. Vì thế, với mỗi loại quy phạm đòi hỏi phải có cách thức thực hiện phù hợp; có thể đó là các xử sự chủ động (hành động) nhằm đạt được mục đích luật định, như sử dụng quyền hay làm nghĩa vụ pháp lý; có thể là cách xử sự thụ động (không hành động), là kiềm chế không làm những điều mà pháp luật cấm. Vì vậy, hành vi hợp pháp rất đa dạng, được thực hiện tùy thuộc vào ý chí mỗi cá nhân, vào ý chí của nhà nước. Hành vi hợp pháp có thể được thực hiện trên cơ sở nhận thức sâu sắc của chủ thể về sự cần thiết phải xử sự theo pháp luật, và do vậy nó là hành vi tự giác, tích cực. Cũng có thể hành vi hợp pháp được thực hiện thụ động, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, trong khi chủ thể thực hiện pháp luật chưa hoặc không nhận thức được đầy đủ tại sao phải làm như vậy. Cũng có thể có những hành vi hợp pháp được thực hiện do kết quả của việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc do sợ bị trừng phạt. Những trường hợp trên đều cho thấy thực hiện pháp luật là quá trình hiện thực hóa pháp luật; quá trình này diễn ra với nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào tính chất các quy phạm pháp luật, vào yêu cầu của các chủ thể, và vào vị trí, vai trò của các chủ thể đó trong xã hội, đối với Nhà nước. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau: Thứ nhất, hình thức tuân thủ pháp luật. Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật thụ động, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Xét về tính chất, các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành được phân chia thành nhiều loại khác nhau, trong đó có quy phạm mệnh lệnh buộc chủ thể phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nào đó. Về hình thức, những quy phạm này có thể không mổ tả cụ thể hành vi, nhưng quy định rõ các chế tài sẽ được áp dụng khi chủ thể vi phạm. Trong thực tế lập pháp, các quy phạm mệnh lệnh được Nhà nước sử dụng phổ biến trong lĩnh vực hình sự, hành chính, hoặc trong pháp luật về các lĩnh vực chuyên ngành. Thứ hai, hình thức thi hành hay chấp hành pháp luật.
  14. Thi hành hay chấp hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật quy định nghĩa vụ của chủ thể phải thực hiện hành vi tích cực được quy định ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, pháp luật quy định cá nhân, tổ chức kinh doanh phải nộp thuế. Khi tổ chức, cá nhân kinh doanh đó thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cũng tức là họ đã thực hiện pháp luật dưới hình thức chấp hành pháp luật. Thứ ba, hình thức sử dụng pháp luật. Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể, tức là thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép. Những quy phạm pháp luật quy định quyền và tự do dân chủ của công dân được thực hiện ở hình thức này. Hình thức sử dụng pháp luật có đặc điểm là chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật quy định công dân có quyền tự do kinh doanh. Nếu một công dân đầu tư vốn thành lập doanh nghiệp và thực hiện hoạt động kinh doanh, tức là công dân đó đã sử dụng pháp luật (quyền được kinh doanh của mình). Hoặc công dân đó mặc dù có đủ các điều kiện để thực hiện hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật nhưng họ không tham gia kinh doanh tức là công dân đó không sử dụng pháp luật, và cũng không vì thế mà phát sinh trách nhiệm pháp lý. Thứ tư, hình thức áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật; hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để ban hành các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường hợp này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, một số tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể quần chúng cũng có thể thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật theo sự ủy quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật luôn gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước với hoạt động quản lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì
  15. vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước; được thực hiện theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định; điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội xác định; đòi hỏi tính sáng tạo. 1.1.3 Khái niệm thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Pháp luật chỉ phát huy hiệu lực, hiệu quả khi nó được thực hiện trong đời sống thực tiễn. Vì vậy, có một hệ thống pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài hoàn thiện cũng không có nghĩa là Nhà nước thực hiện được việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, thu hút được các nguồn lực nước ngoài, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Muốn phát huy vai trò đó của pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài đòi hỏi Nhà nước phải xác lập được cơ chế, quy trình nhờ đó tác động lên ý thức, hành vi của chủ thể pháp luật quan hệ đầu tư nước ngoài, làm cho các chủ thể này thực hiện đúng đắn, chính xác những yêu cầu, đòi hỏi mà các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài đề ra. Do vậy, có thể quan niệm thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài là quá trình hoạt động có mục đích, theo một cơ chế và quy trình chặt chẽ nhờ đó các chủ thể đầu tư nước ngoài thực hiện các hành vi phù hợp với yêu cầu của các quy phạm pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, đảm bảo cho pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành hiện thực trong cuộc sống. Thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực cụ thể, do đó, ngoài những đặc điểm chung của thực hiện pháp luật, việc thực hiện lĩnh vực pháp luật này còn có những đặc điểm riêng. Đó là những đặc điểm quy định bởi những đặc điểm của hoạt động đầu tư nước ngoài. Có thể phân tích một số đặc điểm riêng biệt đó của thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: Một là, tính phức tạp và liên ngành trong thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các quy phạm pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài rất rộng, được quy định ở nhiều văn bản khác nhau, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, với thứ bậc về hiệu lực pháp lý khác nhau. Mặc khác, lĩnh vực pháp luật này liên quan đến nhiều loại chủ thể khác nhau trong xã hội, từ cơ quan hoạt động nhân danh quyền lực
  16. nhà nước đến các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các cá nhân, liên quan đến không chỉ chủ thể trong nước mà còn chi phối nhiều chủ thể có yếu tố nước ngòai. Tính phức tạp của các quy phạm pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài quy định tính phức tạp trong thực thi. Khi thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài, các chủ thể đầu tư nước ngoài không chỉ thực hiện các quy phạm pháp luật của pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà còn phải thực hiện các quy phạm của nhiều ngành luật khác có liên quan. Điều này có lý do bởi pháp luật đầu tư nước ngoài có tính hệ thống, tính mở, có mối liên quan và sự giao thoa, tương tác với nhiều lĩnh vực pháp luật khác, như lĩnh vực pháp luật về tổ chức nhà nước, về kinh tế, tư pháp quốc tế, dân sự, lao động, đất đai… Chính vì có tính liên quan chặt chẽ như vậy mà mục đích điều chỉnh của pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ có thể đạt được đầy đủ, toàn vẹn khi đồng thời có sự thực hiện tốt các quy phạm của pháp luật đầu tư trong mối quan hệ với lĩnh vực pháp luật lao động do lĩnh vực này pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài không có quy phạm riêng điều chỉnh. Vì thế, để xác lập và thực hiện các quan hệ lao động trong đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải thực hiện các quy phạm được quy định trong Bộ luật Lao động và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan. Tương tự như vậy, trong các mối quan hệ về thuế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp khác khi đi vào hoạt động phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước; có thể được hưởng các ưu đãi về thuế. Pháp luật đầu tư nước ngoài chỉ quy định các trường hợp được miễn, giảm , đồng thời chỉ quy định các loại thuế có tính chất đặc thù mà doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải nộp, như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế nhập khẩu…Để có thể thực hiện các quy định về ưu đãi thuế khi thực hiện hoạt động đầu tư, các chủ thể phải thực hiện cùng với các quy định trong các văn bản quy định về chức năng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đặc biệt, trong mối quan hệ với pháp luật đất đai, nhiều quy định của pháp luật đất đai là bộ phận quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài, và là cơ sở pháp lý trực tiếp giải quyết các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực sử dụng đất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bị tuyên bố phá sản, các quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
  17. chủ yếu lại thuộc Luật phá sản và các văn bản quy định cụ thể, hướng dẫn thực hiện Luật này…. Đặc điểm về tính liên ngành trong thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài đặt ra các yêu cầu cần phải đáp ứng. Đó là: 1) Phải đảm bảo tính đồng bộ, liên thông giữa các quy phạm pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài với các quy phạm thuộc các lĩnh vực khác; 2) Đòi hỏi các cơ quan nhà nước thực thi pháp luật, cả chủ thể đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp Việt Nam phải am hiểu pháp luật, nhất là các lĩnh vực pháp luật trực tiếp liên quan, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan Hai là, thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc về tính ưu trội của các quy định trong các điều ước quốc tế và quy định về giải quyết xung đột pháp luật. Trong quá trình thực hiện chính sách mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia nhiều điều ước quốc tế có liên quan đến đầu tư nước ngoài, ký kết các hiệp định song phương với nhiều nước để khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chính vì vậy, các quy định về đầu tư nước ngoài trong nhiều điều ước quốc tế được coi là một bộ phận quan trọng của pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của một quốc gia. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nếu điều ước quốc tế có quy định khác với quy định của Luật trong nước thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế. Như vậy, trong trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định cho phù hợp với các quy định của điều ước quốc tế, trường hợp có xung đột pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ đầu tư nước ngoài thì phải áp dụng các biện pháp giải quyết xung đột pháp luật đã được quy định trong các điều ước quốc tế. Ba là, việc thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, trong đó có chủ thể là nhà đầu tư nước ngoài. Đó là những cá nhân có quốc tịch của một nhà nước khác, được nhà nước và hệ thống pháp luật mà cá nhân có quốc tịch của nhà nước đó bảo hộ. Ngoài các hoạt động kinh doanh, các chủ thể là nhà đầu tư nước ngoài còn tham gia vào các giao dịch xã hội khác như những công dân Việt Nam. Trong những trường hợp xảy ra xung đột pháp luật giữa hai hệ thống pháp luật Việt Nam và hệ thống pháp luật mà nhà đầu tư có quốc tịch, hoặc trong các giao
  18. dịch mà chủ thể đầu tư vi phạm thì cũng có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, sự phong phú và khác biệt về văn hóa, truyền thống của các quốc gia, vũng lãnh thổ trên thế giới cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực thi pháp luật. 1.2 SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI. * Trong bất kỳ chế độ nhà nước nào, khi đề ra pháp luật, các nhà nước đều mong muốn và dùng mọi biện pháp để pháp luật đó được thi hành. Thực hiện pháp luật cũng do chính đòi hỏi của xã hội nhằm xác lập trật tự xã hội, từ đó bảo đảm được an ninh xã hội, an sinh cho các thành viên, đặt nền móng cho sự phát triển xã hội. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, những yêu cầu khách quan trên của việc bảo đảm thực hiện pháp luật – do bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa mà có đặc thù riêng, đó là: - Việc thực hiện pháp luật trở thành đòi hỏi chung, thống nhất của cả xã hội, cả nhà nước, của từng công dân, trở thành nghĩa vụ pháp lý và đạo lý của mỗi người dân. Nói cách khác, việc thực hiện pháp luật mang tính xã hội sâu sắc, tính tự giác và chủ động cao của từng thành viên xã hội. - Việc thực hiện pháp luật gắn liền với việc xây dựng một xã hội với đầy đủ những đặc trưng của một hình thái kinh tế - xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó con người là chủ thể và làm chủ, với ý thức của người làm chủ, ý thức pháp luật cao. Như vậy, yêu cầu đảm bảo thực hiện pháp luật, trong đó có pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện như một tất yếu của mối quan hệ hữu cơ giữa cá nhân và xã hội; sự phát triển của xã hội và cá nhân gắn liền chặt chẽ với nhau, phù hợp định hướng điều chỉnh chung của pháp luật. Trật tự pháp luật của xã hội là do chính các chủ thể trong xã hội bằng hành vi hợp pháp của mình tạo lập ra và để đảm bảo cho sự phát triển của chính mình. - Yêu cầu khách quan bảo đảm thực hiện pháp luật trong nhà nước xã hội chủ nghĩa còn do nhu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Yêu cầu khách quan này phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa người thực hiện được pháp luật hay không trước hết phụ thuộc vào chất lượng pháp luật; pháp luật phải là một hệ thống hoàn thiện, thể
  19. hiện chính xác ý chí của nhân dân, với đầy đủ các thuộc tính của hệ thống hiện đại, mang đậm bản sắc truyền thống văn hóa của dân tộc. Như vậy, yêu cầu này chỉ đạt được khi công tác xây dựng pháp luật phải phản ánh chính xác những nhu cầu điều chỉnh pháp luật của xã hội, của nhà nước mà những nhu cầu này chỉ có thể phát hiện ra qua thực tiễn thực hiện pháp luật. Thực tiễn thực hiện pháp luật cũng là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chất lượng pháp luật, chất lượng xây dựng pháp luật. Trên cơ sở thực trạng mà phát hiện ra những mâu thuẫn, chồng chéo, những điểm không còn phù hợp trong chính sách và pháp luật, từ đó sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế khách quan. Đồng thời, cũng trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng thực hiện pháp luật mà phát hiện ra những nhu cầu điều chỉnh mới của pháp luật để kịp thời xây dựng và ban hành pháp luật. Nếu không có những khảo sát, đánh giá từ thực tiễn cuộc sống thì không thể có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực hiện pháp luật, không phát huy được vai trò của nó trong cuộc sống. * Từ những yêu cầu chung mang tính khái quát trên, đối chiếu với bối cảnh lịch sử của giai đoạn hiện nay của cách mạng Việt Nam, và từ vị trí, vai trò của pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa hết sức đặc thù của Việt Nam, có thể phân tích một số yêu cầu khách quan của việc bảo đảm thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam như sau: Một là, thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước về đầu tư. Hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý đầu tư nói riêng là chức năng quan trọng của Nhà nước. Sự quản lý hoạt động đầu tư, đặc biệt là các biện pháp khuyến khích đầu tư bằng pháp luật trong điều kiện phát triển kinh tế của Việt nam hiện nay là hoàn toàn cần thiết. Mặt khác, quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trên cơ sở pháp luật là xu thế chung của hầu hết các nước trên thế giới. Các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư được đặt ra nhằm mục đích thu hút các nhà đầu tư đầu tư nguồn vốn của họ vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể. Song, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư, đòi hỏi Nhà nước phải có những đầu tư theo một trật tự có định hướng, đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích cho các nhà đầu tư là nội dung quan trọng của quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư. Với các đặc trưng của pháp luật, hầu hết các nhà nước thường cụ thể hoá các nghị quyết, chủ trương,
  20. đường lối thành pháp luật và đảm bảo thực hiện. Nếu không có một hành lang pháp lý cụ thể, Nhà nước không thể phát huy hết quyền lực và vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư. Nếu như trong thời kỳ quản lý tập trung, các quan hệ đầu tư diễn ra hết sức tẻ nhạt và theo kiểu cơ chế “ Xin cho”, nguồn vốn đầu tư rất nhỏ thì trong nền kinh tế thị trường, với một cơ chế thông thoáng, các chủ thể là các nhà đầu tư nước ngoài xuất hiện, hệ thống các chính sách liên quan đến đầu tư ngày càng cởi mở đã làm cho môi trường đầu tư dần nóng lên và ngày càng sôi động. Sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư trong một “sân chơi” với những nội dung cạnh tranh phức tạp đòi hỏi các nhà quản lý cần phải có phương tiện để điều khiển các “Cuộc chơi” hướng các hoạt động đầu tư theo định hướng rõ rệt, đảm bảo một môi trường pháp lý bình đẳng mà ở đó có các nhà đầu tư có thể phát huy hết năng lực của mình. Bản chất của các biện pháp khuyến khích đầu tư là Nhà nước muốn dành cho các nhà đầu tư những chính sách ưu đãi đặc biệt để khuyến khích nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư. Để các biện pháp khuyến khích đầu tư phát huy được hiệu quả, Nhà nước không thể tuỳ tiện đưa ra các chính sách ưu đãi và không thể giành sự ưu đãi cho nhà đầu tư này mà không dành ưu đãi cho nhà đầu tư khác. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật, Nhà nước tạo ra một môi trường canh tranh đầu tư lành mạnh và bình đẳng. Điều đó không chỉ làm cho thị trường đầu tư của các nước nói chung và Việt Nam nói riêng có một sự cạnh tranh sôi động mà còn đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư có hiệu quả. Thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài một mặt đảm bảo cho các hoạt động đầu tư vận động theo đúng các quy luật khách quan đồng thời thu hút, hấp dẫn và tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư. Nếu không có sự quản lý các biện pháp khuyến khích đầu tư bằng pháp luật sẽ làm cho môi trường đầu tư trở nên kém hiệu quả, bản thân các biện pháp khuyến khích đầu tư sẽ phản lại tác dụng của nó, Nhà nước sẽ không thể quản lý hoạt động đầu tư; quốc gia sẽ mất đi vị thế trong thị trường đầu tư đang diễn ra hết sức sôi động, bình đẳng và lành mạnh trên thế giới. Thông qua thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành bằng pháp luật của các cấp chính quyền, bảo đảm cho bộ máy chính quyền thể hiện được đầy đủ những đặc trưng của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đội ngũ công chức
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0