Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua giờ đọc hiểu Ngữ văn 9
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua giờ đọc hiểu Ngữ văn 9" nhằm trình bày qua tiết học cụ thể, phần văn học nước ngoài. Đó là bài “Bố của Xi-mông” của tác giả Guy đơ Mô-pa-xăng trong chương trình ngữ văn lớp 9.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua giờ đọc hiểu Ngữ văn 9
- ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH –––––––––––––––––––––––– SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH QUA GIỜ ĐỌC HIỂU NGỮ VĂN 9” Môn: Ngữ văn Cấp học: Trung học cơ sở Tác giả: Nguyễn Thị Thuỷ Đơn vị công tác: Trường THCS Lương Thế Vinh Đan Phượng – Hà Nội Chức vụ: Giáo viên
- 2/15 NĂM HỌC: 2022-2023 PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Nghị quyết 29 – NQ/TW đã đặt ra vấn đề cho toàn ngành giáo dục là “Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, xã hội chủ nghĩa vầ hội nhập quốc tế”. Bản nghị quyết này đã nhấn mạnh: “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá cuối học kì, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát triển”. Chương trình hoạt động của chính phủ thực hiện Nghị quyết 29 đã được chỉ rõ trong hội nghị TW 8 khóa XI thông qua ngày 09/11/2013 trong phần nhiệm vụ và giải pháp: “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong chương trình học với đánh giá cuối kì, cuối năm học, đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học: đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và xã hội.” 2. Vậy thế nào là đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh? Công tác khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục cần có những đổi mới như thế nào để đạt được muc tiêu đổi mới căn bản theo hướng đó? Để giảng dạy có hiệu quả, hình thành năng lực, phẩm chất của người học, mỗi cán bộ giáo viên cần hiểu rõ về đánh giá: đánh giá để phát triển học tập, đánh giá như là quá trình học và đánh giá kết quả học tập. Đánh giá để phát triển học tập hay đánh giá vì sự tiến bộ của người học là kiểm tra đánh giá trong suốt quá trình dạy học, giúp học sinh so sánh phát hiện mình thay đổi thế nào trên con đường đạt mục tiêu học tập của cá nhân. Đánh giá như là một quá trình học cho phép học sinh phản ánh ra những suy nghĩ và tự đánh giá sự tiến bộ của mình theo mục tiêu học tập cá nhân. Đánh giá như là hoạt động học tập đòi hỏi giáo viên phải chỉ dẫn cho học sinh cách thức đánh giá thế nào, học sinh phải học được cách đánh giá của giáo viên, phải biết đánh giá lẫn nhau và biết tự đánh giá, giúp các em hình thành năng lực tụ đánh giá, đánh giá lẫn nhau… để phát triển năng lực tự học của từng học sinh. Đánh giá về kết quả học tập là cách giáo viên sử dụng chứng cứ để xác nhận kết quả học tập của học sinh theo mục và tiêu chuẩn. 3. Trong các môn học ở trường phổ thông, Ngữ Văn là một bộ môn quan trọng, một môn chìa khóa để học sinh có thể mở những cánh cửa cuộc sống. Vì
- 3/15 thông qua môn học, học sinh không chỉ hiểu biết cái hay cái đẹp của những tác phẩm nghệ thuật mà còn rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, viết và kĩ năng ứng xử. Đây là những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống, câu nói của Macxim Grorki “Văn học là nhân học” đã khẳng định vị trí của môn học này. 4. Nhiều năm nay, việc dạy và học Văn đã có sự thay đổi. Việc ra đề mở đã giúp học sinh đỡ phải học thuộc lòng và phát huy được năng lực trí tuệ, đạo đức, biết vận dụng vào cuộc sống. Tuy nhiên đó chỉ là bước đầu. Thực tế, nhiều học sinh vẫn phải học văn mẫu, dùng văn mẫu để viết văn thật trong các kì kiểm tra, kì thi. Bởi vì việc kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Văn nói riêng ở trường phổ thông chưa phát triển được năng lực học sinh. Các bài kiểm tra, thi cử thường thiên về kiểm tra ghi nhớ máy móc, tái hiện kiến thức làm theo, chép lại. Học tác phẩm nào thi tác phẩm đó, chưa đánh giá đúng sự sử dụng kiến thức, chưa chú trọng việc đánh giá thường xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh nội dung phương pháp day học.Việc đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh sẽ giải quyết được vấn đề này. 5. Theo các nhà nghiên cứu, năng lực chuyên biệt của môn Ngữ Văn bao gồm năng lực giao tiếp Tiếng Việt và năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Trong đó năng lực giao tiếp có nghe, nói, đọc, viết. Năng lực cảm thụ gồm: nhận ra được giá trị thẩm mĩ của tác phẩm Văn học, biết cảm nhận, rung động trước cái đẹp, biết cảm, hiểu những giá trị của bản thân, từ đó có suy nghĩ, có những hành vi theo cái đẹp, cái thiện. Để đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá, các thầy cô giáo cần phải chú ý tới ba đặc trưng sau: Đặc trưng thứ nhất là đánh giá phát triển: Đánh giá phát triển giúp người dạy và người học nhận ra được hiệu quả của hoạt động giảng dạy cũng như hiệu quả tiếp thu. Từ đó chỉ ra những việc cần tiếp tục thực hiện để phát triển năng lực của người học theo mục tiêu đã đề ra. Đặc trưng thứ hai là đánh giá thực tiễn đó là đề cao mục đích xem xét các năng lực mà người học cần có trong bối cảnh thực tế. Nó đòi hỏi người học phải biết ứng dụng các kĩ năng và kiến thức được trang bị trong nhà trường để có thể tạo ra một sản phẩm hay vận dụng những kiến thức, kĩ năng này để giải quyết những tình huống trong thực tiễn cuộc sống (ngoài trường học). Đặc trưng thứ ba là đánh giá sáng tạo: Đánh giá sáng tạo thường được sử dụng nhằm tạo động cơ cho người học, giúp họ có trách nhiệm hơn đối với việc học của chính mình. Nó cũng khiến cho việc kiểm tra, đánh giá trở thành một
- 4/15 bộ phận thường trực của kinh nghiệm học tập và gắn chặt với những hoạt động thực tiễn, cho phép nhận dạng và kích thích khả năng sáng tạo của học sinh. Bên cạnh đó, khi dạy những bài đọc hiểu văn bản, giáo viên cũng phải chú trọng một số yêu cầu cơ bản sau đây: Thứ nhất, cần chú trọng tới việc đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh chứ không phải chỉ là kiến thức hay kĩ năng đọc hiểu. Điều này có nghĩa với những kiến thức, kĩ năng đọc hiểu được cung cấp, học sinh sẽ vận dụng như thế nào để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tế cuộc sống.Các câu hỏi đánh giá vì vậy cần tính đến môi trường tồn tại thực hoặc giả định nhưng phải có lí, phải chấp nhận được. Các văn bản/ngữ liệu dùng để đọc hiểu có thể là những văn bản quen thuộc, đã được học cũng có thể là những văn bản mới để học sinh có cơ hội vận dụng kiến thức kĩ năng đọc hiểu của bản thân để xử lí các yêu cầu cụ thể của câu hỏi. Thứ hai, cần chú trọng tới việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người đọc hạn chế tối đa những câu hỏi chỉ kiểm tra kiến thức đơn thuần hay sự ghi nhớ máy móc. Giáo viên nên đầu tư để xây dựng được kiểu câu hỏi mà học sinh có thể đưa ra những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau và biết cách lập luận để bảo vệ quan điểm của mình, từ đó kích thích các em phát triển tư duy phản biện, học sinh có cơ hội vận dụng những trải nghiệm của bản thân để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Điều này vừa có tác dụng khuyến khích học sinh chủ động tích lũy kinh nghiệm sống, vừa giúp cho môn Ngữ văn gần hơn, gắn bó hơn với cuộc đời. Thứ ba, cần chú trọng tới tính đa dạng của các kiểu loại văn bản được dùng làm ngữ liệu để kiểm tra năng lực đọc hiểu của học sinh. Qua việc tiếp thu chuyên đề do sở Giáo dục Đào tạo, Phòng Giáo dục Đào tạo tổ chức, từ việc triển khai chuyên đề: “Dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh” ở tổ chuyên môn, tôi đã chọn đề tài: “Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua giờ đọc hiểu ngữ văn 9” để nghiên cứu và thực hiện.Tuy nhiên trong bài viết này tôi chỉ tập trung trình bày qua tiết học cụ thể, phần văn học nước ngoài. Đó là bài “Bố của Xi-mông” của tác giả Guy đơ Mô-pa-xăng trong chương trình ngữ văn lớp 9. Thời gian : Học kì II năm 2021-2022 Phạm vi : Lớp 9D
- 5/15 PHẦN HAI: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Khảo sát 1. Trong chương trình, văn bản “Bố của Xi-mông” được dạy ở học kì II, Ngữ văn 9 tập 2. 2. Sách giáo khoa Văn 9 tập 2, trang 139 nêu kết quả cần đạt của bài là: “Qua đoạn trích truyện “Bố của Xi-mông”, tìm hiểu diễn biến tâm trạng các nhân vật dưới ngòi bút của nhà văn và rút ra bài học về lòng thương yêu con người”. 3. Sách giáo viên nêu mục tiêu cần đạt: “Giúp học sinh hiểu được Mô-pa- xăng đã miêu tả sắc nét diễn biến tâm trạng của 3 nhân vật chính trong văn bản này như thế nào, qua đó giáo dục cho học sinh lòng thương yêu bè bạn và mở rộng ra là lòng thương yêu con người. 4. Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng yêu cầu: + Mục tiêu cần đạt:Thấy được nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng của cá nhân vật trong văn bản, rút ra được bài học về lòng yêu thương con người. + Trọng tâm kiến thức kĩ năng: - Kiến thức: Nỗi khổ của một em bé không có bố và những ước mơ, khao khát của em - Kĩ năng: Đọc hiểu một văn bản thuộc thể loại tự sự. Phân tích diễn biến tâm lý nhân vật. Nhận diện được những chi tiết miêu tả tâm trạng nhân vật trong một văn bản tự sự. 5.Câu hỏi đọc- hiểu văn bản trong sách giáo khoa yêu cầu học sinh như sau:
- 6/15 Câu 1: Hãy xác định từng phần nếu chia bài văn trên thành bốn phần căn cứ vào diễn biến của truyện: nỗi thất vọng của Xi-mông; Phi-líp gặp Xi-mông và nói sẽ cho em một ông bố; Phi-líp đưa Xi-mông về nhà trả cho chị Blăng-sốt và nhận làm bố của em; Xi-mông đến trường và nói với các bạn là có bố và tên bố em là Phi-líp. Câu 2: Xi-mông đau đớn vì sao? Nỗi đau đớn ấy được nhà văn khắc họa như thế nào qua những ý nghĩ, sự bộc lộ tâm trạng và cách nói năng của em trong bài văn? Câu 3: Qua hình ảnh ngôi nhà của chị Blăng-sốt, thái độ của chị đối với khách và nỗi lòng của chị khi nghe con nói, chứng minh chị Blăng-sốt chẳng qua vì lầm lỡ mà sinh ra Xi-mông, chứ căn bản chị là người tốt. Câu 4: Nêu lên diễn biến tâm trạng của Phi-líp qua các giai đoạn: khi gặp Xi-mông; trên đường đưa Xi-mông về nhà; khi gặp chị Blăng-sốt; lúc đối đạp với Xi-mông. Như vậy, có thể nói tất cả yêu cầu đối với học sinh là nghiêng về đọc hiểu, chủ yếu rèn năng lực cảm thụ giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học mà ít chú ý đến rèn luyện kĩ năng nói, năng lực phát triển suy nghĩ bản thân và đặc biệt là năng lực thực hành trong cuộc sống. Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy như sau: Năm học 2021-2022 Số HS không biết Số HS biết cách Số HS làm bài tốt Lớp Sĩ số cách làm bài (1-> 4 làm bài ở mức (8-9 điểm) điểm) trung bình-khá (5- >7điểm) SL % SL % SL % 9D 45 30 66,7 15 33,3 0 0 Rút kinh nghiệm và sau khi tiếp thu việc đổi mới dạy học, kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh, tôi giảng bài này theo hướng mới. II. Giải pháp Phần 1: Chuẩn bị cho bài giảng: tôi tiến hành những bước sau: Bước 1: Chuẩn bị: 1. Chuẩn bị của học sinh - Học sinh chuẩn bị 1 tài liệu giới thiệu tác giả Mô-pa-xăng - Học sinh chuẩn bị 1 bản tóm tắt toàn bộ truyện ngắn để nói trước lớp (không đọc). - Soạn bài kĩ ở nhà theo câu hỏi sách giáo khoa. 2. Chuẩn bị của giáo viên:
- 7/15 - Đọc kĩ toàn bộ tác phẩm. - Đọc kĩ đoạn trích trong sách giáo khoa. - Chuẩn bị một số thông tin có thực: + Một số hình ảnh người ăn xin. + Một số hình ảnh những đứa trẻ tật nguyền… - Soạn giáo án theo định hướng phát triển năng lực học sinh (cụ thể ở phần sau). - Chuẩn bị câu hỏi kiểm tra. Bước 2: Thực hành giảng dạy (theo giáo án đã chuẩn bị) (Có phụ lục đính kèm) Phần 2: Xây dựng các bước trong kiểm tra đánh giá Bước 1: Xác định mục tiêu Cần phân tích được mục đích đánh giá, mục tiêu học tập sẽ đánh giá. Đó là các mục tiêu về phẩm chất; năng lực chung; năng lực đặc thù. VD : Ở bài Bố của Xi mông thì học sinh xác định mục tiêu như sau: a. Các năng lực chung: - Năng lực tự học; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực tư duy; năng lực giao tiếp; năng lực hợp tác; năng lực sử dụng ngôn ngữ. b. Các năng lực chuyên biệt: - Năng lực sử dụng ngôn ngữ. - Năng lực nghe, nói, đọc, viết, phân tích diễn biến tâm lý nhân vật. 3. Phẩm chất: - Yêu quê hương đất nước, yêu Tiếng Việt. - Tự lập, tự tin, tự chủ. - Giáo dục lòng vị tha, đức hi sinh, lòng khát khao hạnh phúc. Bước 2: Xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá – Cần xác định thông tin, bằng chứng về phẩm chất và năng lực của học sinh; – Thông qua các phương pháp, công cụ đặc thù cần phải có để thu thập được thông tin hoặc bằng chứng về phẩm chất, năng lực của học sinh. – Đồng thời, xác định rõ các cách xử lý thông tin và bằng chứng vừa mới thu thập được. Bước 3: Thực hiện – Tiến hành xây dựng các bộ câu hỏi, các bài tập, bảng kiểm, hồ sơ, hay phiếu đánh giá theo các tiêu chí đã định trước. – Thực hiện theo các yêu cầu, kỹ thuật đối với các phương pháp, công cụ đã lựa chọn, thiết kế năng đạt mục tiêu kiểm tra, đánh giá, phù hợp với từng loại hình Bước 4: Phân tích, xử lý kết quả
- 8/15 – Tiến hành chấm điểm cho học sinh dựa theo phương pháp định tính, định lượng… – Hoặc dựa vào các phần mềm đánh giá kết quả của học sinh. Bước 5: Phản hồi – Trước tiên, giáo viên phải tiến hành giải thích các kết quả mà giáo viên đã đưa ra cho học sinh. – Sau khi giải thích về các đáp án, dựa vào các kết quả vừa thu được ở Bước 4, giáo viên tiến hành đưa ra những nhận định về sự phát triển của học sinh về năng lực, phẩm chất của họ so với những mục tiêu và yêu cầu cần phải đạt được. – Đồng thời, giáo viên tiến hành lựa chọn cách phản hồi kết quả đánh giá: Đó có thể là bằng điểm số, cũng có thể bằng nhận định hoặc nhận xét để mô tả phẩm chất, năng lực đạt được, … – Cũng từ việc thu được kết quả đánh giá của học sinh, lắng nghe ý kiến của học sinh, từ đó sử dụng các phương pháp, ý tưởng để điều chỉnh hoạt động dạy học học, giáo dục nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh một cách tối đa. Có thể thấy, thông qua quy trình 05 bước, sẽ giúp học sinh phát huy một cách tối đa năng lực của bản thân; thông qua phương pháp này có thể rèn luyện cho học sinh đức tính tự giác trong học tập, giúp học sinh phản ứng nhanh trong mọi tình huống; đồng thời góp phần tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức có thể kiểm soát, quản lý chất lượng theo kết quả đầu ra theo định hướng đã định sẵn. – Tuy nhiên, bên cạnh đó, giáo viên cần phải biết cách cân đối trong việc học cho học sinh, tránh trường hợp áp dụng quy trình một cách thiên lệch, không chú ý đầy đủ đến nội dung dạy học, sẽ làm cho học sinh bị mất một lượng lớn kiến thức cần có, từ đó làm mất tính cân bằng trong hệ thống kiến thức của học sinh. Phần 3: Một số phương diện đổi mới trong kiểm tra, đánh giá. 1. Đổi mới hình thức đánh giá: a) Kiểm tra miệng: + Thời gian kiểm tra: Hướng dẫn GV không nhất thiết phải kiểm tra đầu tiết học mà có thể kiểm tra trong cả quá trình dạy học ở trên lớp. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là bỏ bước kiểm tra bài cũ ở phần đầu tiết học. Bước này có những tác dụng tích cực trong quá trình dạy học. + Nội dung kiểm tra: Không nhất thiết là kiểm tra kiến thức cũ của bài học trước mà cần có sự tích hợp với nội dung bài mới. Cần chú ý đa dạng hóa các loại câu hỏi với nhiều cấp độ khác nhau (nhận biết, thông hiểu, vận dụng) b) Kiểm tra viết:
- 9/15 Kiểm tra viết thường dùng hai hình thức là trắc nghiệm khách quan và tự luận. Hình thức trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm và những hạn chế nhất định nên tổ chỉ đạo giáo viên chỉ dùng hình thức này để kiểm tra khi đã bảo đảm những yêu cầu cơ bản nhằm khắc phục những nhược điểm của hình thức này (sẽ nói ở phần sau). Khi đánh giá HS qua kiểu bài tự luận đặc biệt là đối với phần tập làm văn, giáo viên cần chú ý các kĩ năng trình bày, diễn đạt, dựng đoạn, phân tích, tổng hợp, … ; chú ý đến cách ra đề để HS làm bài bằng chính năng lực của mình, đánh giá đúng thực chất bài làm của các em (sẽ nói ở phần sau) 2. Đổi mới nội dung đánh giá: a) Chú ý kiểm tra một cách toàn diện các kiến thức, kĩ năng được học tập và rèn luyện trong chương trình Ngữ văn. b) Khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong câu trả lời hoặc bài làm của mình. Chú ý cách diễn đạt khi nói cũng như khi viết, tránh học thuộc lòng một cách máy móc. Các câu hỏi đánh giá trình độ của HS chủ yếu là ở khả năng nhận diện và vận dụng tri thức vào thực tế cuộc sống hơn là trình bày khái niệm lí thuyết. Phải xây dựng nhiều dạng câu hỏi khác nhau, ví dụ: + Câu hỏi nhớ biết (cấp độ nhận biết): Truyện Kiều được viết bằng thể thơ gì? Nêu những hiểu biết của em về thể thơ đó. + Câu hỏi hiểu biết (cấp độ thông hiểu): Tại sao Nam Cao lại để cho nhân vật Lão Hạc của mình chết và phải chịu một cái chết đau đớn như vậy? + Câu hỏi vận dụng (cấp độ vận dụng thấp): Qua kiến thức đã học về thành phần biệt lập, em hãy đặt câu có chứa thành phần tình thái. + Câu hỏi đánh giá tổng hợp (cấp độ vận dụng cao): Qua tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao và trích đoạn Tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố, em có cảm nhận gì về số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám? 3. Đổi mới cách thức đánh giá: Kiểm tra định kì kết hợp với kiểm tra đột xuất. + Kiểm tra định kì bao gồm kiểm tra giữa kỳ và kiểm tra cuối học kì. Giáo viên chú ý phạm vi nội dung kiến thức, và hình thức ra đề (nếu là trường ra đề). Cần thực hiện đúng, đủ quy trình kiểm tra đánh giá. Mỗi lần kiểm tra chú ý những thiếu sót, tồn tại cơ bản để khắc phục trong những lần kiểm tra tiếp theo. + Kiểm tra đột xuất bao gồm kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút. - Khi kiểm tra miệng giáo viên có thể kiểm tra đầu tiết học và trong quá trình học. Câu hỏi kiểm tra kiến thức bài học cũ cũng cần chú ý đến cấp độ: câu hỏi nhận biết, thông hiểu đối với HS yếu-trung bình và câu hỏi vận dụng, phân tích, tổng hợp dành cho HS khá giỏi. Việc kiểm tra miệng kiến thức bài học cũ vào đầu mỗi tiết học một cách thường xuyên cũng có những hiệu quả nhất định. Đó là thói quen học bài cũ. Nếu ít kiểm tra vào đầu tiết học thì HS thuộc loại yếu kém, chây lười sẽ chủ quan, ỷ lại làm cho kết quả học tập sa sút. Trong quá trình
- 10/15 dạy học, giáo viên cũng có thể kiểm tra bài học cũ nhưng cũng cần chú ý thời điểm và nội dung câu hỏi. Chỉ nên hỏi khi cần phải nhắc lại kiến thức cũ để mở rộng kiến thức mới sắp học. - Kiểm tra 15 phút có thể sử dụng hình thức trắc nghiệm hoặc tự luận. Nếu sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan thì cần chú ý những hạn chế của hình thức này để khắc phục (sẽ nói ở phần dưới). Cũng có thể sử dụng hình thức tự luận bằng những câu hỏi nhỏ với nhiều cấp độ khác nhau. 4. Đổi mới khâu ra đề kiểm tra: Trong nhóm Văn chỉ đạo việc ra đề kiểm tra nói chung và đặc biệt là các đề kiểm tra thường xuyên theo phân phối chương trình đã thống nhất. Trong đổi mới phương pháp dạy học, đề kiểm tra nói chung, đề Ngữ văn nói riêng thường bao gồm hai loại: phần trắc nghiệm và phần tự luận. Tùy theo tính chất đặc trung của từng bộ môn mà tỉ lệ giữa hai phần này có sự khác nhau. Đối với bộ môn Ngữ văn, phần trắc nghiệm khách quan chiếm tỉ lệ khoảng 30-40% là vừa. Tuy nhiên mỗi hình thức ra đề có những ưu điểm và tồn tại riêng nên tổ đã có những định hướng nhất định để hạn chế tối đa những tồn tại đó. a) Đề ra theo hình thức trắc nghiệm: * Ưu điểm: Là hình thức thi hiện đại, thể hiện tính ưu việt trên cả hai phương diện là thi của HS và chấm của giáo viên. Trên phương diện thi, hình thức trắc nghiệm khách quan có nhiều câu hỏi nên nội dung kiểm tra toàn diện hơn, hạn chế việc người học học tủ, học lệch đồng thời phát huy năng lực tư duy nhanh nhạy của HS. Trên phương diện chấm, việc chấm cũng mất ít thời gian hơn, hạn chế được tính chủ quan của người chấm. * Nhược điểm: Đề ra thường là quá dễ hoặc quá khó, thời gian làm bài khá nhiều và thường là chỉ có 1-2 đề nên tình trạng HS xem bài nhau là phổ biến, có trường hợp HS đánh “hú họa” làm cho việc đánh giá HS qua kiểm tra không đúng thực chất hoặc dẫn đến việc học sinh chây lười, ỷ lại. Nguyên nhân: - Giáo viên chưa hiểu, hoặc không quan tâm về việc xây dựng ma trận đề. - Giáo viên chưa có điều kiện in sao nhiều mã đề cho HS. - Tinh thần tự học của HS chưa cao, những em lười học hoặc còn yếu kém thường trông chờ, ỷ lại những HS khá, giỏi. * Hướng chỉ đạo triển khai, thực hiện: + Khi kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan nhất thiết phải xây dựng ma trận theo quy trình đã tiếp thu. + Phải có nhiều mã đề trong một lần kiểm tra. Mức độ khó và phạm vi nội dung kiểm tra giữa các mã đề phải tương đương. + Chỉ tổ chức kiểm tra trắc nghiệm khách quan trong thời gian ngắn (từ 15 phút trở xuống), chú ý số lượng câu hỏi tương xứng với thời gian làm bài. Nếu
- 11/15 đề ra có kết hợp với hình thức tự luận thì phải cho HS làm riêng phần trắc nghiệm, GV thu bài xong mới cho HS làm phần tự luận. + Giám sát chặt chẽ việc HS làm bài, hạn chế đến mức tối đa việc HS quay cóp, trao đổi bài bằng nhiều hình thức tinh vi mà ngay cả giáo viên có kinh nghiệm cũng khó phát hiện (ra dấu, qua máy tính, …) b) Đề ra theo hình thức tự luận: * Ưu điểm: Đối với bộ môn Ngữ văn thì kiểm tra theo hình thức tự luận là một hình thức phổ biến và không thể thiếu. Kiểm tra theo hình thức tự luận giúp người dạy đánh giá được một cách chính xác năng lực tạo lập văn bản của HS, đánh giá được khả năng diễn đạt, tư duy sáng tạo, cách cảm nhận riêng của từng HS (là một yêu cầu hết sức quan trọng trong việc dạy học bộ môn Ngữ văn). * Nhược điểm: - Thường là chỉ kiểm tra được một phần của nội dung kiến thức, kĩ năng được học. - Phần kiểm tra TLV học sinh thường làm theo văn mẫu, nên việc đánh giá về tính sáng tạo, khả năng cảm nhận của HS còn hạn chế. - Tính khách quan trong đánh giá của người dạy chưa cao vì còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: chữ viết, cách diễn đạt, trạng thái tâm lí của người chấm, .. - GV mất khá nhiều thời gian trong việc chấm bài, nhận xét, sửa chữa, … * Hướng chỉ đạo triển khai, thực hiện: + Ra nhiều câu hỏi hơn với nhiều cấp độ tư duy khác nhau. + Ra nhiều đề (2-3 đề) với nội dung và những câu hỏi có cấp độ tương đương. + Ra theo hướng đề mở.Với văn nghị luận nên khuyến khích ra các dạng đề nghị luận hướng các em quan tâm nhiều hơn đến đời sống xã hội, thể hiện rõ quan điểm sống, lập trường của giới trẻ, hướng các em đến đời sống cộng đồng, khơi gợi lòng nhân ái, vị tha, biết chia sẻ. Ví dụ: - Em đã lớn rồi (Văn tự sự lớp 6) - Loài cây em yêu (Văn biểu cảm lớp 7) - Quan điểm của em về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Theo em, nên lựa chọn nghề làm ra nhiều tiền hay nghề phù hợp với sở thích của bản thân? (Văn nghị luận xã hội) - Bài thơ “Mây và sóng ” của Ta Go em có suy nghĩ gì về tình mẫu tử? (Văn nghị luận xã hội lớp 9) 5. Đổi mới khâu chấm bài: a) Xây dựng đáp án: + Đáp án cho đề đổi mới cần có tính chính xác cao, xây dựng chi tiết, cụ thể hướng dẫn chấm và có sự thống nhất cho từng loại bài nhưng không áp đặt. Chỉ nêu những ý cơ bản nhất, diễn đạt ngắn gọn, hàm súc, không thừa, không thiếu.
- 12/15 Đề trắc nghiệm cần chú ý phương án nhiễu, hạn chế câu trả lời “Tất cả đều đúng/sai” + Cần tạo hướng mở cho người làm bài và cả người chấm. b) Chấm, chữa bài: + Sắp xếp thời gian để chấm các bài kiểm tra cùng loại trong cùng một thời điểm, tránh chấm “lắt nhắt” mỗi lần chỉ vài bài. Không nên có thành kiến đối với những bài chữ viết chưa được tốt và chấm bài trong trạng thái tâm lí không ổn định. + Các bài thi học kì nên chấm chung hoặc chấm hai vòng trên bài đã rọc phách. Nếu chấm chung cần có sự thảo luận, thống nhất cao về đáp án, biểu điểm. + Chấm bài của HS không chỉ cho HS thấy được kết quả làm bài của mình mà còn cho các em thấy được những ưu điểm để các em phát huy và đặc biệt là giúp HS thấy được những tồn tại, thiếu sót, lệch lạc trong nhận thức, kĩ năng để hướng các em sửa chữa, khắc phục. + Chú ý cách nhận xét, chữa và phê trong bài làm của các em, nhất là đối với bài tập làm văn. Khi chấm có thể sử dụng những kí hiệu quy ước để các em dễ nhận biết. Lời phê cần rõ ràng, mang tính động viên, tránh dùng những lời lẽ khiếm nhã, ảnh hưởng đến niềm tin của các em đối với việc học tập bộ môn. + Cách cho điểm cũng dựa trên tinh thần khuyến khích, động viên nhưng phải bám vào hướng đẫn chấm. Cần chú ý và trân trọng những bài làm có sự sáng tạo hoặc suy nghĩ trái chiều nhưng hợp lí. 6. Đổi mới khâu trả bài: Bộ môn Ngữ văn có tiết trả bài riêng nên rất thuận lợi cho việc chữa bài cho các em. Nhưng trong thực tế, những năm trước đây, giáo viên cũng ít chú ý đến tiết học này. Trong giáo án thì soạn rất sơ sài, trên lớp thì chủ yếu là phát bài rồi vào điểm cho các em chính vì vậy tổ đã triển khai chuyên đề “Quy trình dạy bài tập làm văn” trong đó có chú trọng đến tiết trả bài với những yêu cầu về nội dung soạn bài cũng như dạy ở trên lớp, có triển khai dự giờ thăm lớp để đúc rút kinh nghiệm. Một số điểm cần chú ý trong tiết trả bài: + Khâu chuẩn bị: - Cần chuẩn bị bài soạn tiết trả bài một cách đầy đủ: mục tiêu cần đạt, những ưu điểm chính, những lỗi cơ bản về từng mặt và hướng khắc phục sửa chữa, những bài làm, những đoạn văn hay. - Có thể phát bài cho học sinh trước tiết trả bài 1- 2 ngày để học sinh xem trước. + Một số trình tự chính trong tiết trả bài: - Chép đề, tìm hiểu và nêu yêu cầu của đề đối với bài TLV hoặc nêu yêu cầu chính của mỗi câu hỏi và nôi dung chính cần đạt, theo hướng dẫn chấm (để HS có thể tự đánh giá bài làm của mình)
- 13/15 - Nhận xét ưu khuyết điểm cơ bản trong bài làm của các em về nội dung và hình thức. - Phân tích và chữa lỗi. - Xây dựng dàn bài mẫu (Nếu là bài tập làm văn), - Đọc bài văn, đoạn văn hay hoặc giới thiệu những bài làm đạt điểm cao. - Trả bài (nếu chưa trả trước) - Giải đáp thắc mắc, động viên, nhắc nhở học sinh các bài làm sau. * Chú ý: Điểm đổi mới trong giờ trả bài là công khai đáp án, biểu điểm cho HS để các em tự đánh giá bài làm của mình và đánh giá ngược trở lại cách ra đề, đáp án, biểu điểm của giáo viên. Giáo viên cần khuyến khích và trân trọng những ý kiến đóng góp của học sinh, nên trao đổi thẳng thắn, cởi mở. 7. Đổi mới khâu tổ chức, quản lí: a) Chú ý công tác bồi dưỡng thường xuyên, bao gồm: + Tổ chức cho GV tham gia các lớp tập huấn và học tập, triển khai thực hiện ở tổ các chuyên đề được học tập hoặc các SKKN của CB-GV có đề tài liên quan (Quy trình dạy bài tập làm văn, Đổi mới trong kiểm tra, đánh giá học sinh môn Ngữ văn) + Tổ chức cho GV tự học, tự nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá thông qua các tài liệu và nội dung tập huấn. Các buổi sinh hoạt tổ có thảo luận, giải đáp thắc mắc, trao đổi kinh nghiệm. b) Tổ chức và quản lí việc ra đề của giáo viên. + Các tiết khảo sát đầu năm, kiểm tra định kì theo chương trình tổ chỉ đạo thực hiện ba chung: chung nội dung ôn tập, chung định hướng nội dung kiểm tra, chung cơ cấu đề. Do chưa có những điều kiện tối ưu để tổ chức theo hình thức trắc nghiệm nên tổ thống nhất chỉ đạo hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan chỉ thực hiện đối với việc kiểm tra 15 phút và giáo viên phải bảo đảm các yêu cầu như đã nói ở trên. Còn kiểm tra đầu năm và kiểm tra định kì theo PPCT thì sử dụng hình thức tự luận và có sự thống nhất chung: - Nhóm trưởng mỗi khối lớp thống nhất đề cương ôn tập với các giáo viên bộ môn Ngữ văn trong cùng khối lớp và thông báo trước cho HS từ 7 đến 10 ngày để các em có điều kiện ôn lại kiến thức. - Sau đó trong nhóm bộ môn thống nhất định hướng ra đề, cơ cấu đề (Số lượng câu, nội dung và mức độ kiểm tra, số điểm cho mỗi nội dung kiểm tra, …). - Trên cơ sở định hướng ra đề và cơ cấu đề đã thông nhất, mỗi giáo viên ra đề cho lớp mình (2 đề) và nộp cho Ban giám hiệu hoặc Tổ trưởng trước 3 ngày. Hàng tháng hoặc cuối mỗi học kì, tổ trưởng tập hợp và nhận xét đề ra của giáo viên theo từng loại đề (Tiếng Việt, Văn học, Tập làm văn, …) để đúc rút kinh nghiệm.
- 14/15 Việc kiểm tra hồ sơ, dự giờ thăm lớp đều có chú ý đến các tiết kiểm tra, tiết trả bài của giáo viên. - Đề kiểm tra học kì, kiểm tra một tiết trở lên được lưu lại để tham khảo, đối chiếu khi cần thiết. Sau khi xây dựng xong các bước trên tôi đã thu được kết quả như sau: III. Kết quả Sau khi thực hiện phương pháp đổi mới dạy học và kiểm tra, đánh giá theo hướng định hướng năng lực của học sinh trong 2 tiết , bài “bố của Xi-mông”, tôi thấy giờ học đạt hiệu quả tốt hơn so với cách dạy cũ, kết quả kiểm tra tiến bộ hơn. Cụ thể ở những mặt sau: - Học sinh được thể hiện và phát huy năng lực bản thân ở nhiều mặt: 1. Năng lực tự học: học sinh chủ động tự đọc toàn bộ tác phẩm, tự tóm tắt tác phẩm, tự đọc – hiểu được một số nét cơ bản của đoạn trích. 2. Năng lực hợp tác: thông qua các hoạt động nhóm, các em được trao đổi thông tin, trao đổi suy nghĩ và rút ra những vấn đề chung. 3. Năng lực sử dụng ngôn ngữ: học sinh biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp để trình bày một vấn đề qua hai phương thức nói hoặc viết. 4. Năng lực tự quản bản thân: học sinh biết ứng xử như thế nào khi bản thân gặp những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống như: mình bị gặp điều rủi ro, điều bất thường, không may mắn. 5. Năng lực ứng dụng thực tế: học sinh biết cảm thông giúp đỡ những người nghèo khổ, bất hạnh; có cách ứng xử đúng mực: không miệt thị, khinh thường với những người khuyết tật. Ví dụ: Học sinh đã tự tìm hiểu các thông tin, đọc hết một số tác phẩm đã học trong chương trình như: Làng cuả Kim Lân, Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê… Học sinh tranh luận bày tỏ ý kiến cá nhân về một vấn đề nhưng cũng biết lắng nghe ý kiến của bạn và đi đến thống nhất. Trong đợt quyên góp ủng hộ đoàn nghệ thuật tình thương về biểu diễn, giao lưu văn nghệ ở trường, nhiều em học sinh đã rất xúc động trước những hoàn cảnh và nghị lực của một số bạn trong đoàn, các em đã ủng hộ nhiều về vật chất để động viên chia sẻ với các bạn đó. - Hơn thế, học sinh được thể hiện và phát huy những năng lực chuyên biệt của môn Ngữ Văn. 1. Về năng lực giao tiếp Tiếng Việt: Học sinh được rèn luyện khả năng đọc văn bản theo nhiều cách: tự đọc, nghe bạn đọc, đọc toàn bộ văn bản, đọc phân tích.
- 15/15 Học sinh được rèn luyện kĩ năng tập trung nghe để lĩnh hội kiến thức, nghe bạn, nghe cô giảng. Học sinh được nói ý kiến cá nhân. Học sinh được trình bày vấn đề bằng cách viết đoạn văn. 2. Về năng lực cảm thụ thẩm mĩ văn học: Học sinh nhận ra được cái hay, cái đẹp của đoạn trích (trong cách kể chuyện, trong phẩm chất của nhân vật). Học sinh biết rung động trước vẻ đẹp của nhân vật chi Blăng-sốt, bác Phi-líp, bé Xi-mông, biết rung động trước nỗi bất hạnh của nhân vật, biết phê phán cái xấu, cái sai của những đứa trẻ, bạn của Xi-mông. Cảm nhận và hiểu được giá trị của bản thân trong cuộc sống: có đầy đủ mọi thứ, được hạnh phúc. Có những hành vi theo cái đẹp, hướng thiện: trân trọng con người, yêu thương, giúp đỡ người khác, nhất là người bất hạnh. Biết tránh và phê phán những hành động vô cảm, ác ý đối với con người. - Trong bài khảo sát nhanh với hai câu hỏi: 1. Nếu em ở trong hoàn cảnh của Xi-mông, bị bạn bè trêu chọc, đánh đập như thế, em sẽ làm gì? 2. Nếu em bị nghi ngờ về việc ăn cắp đồ của bạn khác trong khi thủ phạm không phải là em, em xử sự như thế nào? - Câu trả lời của học sinh rất phong phú, có thể lược một số cách giải quyết như sau: Câu 1: Em sẽ nói với thầy hoặc cô giáo Em sẽ chạy vào báo bác bảo vệ Em sẽ chạy về nói với mẹ vì mẹ là chỗ dựa của em Em sẽ nhờ bất kì ai đó là người lớn mà em nhìn thấy lúc bị đánh Câu 2: Em sẽ báo với thầy, cô giáo Em sẽ trình bày rõ với người bị mất rằng mình không lấy Em sẽ tìm sự giúp đỡ của bạn bè Em sẽ nói với bố mẹ và nhờ bố mẹ giúp. Rất vui là không ai chọn cách tự tử như nhân vật trong truyện. Cũng nhờ áp dụng đề tài này mà trong năm học 2021-2022 chất lượng kiểm tra được nâng lên rõ rệt. Cụ thể là : Số HS không biết Số HS biết cách làm Số HS làm bài tốt cách làm bài (1-> bài ở mức trung (8-9 điểm) Lớp Sĩ 4điểm bình-khá (5->
- 16/15 số 7điểm) SL % SL % SL % 9D 45 10 22,2 33 73,3 2 4,5 PHẦN BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Bằng các biện pháp như đã nêu ở trên, về phương diện kiểm tra, đánh giá, tổ chúng tôi đã rút ra được một số kết quả như sau: 1. Bảo đảm được sự công bằng, khách quan hơn trong việc tổ chức kiểm tra, đánh giá học sinh. 2. Việc tổ chức kiểm tra, đánh giá bước đầu đã đi vào quy trình, tạo nền nếp tốt trong việc quản lí của tổ, của trường về vấn đề này. 3. Kịp thời chấn chỉnh được những sai sót trong quy trình ra đề, đặc biệt trong đề ra của giáo viên. 4. Ý thức tự giác, thói quen xây dựng đề theo quy trình đã được hình thành, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy-học bộ môn Ngữ văn nói riêng và các môn khác nói chung. Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học 2021-2022, việc kiểm tra đánh giá của giáo viên đối với học sinh cũng đã thay đổi, giáo viên coi đánh giá như một quá trình học, cho phép học sinh nói ra những suy nghĩ và tự đánh giá sự tiến bộ của bản thân theo mục tiêu học tập cá nhân. Khi đó, học sinh không chỉ là người bị đánh giá mà còn là người tham gia đánh giá, giáo viên giúp học sinh tự phản hồi để biết mình mắc lỗi, thiếu hoặc yếu ở điểm nào để điều chỉnh hoạt động của mình. Hơn nữa, học sinh được tạo cơ hội để các em được giải quyết vấn đề trong tình huống bối cảnh mang tính thực tiễn bằng cách vận dụng những kiến thức kĩ năng đã học, vừa phải dùng những kinh nghiệm bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài thực tế. Thông qua đó, nhiều năng lực của học sinh được chú ý phát triển. 2, Đề xuất:
- 17/15 - Trong các đề bài kiểm tra đối với học sinh của giáo viên không nên thiên về ghi nhớ máy móc. Giáo viên nên có câu hỏi mở , đáp án lại mở để việc đánh giá học sinh nhẹ nhàng hơn. Vì vậy mỗi giáo viên cần có cách dạy và kiểm tra phù hợp để phát huy năng lực của học sinh theo đúng tinh thần của cuộc cải cách. - Hằng năm, nhà trường, Phòng GD&ĐT lựa chọn những sáng kiến kinh nghiệm hay đề tài khoa học có chất lượng để triển khai cụ thể, vừa đem lại giá trị hiệu dụng vừa phát huy những kinh nghiệm hoặc kết quả học tập mà giáo viên đã tâm huyết đã miệt mài tìm tòi xây dựng để tạo điều kiện đồng nghiệp học tập lẫn nhau, góp ý cho nhau. Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ bé của riêng tôi xin được chia sẻ cùng các đồng nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học văn. Do trình độ và kinh nghiệm còn có hạn vì vậy tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế .Tôi rất trân trọng những ý kiến đóng góp của các đồng chí để tôi có thể củng cố, bồi dưỡng, trau dồi kiến thức chuyên môn của mình.
- PHỤ LỤC KẾ HOẠCH DẠY HỌC BỐ CỦA XI-MÔNG 1. Mục tiêu cần đạt - Học sinh hiểu được nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng của ba nhân vật trong văn bản, qua đó hiểu được hoàn cảnh và vẻ đẹp của mỗi nhân vật. Kĩ năng: - Tóm tắt được tác phẩm. - Đọc diễn cảm. - Nêu suy nghĩ về nhân vật văn học. - Làm việc nhóm, tham gia các hoạt động trong bài học, nhất là thực hành, ứng dụng những vấn đề đã học để phát huy năng lực bản thân (năng lực giải quyết vấn đề, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực sang tạo, năng lực hợp tác. Tình cảm: - Biết yêu thương con người, nhất là những người không may bị lầm lỡ, bị thiệt thòi, bất hạnh. - Giáo dục kĩ năng sống tích hợp với lối sống nhân ái, vị tha, văn minh, thanh lịch. Tiến trình dạy học: 1. Mô tả phương pháp thực hiện chuỗi các hoạt động học trong bài học và kĩ thuật dạy học thực hiện trong các hoạt động. Tên hoạt động Phương pháp thực hiện Kĩ thuật dạy học HOẠT ĐỘNG Đàm thoại, nêu và giải quyết vấn - Kĩ thuật đặt câu hỏi 1: MỞ ĐẦU đề. KHỞI ĐỘNG HOẠT ĐỘNG * HĐ1: Giới thiệu chung. 2: HÌNH + Tác giả Mô pa xăng: - Kĩ thuật đặt câu hỏi THÀNH KIẾN - PP: Dự án. THỨC MỚI + Văn bản: - Kĩ thuật đặt câu hỏi, - PP: Đàm thoại, dạy học nhóm, chia nhóm. nêu và giải quyết vấn đề. * HĐ 2: Tìm hiểu văn bản. - Kĩ thuật khăn phủ bàn, - Đàm thoại, thảo luận nhóm chia nhóm, kĩ thuật đặt
- (nhóm lớn, cặp đôi), nêu và giải câu hỏi. quyết vấn đề. HOẠT ĐỘNG - Dạy học nêu vấn đề và giải - Kĩ thuật đặt câu hỏi 3: LUYỆN TẬP quyết vấn đề. HOẠT ĐỘNG - Đàm thoại, dạy học nêu vấn đề - Kĩ thuật đặt câu hỏi 4: VẬN DỤNG và giải quyết vấn đề. HOẠT ĐỘNG - Dạy học nêu vấn đề và giải - Kĩ thuật đặt câu hỏi 5: TÌM TÒI, MỞ quyết vấn đề RỘNG, SÁNG TẠO 2. Tổ chức các hoạt động: Hình Hoạt động Hoạt động của thành và của học Nội dung cần đạt giáo viên phát triển sinh năng lực A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG Trong chương - MMột số Trình bày được những tác Năng lực trình Ngữ văn học sinh trả phẩm đã học: Buổi học cuối giao tiếp THCS, ta đã học lời. cùng (Đô-Đê), Đi bộ ngao du Tiếng những tác phẩm - HHọc sinh (Ruxô), Ông Giuốc-đanh mặc Việt. nào của văn học nhận xét, lễ phục (Mô-li-e). nước Pháp? bổ sung. B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI Giáo viên vào bài mới: Bố của Xi-mông cũng là một tác phẩm hay của Mô-pa-xăng. Câu chuyện của nhà văn từ thế kỉ XIX nhưng sang thế kỉ XXI vẫn rất mới. - Học sinh
- Hình Hoạt động Hoạt động của thành và của học Nội dung cần đạt giáo viên phát triển sinh năng lực - Qua phần chuẩn trình bày. bị trước, em hãy - Học sinh cho biết vài nét khác nhậnI. Đọc – tìm hiểu văn bản Năng lực chính về tác giả xét bổ sung. Tác giả giao tiếp Mô-pa-xăng? Là nhà văn tiêu biểu của Học sinh trả Pháp ở thế kỉ 19 Em hãy tóm tắt lời toàn bộ tác phẩm Tác phẩm của ông phản ánh Năng lực Học sinh hiện thực xã hội Pháp hợp tác quan phần đọc khác nhận hiểu ở nhà? Tác phẩm – đoạn trích xét. Nếu đoạn trích + Tóm tắt tác phẩm chia làm 4 phần + Đoạn trích theo hướng dẫn của sách giáo Bố cục: 4 phần Năng lực khoa thì em sẽ Nhân vật: bé Xi-mông, chị giao tiếp chia như thế nào? Blăng-sốt, bác Phi-líp. Tiếng Việt và năng + Chú thích từ khó: SGK lực sang Đoạn trích có bao tạo. nhiêu nhân vật? Đó là những nhân vật nào? Học sinh Cho học sinh đọc II. Đọc - hiểu văn bản đọc đoạn 1 phần 1 trong đoạn 1. Nhân vật Xi-mông trích. Qua phần Là một chú bé đang trong nỗi tóm tắt tác phẩm Một vài học tuyệt vọng. và đoạn vừa đọc, sinh phân Năng lực em thấy bé Xi- tích – nhận Ngày đầu tiên đến trường, em tư duy mông gặp nỗi bất xét bị bạn bè chế giễu, đánh đập thẩm mĩ. hạnh gì? tơi tả, lăn lóc dưới đất vì không có bố. Em có nhớ trong
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới phương pháp quản lý hồ sơ sổ sách trong trường THCS
16 p | 326 | 22
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh
12 p | 187 | 18
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số thủ thuật dạy từ vựng môn tiếng Anh cấp THCS
12 p | 27 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Các biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Anh 6
24 p | 42 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới phương pháp giảng dạy và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong dạy học Sinh học bằng phương pháp hoạt động nhóm
14 p | 18 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới công tác quản lí và sử dụng cơ sở vật chất - thiết bị dạy học ở trường THCS
28 p | 29 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Khai thác phần mềm Geometer’s Sketchpad trong giảng dạy Hình học THCS
42 p | 89 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Ban chỉ huy Đội tại trường THCS Nguyễn Khuyến
29 p | 65 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng giáo án điện tử để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí ở trường THCS
13 p | 15 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp rèn kỹ năng viết CTHH của chất vô cơ trong chương trình Hoá học lớp 8 THCS
45 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới phương pháp dạy học trong phân môn vẽ tranh
24 p | 19 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới phương pháp dạy học trong phân môn Âm nhạc thường thức
25 p | 13 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS - Một số kinh nghiệm trong việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo – sân khấu hóa trong bộ môn Ngữ văn 7 tại trường THCS Lê Đình Chinh
21 p | 66 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn giáo viên Ngữ văn đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh ở trường THCS Lương Thế Vinh
25 p | 25 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới giờ sinh hoạt lớp nhằm giáo dục đạo đức và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh
9 p | 37 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh kĩ năng khai thác kiến thức từ bản đồ trong dạy học Địa lí THCS theo hướng phát triển năng lực
19 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường THCS Bình Khê
29 p | 49 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Lịch Sử ở trường THCS huyện Nho Quan
26 p | 38 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn