intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy phần đọc - hiểu văn bản trong phân môn Văn ở lớp 9

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

34
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Học sinh ngày càng hờ hững với môn văn, chất lượng môn học này ngày càng trở nên đáng báo động. Trong các lần kiểm tra định kì, các kì thi tuyển sinh vào Trung học phổ thông, chất lượng môn văn nhìn chung còn thấp. Nhiều bài văn của học sinh cho thấy các em làm bài mà không hiểu vấn đề. Chữ viết của các em còn mắc nhiều lỗi thông thường về chính tả, ngữ pháp, diễn đạt, chấm câu, tách đoạn tuỳ tiện, không đúng quy định.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy phần đọc - hiểu văn bản trong phân môn Văn ở lớp 9

  1. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 KINH NGHIỆM DẠY PHẦN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TRONG  PHÂN MÔN VĂN Ở LỚP 9 A. ĐẶT VẤN ĐỀ: I. LỜI MỞ ĐẦU:     Nhà văn Mác­xim Gor­ki, đại văn hào Nga đã nói: “Văn học là nhân học”. Văn   học là cái gì đó rất đỗi gần gũi với con người, giúp phát triển nhân cách con  người, giúp người hiểu người hơn. Văn học xuất phát từ con người, và dù nó có  bay cao, bay xa, dù có thăng hoa đến đâu cũng hướng tới con người. Bất cứ  ai   muốn thành công trong bất kì lĩnh vực nào của cuộc sống cũng cần có vốn sống   và vốn ngôn ngữ mà văn chương đem lại.      Là một giáo viên dạy môn Ngữ  văn đã lâu năm, đặc biệt lại hay được phân   công dạy  ở  lớp 9, lớp cuối của cấp học, bản thân tôi luôn trăn trở  để  tìm ra   những phương pháp hiệu quả  nhất trong giảng dạy nhằm góp phần nâng cao   chất lượng đại trà, chú trọng chất lượng mũi nhọn bộ  môn Ngữ  văn  ở  cấp  Trung học cơ sở nói chung, lớp 9 nói riêng. Qua quá trình nhiều năm giảng dạy   với nhiều đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình, yếu kém, tôi đã rút ra được  một số  kinh nghiệm nhỏ  bé nhằm góp phần nâng cao hiệu quả  của tiết dạy  phân môn văn ở lớp 9. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:     1. Thực trạng:      Nhiều năm qua việc dạy và học môn Ngữ văn trong các trường phổ thông nói  chung và  ở  cấp Trung học cơ  sở  nói riêng không đạt được chất lượng và hiệu  quả  cần thiết cho môn học này. Môn Ngữ  văn dù là môn học chính, được nhân  hệ số  2 trong các kì thi nhưng vẫn không thu hút được sự  say mê của phần lớn   Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 1
  2. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 học sinh các cấp học, đặc biệt là cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông.  Các em ngại đọc bài, ngại viết bài, ngại nghe giảng, ngại làm bài tập, ngại cả  luyện viết hàng ngày. Trong phân môn Văn học có yêu cầu soạn bài trước khi đến lớp thì các em làm qua loa chiếu lệ, chép sách “Để  học tốt Ngữ  văn” hoặc chép của   nhau nhằm đối phó với thầy cô bộ môn. Vì vậy mà dẫn đến tình trạng môn văn   ngày càng trở thành một môn học khó thu hút được sự hào hứng say mê của học  sinh, nhiều em khi học xong chương trình phổ thông không thể tạo lập một văn   bản đơn giản nhưng cần thiết trong cuộc sống.      Bên cạnh đó có một số em thực sự thích học môn văn, nhưng không phải em  nào cũng có khả năng tiếp thu dễ dàng. Song số học sinh này không nhiều.      Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, cả  nguyên nhân chủ  quan và  khách quan. Định hướng của gia đình ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn  môn học của các em. Xu thế chung của các bậc phụ huynh là muốn cho con em   mình học các môn khoa học tự  nhiên  để  thuận lợi cho việc lựa chọn nghề  nghiệp sau này. Trong lựa chọn nghề  nghiệp lại có rất ít các trường đại học,  cao đẳng tuyển sinh môn Ngữ văn. Những ngành nghề các em ưa thích, sau này   có thu nhập cao, khối thi thường là các môn khoa học tự nhiên nên số lượng học  sinh chọn học các môn xă hội rất ít.      Song nếu nhìn nhận về phía người thầy thì có một nguyên nhân quan trọng là   cách dạy đơn điệu, nặng về  thuyết giảng một chiều, để  trò ghi chép rồi học  thuộc các ý của thầy. Cách học theo lối thụ  động đó không gây được sự  hào   hứng tìm tòi khai phá những điều mới mẻ  qua mỗi giờ  học, vì thế  những kiến  thức thu nhận được trở  nên hời hợt, vay mượn, không thấm sâu vào trí tuệ  và   tâm hồn các em. 2. Kết quả thực trạng trên:      Thực trạng trên dẫn đến kết quả là học sinh ngày càng hờ hững với môn văn,   Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 2
  3. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 chất lượng môn học này ngày càng trở nên đáng báo động.      Trong các lần kiểm tra định kì, các kì thi tuyển sinh vào Trung học phổ thông,   chất lượng môn văn nhìn chung còn thấp. Nhiều bài văn của học sinh cho thấy   các em làm bài mà không hiểu vấn đề. Chữ  viết của các em còn mắc nhiều lỗi  thông thường về  chính tả, ngữ  pháp, diễn đạt, chấm câu, tách đoạn tuỳ  tiện,  không đúng quy định. Do đó mà chất lượng bộ môn trong các kì kiểm  tra và thi  vượt cấp còn hạn chế so với một số môn học khác và so với khả năng của học  sinh đối với môn Ngữ văn.     Trong các kì thi học sinh giỏi, những học sinh được chọn vào học trong đội   tuyển dự thi môn Ngữ văn cũng chưa thực sự tự tin vào khả năng của bản thân,  còn e dè với môn học này. Vì vậy, điểm thi của học sinh môn Ngữ văn còn chưa  đồng đều, số  học sinh đạt giải cấp huyện (của trường), cấp tỉnh (của huyện),  còn hạn chế. Cụ thể: a) Chất lượng đại trà: Điểm thi cuối năm học Điểm thi vào lớp 10 Năm học Lớp (TB trở lên) (TB trở lên) SL % SL % 2007­ 2008 9A +9B (Sĩ  60/ 90 66,6 55/ 90 61,1 số 90 HS) b) Chất lượng mũi nhọn: Số HS dự thi  Số HS đạt giải cấp tỉnh SL % Năm học cấp tỉnh 2007­ 2008 10 04 40,0 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 1. Chuẩn bị kĩ trước khi lên lớp: 2. Vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 3
  4. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 3. Linh hoạt trong cách thức tổ chức giờ học (giờ dạy chính khoá và giờ dạy học  sinh trong các đội tuyển thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh môn Ngữ văn) để  đạt được hiệu quả giáo dục bộ môn cao nhất. II. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:     Trong các môn học, văn học là một môn rất khó dạy. Bởi vì mỗi giáo viên dạy  môn Ngữ văn không phải là nhà văn, nhà thơ sáng tạo văn chương, nhưng lại là  người truyền thụ  văn chương, do vậy mà mỗi giáo viên dạy văn phải có một   tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động, cảm thông, vì dạy môn Ngữ văn không chỉ là   truyền đạt kiến thức mà chủ yếu là truyền sự rung cảm trước tác phẩm. Tức là   người dạy văn phải có cảm xúc về tác phẩm và truyền cảm xúc đó đến với học  sinh. Người thầy như  là người nhóm lửa, thổi lên ngọn lửa văn chương trong  mỗi tâm hồn học trò. Và muốn được như  vậy thì người dạy phải có sự  rung   cảm sâu sắc và bằng ngôn ngữ, bằng kĩ thuật diễn đạt làm cho học sinh rung  động theo, phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học truyền thống và  hiện đại, các kĩ năng dạy học phù hợp để làm cho các em hào hứng với giờ học   văn.      Vận dụng các giải pháp nêu trên làm định hướng, tôi đã thực hiện các biện   pháp sau đây để  nhằm góp phần nâng cao chất lượng đại trà, chú trọng chất   lượng mũi nhọn môn Ngữ văn ở lớp 9: 1. Chuẩn bị kĩ trước khi lên lớp: a) Trước tiên khi được giao phụ trách các lớp, tôi đã tiến hành tìm hiểu và nắm  vững hoàn cảnh của các em học sinh thông qua sơ yếu lí lịch của các em, thông   qua giáo viên chủ  nhiệm, các giáo viên bộ  môn  khác và việc tự  tìm hiểu của   bản thân, sau đó nắm vững lực học của từng học sinh qua các đợt thi khảo sát  của Sở giáo dục, Phòng giáo dục, của nhà trường và qua các bài kiểm tra thường   xuyên và định kì của bộ môn. b)  Khâu chuẩn bị trước khi lên lớp rất quan trọng. Vì vậy trước khi lên lớp, tôi   Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 4
  5. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 soạn bài rất kĩ, đọc lại các tài liệu có liên quan để vận dụng, xác định mục tiêu  cần đạt trước khi lên lớp, xác định trọng tâm của bài học để  tập trung đào sâu  kiến thức cung cấp cho học sinh. 2. Vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ  môn. a) Sử dụng đồ dùng dạy học hợp lý:        Trước hết là tôi sử dụng tranh ảnh minh họa:     Việc sử dụng tranh ảnh  minh hoạ trong các văn bản Ngữ văn góp phần thực   hiện mục tiêu, yêu cầu của môn học, giúp học sinh nhận thức qua hình ảnh trực  quan, gợi liên tưởng, tạo cảm hứng thẩm mĩ, hứng thú cho các em.     Bên cạnh đó tôi cũng chú ý sử  dụng băng hình, băng tiếng như  băng tư  liệu,   băng tư  liệu hướng dẫn nghiệp vụ, băng đọc mẫu để  tạo thêm hứng thú cho  học sinh.     Việc sử dụng sơ đồ, bảng phụ cũng có tác dụng khái quát kiến thức của từng   phần, từng giai đoạn để học sinh nắm vững kiến thức của văn bản đã được học  nên tôi cũng rất chú ý tới việc sử dụng loại phương tiện dạy học này.     Đặc biệt việc sử dụng đồ dùng dạy học hiện đại nếu hợp lý sẽ  có tác dụng   rất lớn giúp học sinh thâm nhập vào tác phẩm, đó là máy chiếu hắt và máy chiếu   đa năng. Tôi nhận thấy việc sử dụng bài giảng điện tử  với những hình ảnh âm  thanh sinh động làm cho học sinh dễ dàng tiếp thu, khắc sâu kiến thức và tăng  hứng thú học tập cho các em. Thông qua bài giảng điện tử, tôi có thời gian nhiều  hơn để  đặt ra các câu hỏi gợi mở, nhằm khuyến khích các em tư  duy và sáng   tạo.     Ví dụ khi dạy Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật  hoặc đoạn trích truyện ngắn  Những ngôi sao xa xôi  của cây bút nữ  Lê Minh  Khuê, tôi thường đọc cho các em đoạn thơ  của nhà thơ  Tố  Hữu để  khởi động,  dẫn dắt, tạo tâm thế cho các em bước vào bài mới, hoà nhập vào không khí của   tiết học, vào tuyến lửa Trường Sơn thời chống Mỹ: Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 5
  6. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9                                     Trường Sơn xẻ dọc, dọc ngang                                Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng                                     Trường Sơn vượt núi băng sông                                Xe đi trăm ngả chiến công bốn mùa                                     Trường Sơn đông nắng tây mưa                               Ai chưa đến đó như chưa rõ mình                                             ( Nước non ngàn dặm ­ Tố Hữu)      Sau đó tôi cho các em quan sát màn hình máy chiếu đa năng đoạn tư  liệu có   hình  ảnh những đoàn xe vận tải đang vượt tuyến lửa vào tiếp viện cho chiến   trường, những cô thanh niên xung phong đang san lấp hố  bom hoặc đang đứng  chỉ đường cho các đoàn xe chạy trong tiếng  máy bay, tiếng bom gào rú. Tôi quan  sát thấy hầu hết các em đều rất chú ý vào màn khởi động này, đó là một yếu tố  rất thuận lợi để hướng dẫn các em bước vào tìm hiểu tác phẩm, từ đó mà hiệu  quả của tiết dạy tăng lên rất nhiều. b) Vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn:     Đây là những biện pháp vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công hay thất  bại của tiết dạy trên lớp.Vì vậy tôi rất chú trọng tới các phương pháp dạy học  này. Trong đó tôi rất chú ý vận dụng phương pháp dạy học tích cực. Trong quá  trình dạy học theo phương pháp tích cực, tôi thấy phương pháp này có rất nhiều   ưu điểm. Trong cách dạy này, người thầy hướng dẫn, tổ  chức, trò tìm kiếm  kiến thức, thầy nêu vấn đề, trò thảo luận phát hiện kiến thức, thầy hỏi, trò trả  lời có quan điểm riêng, thầy luôn tìm ra tình huống có vấn đề  nêu ra để  thảo  luận.     Tôi chú ý vận dụng việc chia nhóm học sinh để  các em chủ động tích cực tìm   hiểu kiến thức theo yêu cầu của tiết dạy; đặt câu hỏi và  tổ  chức cho các em  thảo luận.     Khi áp dụng phương pháp này tôi nhận thấy học sinh hứng thú hơn trong tiết  học, các em nhớ nhanh và nhớ lâu hơn các kiến thức, kĩ năng; phương pháp này   cũng giúp các em phát triển khả năng tự lực, tư duy khoa học trong nhận thức. Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 6
  7. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 3. Linh hoạt trong cách thức tổ  chức giờ  học để  đạt được hiệu quả  giáo  dục bộ môn cao nhất. a)   Trong các giờ giảng trên lớp, tôi luôn chú ý đến các đối tượng học sinh khác  nhau để có biện pháp truyền thụ kiến thức phù hợp. Tôi thường xuyên kiểm tra   việc ghi chép bài, soạn bài và học bài, làm bài tập ở nhà của học sinh. Từ đó tôi  động viên khuyến khích, khen thưởng kịp thời với những em có ý thức học tập  tốt, luôn cố  gắng vươn lên và cũng nhắc nhở, có biện pháp đôn đốc kịp thời  những học sinh còn ham chơi,lười học. b)  Chú ý hướng dẫn các em luyện viết chữ hàng ngày, yêu cầu các em viết bài,   chấm điểm, biểu dương những em viết chữ sạch, đẹp, ngay ngắn, từ  đó khích   lệ được các em khác cũng kiên trì rèn luyện để chữ viết ngày càng tiến bộ hơn. c)  Với bộ môn Ngữ văn, học thuộc bài là một yêu cầu rất quan trọng. Vì vậy tôi   cũng rất chú ý đến khâu này. Ngoài việc kiểm tra bài cũ trên lớp, tôi luôn tạo   điều kiện để  các em trả  bài vào mọi lúc có thể, thậm chí giờ  ra chơi hay cuối   mỗi buổi học tôi cũng ngồi tại lớp để  tạo điều kiện cho các em trả  bài trong  giới hạn, nắm vững được kiến thức của bộ môn. Việc kiểm tra này phải được  ghi chép cụ  thể  để  đảm bảo kiểm tra được 100% học sinh trong mỗi lớp, có   như  vậy mới tránh được tư  tưởng  ỷ  lại, cho rằng thầy cô sẽ  không kiểm tra  mình. Do đó các em rất hào hứng học bài. d)   Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn luôn chú ý phát hiện những học sinh có  năng khiếu để bồi dưỡng các em trở thành những học sinh giỏi của bộ môn. Sau  đó gặp gỡ, động viên, khích lệ các em vào đội tuyển dự thi môn Ngữ văn, thậm  chí tôi còn gặp gỡ, trao đổi, làm công tác tư  tưởng cho phụ  huynh để  các em  được tạo những điều kiện tốt nhất cho việc ôn luyện. Tôi thường xuyên giao   bài tập để  các em thực hiện và chấm rất kĩ, tìm ra những câu văn, những hình  ảnh sáng tạo để các em tự tin hơn trong học tập. Với học sinh đại trà có thể chỉ  cần làm đúng, viết đúng, nhưng với học sinh giỏi, ngoài viết đúng lại còn phải   viết hay, có như  vậy thì bài làm của các em mới tạo được ấn tượng cho người   Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 7
  8. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 đọc. Vì vậy tôi cũng thường xuyên tìm và cung cấp thêm tài liệu tham khảo để  các em học hỏi, rèn luyện thêm. Khi tập huấn cho các em dự  thi, tôi thực hiện  biện pháp cùng chấm, nghĩa là cả  cô và trò đều là “giám khảo” công khai. Các  em trực tiếp nhận xét bài làm của bạn, tìm ra các đoạn văn, bài văn viết tốt nhất  và xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp.      Ví dụ khi giao cho các em làm đề  bài:  Cảm nhận của em về bài thơ  “Sang   thu” của Hữu Thỉnh, tôi đã đọc cho các em chấm từng mở bài của các bạn theo  phương pháp so sánh để tìm ra bạn có cách viết hay nhất. Kết quả là các em đều   công nhận hai mở bài sau đây là tạo được ấn tượng nhất:     Mở bài 1:     Đẹp biết mấy mỗi mùa hoa nở  rộ  trên đất nước ta! Bốn mùa xuân, hạ, thu,   đông ngự trị và ban tặng cho ta những món quà tinh hoa của trời đất. Đó là do   sự  kết tinh của gió, hương, hoa, cỏ, ngập sắc muôn nơi. Nhưng có gì đẹp hơn   cái khoảnh khắc giao mùa chóng vánh kì diệu mà đẹp ngất ngây khi hạ qua, thu   tới. Nhà thơ  Hữu Thỉnh đã thật tinh tế  biết bao khi chớp nhặt được sợi nắng   vấn vương kéo từ hạ sang thu mong manh, dễ tan biến như khói mây để rồi viết   nên tuyệt tác “Sang thu”. Tác phẩm được viết năm 1977, in trong tập “Từ chiến   hào đến thành phố”.                                             ( Mở bài của em Trần Quỳnh Anh, khoá 2009­ 2010)     Mở bài 2:       Chẳng biết tự  bao giờ, thu đã trở  thành bến đợi trong tâm hồn của những   người thi sĩ. Mùa thu gieo vào trong trái tim mỗi con người một nốt nhạc trầm   lắng, xao xuyến mà tinh tế, nhẹ nhàng, thanh thoát. Người ta yêu thu ­ một tình   yêu đơn giản đến lạ lùng. Phải chăng chất thi vị ngọt ngào ấy đã chắp cánh cho   tâm hồn người nghệ sĩ hoá thành những vần thơ bay bổng, lãng mạn. Tất cả đã   dệt nên ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, “ Cảm thu ­ Tiễn thu” của T ản Đà.   Và cũng không thể  không nhắc tới “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Nó là tiếng thì   thầm của khoảnh khắc hạ chuyển sang thu.                                ( Mở bài của em Nguyễn Thị Thu Trang, khoá 2009­ 2010) Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 8
  9. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9     Như vậy các em sẽ được tham khảo học tập cách viết của các bạn, từ đó hình  thành niềm tự  tin rằng mình cũng viết được như  vậy để  được cô và các bạn  biểu dương. Đồng thời tôi cũng hướng dẫn các em những kĩ năng làm bài, trình  bày bài. Mặt khác, tôi cũng khen và thưởng cho các em để động viên khích lệ các   em kịp thời, khơi dậy  ở các em tinh thần thi đua và ý thức tự giác, say mê trong   học tập. e) Với bất cứ môn học nào, thực hành cũng là khâu rất quan trọng. Môn Ngữ văn  cũng vậy, phải thực hành nhiều mới giỏi. Vì vậy tôi thường xuyên yêu cầu học   sinh phải lập dàn ý, mở  rộng bài viết theo chiều sâu, có chính kiến riêng của   mình về nghệ thuật, cảm nhận. Tôi cũng hướng dẫn các em ôn luyện theo từng   chủ đề. Ví dụ ở chương trình Ngữ văn lớp 9 có các chủ đề văn học như: ­ Hình ảnh người phụ nữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. ­ Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại. ­ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. ­ Nghệ thuật tả người của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. ­ Hình ảnh người lính qua hai tác phẩm  Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về  tiểu đội xe không kính  của Phạm Tiến Duật. ­ Hình ảnh người phụ nữ trong các tác phẩm thơ hiện đại. ­ Tình yêu làng của người nông dân Việt Nam qua tác phẩm  Làng của Kim Lân. ­ Hình  ảnh con người mới qua tác phẩm  Lặng lẽ  Sa Pa  của Nguyễn Thành  Long. ­ Hình ảnh những cô thanh niên xung phong  trong tác phẩm   Những ngôi sao xa  xôi  của Lê Minh Khuê….      Từ  đó tôi yêu cầu học sinh phải nắm được cốt lõi của vấn đề  và phải tập   viết những đoạn văn nhỏ để từ đó rèn kĩ năng viết súc tích rồi tiến đến viết hay.     Tôi cũng hết sức cố gắng tạo ra bầu không khí văn chương trong các giờ văn.  Đó là bầu không khí dân chủ, cởi mở, bầu không khí đối thoại. Bước vào giờ  giảng là bước vào bầu không khí được sẻ chia, được trao đổi tâm tư.Ở đó thầy   và trò bình đẳng với nhau trong quá trình khám phá và sáng tạo. Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 9
  10. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 g)Tôi cũng cố  gắng kiên nhẫn khuyến khích để  lắng nghe được ý kiến từ  học  sinh. Theo tôi, một câu hỏi đúng lúc, đúng chỗ, vừa sức, một ánh mắt thiện cảm,  một lời động viên khích lệ, một sự  chờ  đợi không nôn nóng, một sự  tranh thủ  thêm nhiều ý kiến, một giả định, một nhận xét thoả  đáng, đó là những gì ngoài  văn chương hết sức cần thiết để nhen lên khát vọng từ học sinh.     Ví dụ khi hướng dẫn các em, nhất là các em học trong đội tuyển thi học sinh   giỏi, tôi đã đọc cho các em nghe đoạn thơ:                     Những năm ấy tôi đi giữa lòng Hà Nội                     Không hay trong xà lim anh Hoàng Văn Thụ đang nằm                     Không biết anh Trần Đăng Ninh bị cùm tay mỗi tối                     Không hay trên biên thùy Bác đã dừng chân!                     Tôi đến Nha Trang ngắm trời bể đẹp                     Có hay đâu hang Pắc Bó gió lùa                     Giường lãnh tụ là hai hàng đá ghép                     Mảnh áo chàm Bác mặc quá đơn sơ!                     Đất nước sắp đổi thay rồi mà tôi chẳng biết!                     Người thay đổi đời ta đã về kia ta vẫn không hay!                     Tôi vẫn khép phòng văn hì hục viết                      Nắng trôi đi oan uổng biết bao ngày!                     Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy!                      Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng như không!                      Nhân dân ở quanh mà ta chẳng thấy!                      Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng !                      Ta làm con nai lạc giữa rừng thu Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 10
  11. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9                      Làm hổ sa cơ giận vườn bách thảo                      Làm bóng ma hời sờ soạng đêm mơ                      Làm tất cả, chỉ trừ không đổ máu!                       Nở trắng hoa kim anh trên biên giới, Bác về                       Xa nước ba mươi năm, một câu Kiều, Người vẫn nhớ                       Mái tóc Bác đã phai màu quá nửa                       Lòng son ngời như buổi mới ra đi!                       ( Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi  ­ Chế Lan Viên)     Sau khi đọc xong tôi hỏi ấn tượng chung của từng em về đoạn thơ vừa nghe.   Các em hầu hết đều trả lời rằng đoạn thơ rất ấn tượng, rất hay. Sau đó tôi phát  cho các em văn bản thơ đã được in sẵn để các em cùng tự đọc lại và yêu cầu các   em suy nghĩ tìm tòi để phát hiện ra đặc sắc của đoạn thơ. Cuối cùng tôi đã bình  giảng cho các em nghe cách sử dụng ngôn từ đầy chất triết lí của tác giả và cách  dùng dấu câu rất ấn tượng của Chế Lan Viên. Mục đích của tôi khi cho các em  tiếp xúc với đoạn thơ là tìm cách cho các em cảm nhận được vẻ  đẹp của ngôn  từ và dấu câu trong thơ, để từ đó khích lệ các em đến với tác phẩm văn học nói  chung, đến với các tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ  văn 9 nói riêng, từ  đó  tạo tâm thế cho các em quay vào phần kiến thức ôn luyện. Quả thật sau đó các  em đã tìm đến với thơ  Chế Lan Viên, tìm học thuộc nhiều bài thơ  của ông. Và  dần dần các em cảm thấy yêu thích các tác phẩm văn chương hơn, đặc biệt là  các tác phẩm văn chương có giá trị. Theo nhà thơ Xuân Diệu thì “ Mỗi áng văn,   lời thơ là một cá lội, con bướm bay, con chim hót. Việc nghiên cứu giảng dạy là   phải đưa được vào trái tim người đọc cái kì diệu của chim hót, bướm bay, cá  lội, chứ  không phải là làm cho bướm ép dẹp, chim nhồi rơm và cá chết khô”.   Một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ sẽ nâng cao giá trị thẩm mĩ của bài văn, bài   thơ, khơi dậy  ở trái tim non trẻ  của các em tình yêu người, yêu đời, để  các em   biết ghét cái ác, cái xấu mà hướng tới chân­ thiện­ mĩ. Hoặc khi dẫn dắt các em  học sinh năng khiếu văn tìm hiểu việc bình thơ  văn, tôi cũng đọc cho các em  Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 11
  12. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 nghe đoạn bình vô cùng ấn tượng của hai tác giả Hoài Thanh­ Hoài Chân về các   thi nhân Việt Nam trong phong trào Thơ  Mới 1932­ 1945: “ Đời chúng ta nằm  trong vòng chữ  tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề  sâu. Nhưng càng đi sâu càng thấy   lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế  Lữ, ta phiêu lưu trong trong trường tình cũng  Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng   Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh,   say đắm vẫn bơ vơ, ta ngơ ngẩn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Nghe đoạn bình  này, tôi chắc rằng sẽ  không phải nói nhiều với các em về  tác dụng của việc  dùng từ  ngữ  sắc sảo,  ấn tượng, mang đậm dấu  ấn cá nhân của người viết khi  làm văn, đoạn bình này cũng sẽ  giúp các em tìm đến với phong trào Thơ  Mới   1932­ 1945 nói riêng và các tác phẩm văn học có giá trị nói chung. C. KẾT LUẬN: 1. Kết quả nghiên cứu:     Hiệu quả cách làm trên mà tôi thấy được là: chất lượng đại trà và chất lượng  mũi nhọn ngày càng tăng. Cụ thể: a) Chất lượng đại trà:     Từ khi chú trọng vận dụng các giải pháp, biện pháp dạy học trên, chất lượng   môn Ngữ văn ở các lớp tôi được phân công giảng dạy có chuyển biến đáng kể: ­ Các em phần nào chú ý đến môn học, chú ý nghe giảng, xây dựng bài, lo soạn  bài, làm bài tập ở nhà nhiều hơn trước khi đến lớp. ­ Trong các kì thi, chất lượng bộ môn do tôi đảm nhiệm đều đạt và vượt chỉ tiêu  đăng kí. ­ Kết quả thi vào Trung học phổ thông thường xuyên có tỉ lệ học sinh đạt điểm   cao nhất so với mặt bằng chung các môn thi cùng thời điểm của trường và của  toàn huyện. Cụ thể: Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 12
  13. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 Điểm thi cuối năm  Điểm thi vào lớp 10 Số  học Năm học Lớp ( Trung bình trở lên) HS ( Trung bình trở lên) SL % SL % 2008­2009 9C 40 32 80,0 32 80,0 2009­2010 9E 40 39 97,2 40 100,0 b) Chất  lượng mũi  nhọn: Số HS dự thi  Số HS đạt giải cấp tỉnh Năm học cấp tỉnh SL % 2008­2009 10 09 90,0 2009­2010 10 10 100,0     Số lượng và chất lượng giải năm sau tăng so với năm trước, đó là kết quả rất  đáng phấn khởi đối với bản thân tôi.     Bên cạnh đó, tôi cũng phần nào giúp các em học sinh yên tâm tin tưởng hơn   khi lựa chọn bộ môn Ngữ văn nói riêng, các môn khoa học xã hội nói chung, góp  phần giáo dục kiến thức toàn diện trong nhà trường. 2. Kiến nghị, đề xuất:     Để nâng cao chất lượng đại trà và chú trọng chất lượng mũi nhọn môn Ngữ  văn, mỗi giáo viên cần tâm huyết với nghề, phải có phương pháp linh hoạt với   từng đối tượng học sinh.     Bên cạnh đó người dạy không nên áp đặt học sinh cảm nhận và tuyệt đối hoá   các giá trị  văn học, bởi hành trình đến với văn chương và cái đẹp không phải  một sớm một chiều.     Cần gắn việc dạy và học văn với việc nhận thức thế giới xung quanh, trên cơ  sở đó hướng dẫn, hỗ trợ các kĩ năng tạo lập văn bản cho các em.      Cách thức sử  dụng,  ứng dụng công nghệ  thông tin phải phù hợp, tránh lạm  Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 13
  14. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 dụng, tràn lan.     Cách ra đề, đánh giá bài viết của học sinh cũng cần theo tiêu chí đổi mới. Đề  thi nên gắn với cuộc sống, chú ý phát huy tính sáng tạo của học sinh, nên nhìn  nhận đánh giá bài làm của các em dưới góc độ  một độc giả, khuyến khích sự  tìm tòi riêng của các em.      Bản thân người giáo viên cũng cần thường xuyên học tập, trau dồi chuyên  môn nghiệp vụ, cập nhật thông tin để  đáp  ứng yêu cầu giảng dạy nhằm nâng   cao chất lượng môn học.     Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong trong quá trình giảng dạy   phân môn văn mà tôi đã vận dụng phần nào có hiệu quả, kính mong được sự góp   ý của các quí vị  và các bạn đồng nghiệp để  tôi cố  gắng hơn trong quá trình  giảng dạy, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đại trà và chú trọng chất lượng  mũi nhọn của bộ môn. Xin trân trọng cảm ơn!                                                            Thị trấn Hà Trung ngày 09/ 02/ 2011                                                                                Người viết                                                                                                                                                               Lê Thị Thơ Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 14
  15. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9                                               MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG 01 A. Đặt vấn đề 01 02 B. Giải quyết vấn đề: 03 I. Các giải pháp thực hiện 03 II. Các biện pháp để tổ chức thực hiện 03 1. Chuẩn bị kĩ trước khi lên lớp 04 2. Vận dụng các phương pháp phù hợp với  04 đặc trưng bộ môn 3.Linh hoạt trong cách thức tổ chức giờ học  06 để đạt được hiệu quả cao nhất 03. C. Kết luận 11 Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 15
  16. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 16
  17. Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9 Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2