intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp khuyến khích học sinh tham gia hiệu quả một số chương trình được phát động trong nhà trường nhằm phát triển phẩm chất năng lực người học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:63

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Giải pháp khuyến khích học sinh tham gia hiệu quả một số chương trình được phát động trong nhà trường nhằm phát triển phẩm chất năng lực người học" được hoàn thành với mục tiêu nhằm xác định cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của hoạt động tham gia các CT ở HS trong nhà trường hiện nay. Xác định được vai trò và tầm quan trọng của việc khuyến khích HS tham gia đạt hiệu quả cao các CT được phát động trong nhà trường đối với việc phát triển phẩm chất năng lực người học. Từ đó, xây dựng các biện pháp và cách thức thực hiện hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp khuyến khích học sinh tham gia hiệu quả một số chương trình được phát động trong nhà trường nhằm phát triển phẩm chất năng lực người học

  1. PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, vấn đề đổi mới giáo dục đã trở thành nhu cầu cấp thiết toàn cầu đối với mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đáp ứng tinh thần của Nghị quyết 29/NQ- TW; Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình sách giáo khoa GDPT, Chương trình 2018 nêu rõ: “Mục tiêu của GDPT là giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”. Muốn thực hiện được mục tiêu giáo dục toàn diện cho HS như đã nói, ngoài việc giảng dạy theo chương trình quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mỗi Nhà trường cần phải khuyến khích các em tham gia nhiều hoạt động giáo dục khác. Một trong số đó là việc vận động, khuyến khích các em hưởng ứng có hiệu quả các cuộc thi/ hội thi (tuy có những sắc thái nghĩa khác nhau nhưng trong sáng kiến xin được gọi chung là các cuộc thi-CT) do cấp trên tổ chức. Bởi hầu hết các CT được tạo ra để nhằm đánh giá, kiểm tra kiến thức, nhận thức của HS, từ đó tạo những sân chơi giúp các em không ngừng hoàn thiện cả về đức, trí, thể, mỹ... Thông qua các CT này, nhiều HS có những khả năng đặc biệt đã được phát hiện, bồi dưỡng kịp thời mà nếu chỉ trong khuôn khổ giờ học trên lớp, các em chưa có đủ cơ hội để bộc lộ và phát triển được hết các năng khiếu cá nhân. Nhờ các hoạt động đa dạng và sinh động, các em sẽ được thử sức ở những môi trường khác nhau để rèn luyện bản thân, bồi dưỡng năng lực tổng hợp, áp dụng vào giải quyết những vấn đề của đời sống thực tiễn. Muốn thu hút được đông đảo HS tham gia có hiệu quả các CT thường niên được cấp trên tổ chức, trách nhiệm chủ yếu thuộc về BGH, tập thể GV trong nhà trường. Bởi, có thể nói các thầy cô là người “thổi hồn”, “truyền lửa” nhiệt tình thực thụ cho các em. Họ người quyết định phần lớn sự phát triển và tiến bộ của HS trong lớp mình phụ trách, ở trường mình công tác, bên cạnh sự giáo dục của gia đình và sự tác động của xã hội. Thế nhưng thực tế, hiện nay ở nhiều thầy cô giáo còn tồn tại những tư tưởng phiến diện, đi ngược lại với mục tiêu giáo dục của chương trình mới. Một bộ phận không nhỏ thầy cô còn bàng quan với các phong trào được phát động trong nhà trường, khi được giao nhiệm vụ sẽ tìm cách thoái thác, né tránh trách nhiệm vận động, hướng dẫn, dìu dắt HS tham gia các CT có liên quan đến lĩnh vực mình giảng dạy vì cho rằng đây là một nhiệm vụ “vô bổ”, “thiếu thiết thực”. GV rất ngại tìm tòi và cũng không mấy mặn mà vì tư tưởng “đó là trách nhiệm của Đoàn trường, của GVCN” hoặc “chỉ có những GV có nhu cầu đạt thành tích mới thực hiện”. Đặc biệt, cũng còn không ít GV xem nhẹ việc giá trị, ý nghĩa của việc phát động các phong trào thi đua, các CT trong nhà trường, cộng với việc một số GVCN cũng rất ít phổ biến hoặc phổ biến chưa kịp thời, thậm chí còn tồn tại tình trạng “cấm” HS tham gia chỉ vì sợ ảnh hưởng đến kết quả học tập (nhất là những lớp chọn thuộc top đầu của trường). Tình trạng này kéo dài, lâu dần sẽ thui chột khả năng chủ động giải quyết vấn đề và tính 1
  2. sáng tạo ở HS, dù bản thân các em rất có năng lực, sở trường. Các em chỉ biết học kiến thức trong sách vở mà gần như không hình thành được kĩ năng nào cho bản thân. Điều này vô hình trung đã đi ngược lại với mục tiêu của chương trình GDPT 2018 và “đánh rơi” vai trò to lớn của các CT trong việc giáo dục đào tạo HS thành những con người toàn diện về đức-trí-thể-mĩ. Với tư cách là những GV giảng dạy các bộ môn có nhiều tiết trong tuần (Ngữ văn, Toán học), đồng thời còn là một trong số thành viên ở vị trí lãnh đạo Nhà trường, vì vậy chúng tôi có điều kiện hơn, có nhiều thời gian hơn trong việc tiếp xúc, gần gũi với HS, chúng tôi ý thức được vai trò to lớn của bản thân mình trong việc phổ biến, tuyên truyền, động viên HS ở các lớp tham gia các CT được phát động trong nhà trường với mục đích cao nhất là phát triển PC-NL toàn diện ở các em. Chúng tôi đã tìm tòi xây dựng và thể nghiệm thành công các biện pháp hữu hiệu giúp GV có thể khuyến khích HS thực hiện đạt hiệu quả cao ở những CT do cấp trên phát động. Kết quả mang lại rất khả quan, có nhiều CT HS tham gia đạt chất lượng rất cao với các giải Nhất, Nhì, Ba. Chúng tôi nhân thấy, khi được động viên, hướng dẫn, HS “nhập cuộc” rất tích cực và hào hứng. Qua mỗi CT, các em trưởng thành hơn, trau dồi được cho mình nhiều phẩm chất tốt đẹp, thành thạo nhiều kĩ năng hơn. Chính vì vậy, trong sáng kiến này, chúng tôi xin trình bày lại một cách hệ thống những cách làm đó qua đề tài “Giải pháp khuyến khích HS tham gia hiệu quả một số CT được phát động trong nhà trường nhằm phát triển phẩm chất- năng lực người học”. Với mong muốn góp phần nhỏ đa dạng thêm các biện pháp giúp GV nâng cao ý thức về trách nhiệm của cá nhân trong việc hỗ trợ HS tham gia các CT đạt hiệu quả cao. Đó cũng là cách góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ của Nhà trường- nhiệm vụ không của riêng ai. Bởi sự nghiệp giáo dục cần đến sự chung tay của tất cả mọi người. Với phương châm và mục đích cao nhất là lấy HS làm trung tâm với sự phát triển tối đa của PC-NL ở các em. Trong thời lượng cho phép và từ kinh nghiệm thực tiễn áp dụng có hiệu quả đã thực hiện ở trường THPT, chúng tôi xin giới hạn các CT được nhắc đến trong đề tài bao gồm các CT cấp Trường được phát động nhân các ngày lễ lớn như ngày Quốc tế Phụ nữ 08/03; Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11; và một số CT các cấp Tỉnh, Quốc gia như An toàn giao thông cho nụ cười ngày mai, CT Khoa học kĩ thuật, CT Văn hóa đọc, CT Tuổi trẻ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh…cùng một số CT khác được phát động theo từng năm học. 2. Mục đích nghiên cứu - Xác định cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của hoạt động tham gia các CT ở HS trong nhà trường hiện nay. - Xác định được vai trò và tầm quan trọng của việc khuyến khích HS tham gia đạt hiệu quả cao các CT được phát động trong nhà trường đối với việc phát triển phẩm chất năng lực người học. Từ đó, xây dựng các biện pháp và cách thức thực hiện hiệu quả. - Hệ thống hóa kết quả sau khi đã thực hiện áp dụng đề tài nghiên cứu 2
  3. 3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Tập trung vào 03 nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận; khảo sát, đánh giá thực trạng; đề xuất các giải pháp 3.2.Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Nghiên cứu cách triển khai các biện pháp mà GV có thể thực hiện được nhằm khuyến khích, vận động HS tham gia có hiệu quả các CT được phát động ở trong nhà trường với mục tiêu phát triển phẩm chất năng lực người học. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo toàn diện - Về thời gian nghiên cứu: Trong 02 năm học 2022-2023 và 2023-2024. - Địa bàn nghiên cứu là 02 trường trên địa bàn TX Hoàng Mai (THPT Hoàng Mai và THPT Hoàng Mai 2). Địa bàn thực nghiệm các biện pháp của đề tài là trường THPT Hoàng Mai - nơi chúng tôi đang công tác. 4. Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi đã lựa chọn một số phương pháp: 4.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận Thu thập và đọc các tài liệu lý luận, các văn bản pháp quy, các công trình khoa học về vấn đề đang nghiên cứu. Từ đó phân tích và tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan đến sáng kiến. 4.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát - Phương pháp đàm thoại - Phương pháp điều tra (Phiếu hỏi) - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm - Phương pháp tổng kết, đánh giá. 4.3. Nhóm các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ - Thống kê toán học - Bảng biểu. 5. Giả thuyết khoa học Nếu đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi trong việc khuyến khích HS tham gia các CT được phát động trong nhà trường như đã được đề xuất trong sáng kiến, GV có thể góp sức mình vào việc nâng cao chất lượng các CT được các cấp phát động trong năm học. Quan trọng hơn, từ đó hình thành và phát triển những phẩm chất - năng lực cần thiết của HS trong thời đại mới, đáp ứng yêu cầu của chương trình GDPT 2018. 6. Đóng góp mới của đề tài - Về mặt lí luận: Làm rõ hơn các nội dung liên quan đến vai trò của các Cuộc thi được phát động trong nhà trường hàng năm, về vai trò của các cuộc thi đối với việc phát triển PC-NL HS THPT - Về mặt thực tiễn Đề tài phân tích và chứng minh việc GV thực hiện tốt biện pháp khuyến khích HS tham gia các CT được phát động trong Nhà trường có hiệu quả sẽ góp phần phát 3
  4. triển PC-NL HS, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của Nhà trường. Những giải pháp đưa ra trong đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng sáng tạo văn bản chỉ đạo của cấp trên phù hợp với tình hình thực tiễn của nhà trường và địa phương, phù hợp với tâm sinh lí HS THPT nên đã đem lại kết quả đáng kể góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT trong thời gian qua tại trường THPT Hoàng Mai Các giải pháp đề xuất có tính mới mẻ, sáng tạo, không trùng lặp với bất cứ hướng đi trong đề tài, công trình nghiên cứu nào trước đó. 7. Cấu trúc của sáng kiến Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của sáng kiến được triển khai trong Phần II: Nội dung nghiên cứu bao gồm: 1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 2. Một số giải pháp giáo viên khuyến khích học sinh tham gia đạt hiệu quả cao các cuộc thi được phát động trong nhà trường nhằm phát triển phẩm-năng lực của chất người học 3. Kết quả sau khi thực nghiệm các giải pháp của đề tài 4. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất 4
  5. Phần II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở khoa học vấn đề nghiên cứu 1.1.Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Một số giới thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu 1.1.1.1. So sánh kì thi, cuộc thi, hội thi Sau khi đã tham khảo một số nghị quyết, quy định, công văn có tính pháp lí cao quy định về việc tổ chức các kỳ thi, cuộc thi, hội thi. Tiêu biểu là Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2021 của Chính phủ; Thông tư số 27/2021/TT- BGDĐT ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Bộ GD-ĐT của Chính phủ về Hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2021 về Quy định chi tiêu cho hoạt động tổ chức các kỳ thi, cuộc thi, hội thi trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chúng tôi mạnh dạn thực hiện tổng kết lại những điểm chung và điểm riêng giữa kì thi- cuộc thi- hội thi như sau: Đặc điểm Cuộc thi Hội thi Kỳ thi * Điểm chung: - Đều là những sự kiện đánh giá kiến thức, kỹ năng của thí sinh trong một lĩnh vực nào đó. - Mục đích: + Phát hiện và bồi dưỡng tài năng học đường, hướng tới phát triển PC-NL người học + Góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT + Kích thích tinh thần học tập, rèn luyện của thí sinh. - Có thể tổ chức ở nhiều cấp độ: Quốc gia; tỉnh; địa phương; trường học, … - Có thể có nhiều hình thức thi: Thi trắc nghiệm, thi viết, thi thực hành, trực tiếp, trực tuyến… * Điểm riêng: Tìm kiếm người Khuyến khích sự Đánh giá kiến Mục giỏi nhất trong tham gia và giao thức, kỹ năng của đích một lĩnh vực nào lưu giữa các thí HS theo chương chính đó. sinh. trình học. Tính Mang tính cạnh Mang tính giao Mang tính nghiêm chất tranh cao. lưu, học hỏi. túc, chính thức. Đối Có thể dành cho Thường dành cho HS theo quy định tượng tất cả mọi người, các thí sinh có của hệ thống giáo tham không phân biệt năng khiếu, đã qua dục. gia độ tuổi, trình độ. 5
  6. quá trình đào tạo bài bản. Có thể được tổ Hình Thường được tổ chức thường Được tổ chức theo thức tổ chức định kỳ, quy xuyên hoặc không quy định của hệ chức mô lớn. thường xuyên, quy thống giáo dục. mô nhỏ hơn. Cuộc thi KHKT Hội thi Tiếng Anh Kỳ thi khảo sát dành cho HS; cho HS; Hội thi vẽ chất lượng; kì thi Ví dụ cuộc thi ATGT tranh; Hội diễn HS giỏi; kì thi tốt cho nụ cười ngày văn nghệ… nghiệp THPT… mai… Lưu ý đây chỉ là những phân biệt cơ bản giữa cuộc thi, hội thi, kỳ thi. Trên thực tế, có thể có những trường hợp cụ thể khó phân biệt rạch ròi giữa các hình thức này. Đặc biệt cách hiểu “cuộc thi” và “hội thi” nhiều khi không hoàn toàn rõ ràng, có thể có sự chồng chéo. Còn “kỳ thi” là thuật ngữ thường được sử dụng trong lĩnh vực giáo dục, để chỉ các bài thi đánh giá kiến thức, kỹ năng của HS theo chương trình học, nhấn mạnh vào tính nghiêm túc, chính thức, đánh giá kiến thức theo chương trình học. Nhận thức được điều này, trong SK của mình, chúng tôi xin được giới hạn phạm vi của vấn đề là chủ yếu là trình bày các giải pháp giúp GV khuyến khích HS tham gia các cuộc thi, hội thi được phát động thường niên trong nhà trường. 1.1.1.2. Phân loại các cuộc thi được phát động cho học sinh THPT trong nhà trường Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các CT được phát động trong trường THPT dành cho HS, theo cá nhân tôi, có thể phân loại các CT theo những tiêu chí cụ thể ở bảng sau: TT Tiêu chí Ví dụ phân loại 1 (1) Theo Khoa học: lĩnh vực Khoa học tự nhiên: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Tin học,... Khoa học xã hội: Sử, Địa, Giáo dục công dân, Kinh tế,... Văn hóa - Nghệ thuật: Văn nghệ, Mỹ thuật, Thể dục thể thao,... Kỹ năng: hùng biện, tranh biện, thuyết trình,... Lập trình, thiết kế đồ họa,... 6
  7. (2) Theo Cấp trường: Do nhà trường tổ chức, dành cho HS trong trường. cấp độ Cấp quận/huyện: Do Phòng GD-ĐT tạo tổ chức, dành cho HS trong quận/huyện. Cấp tỉnh/thành phố: Do Sở GD-ĐT tổ chức, dành cho HS trong tỉnh/thành phố. Cấp quốc gia: Do Bộ GD-ĐT tổ chức, dành cho HS cả nước. Cấp quốc tế: Do các tổ chức quốc tế tổ chức, dành cho HS các quốc gia trên thế giới. 3 (3) Theo Kiểm tra kiến thức: mục đích Kỳ thi HS giỏi, kỳ thi chọn HS giỏi quốc gia,... Kỳ thi tốt nghiệp THPT. Phát triển kỹ năng: CT hùng biện, tranh biện, thuyết trình,... CT kỹ năng sống, khởi nghiệp,... Giải trí, thư giãn: CT văn nghệ, thể thao,... CT ảnh, video,... Trong các tiêu chí phân loại trên, ở trong SK này, tôi lựa chọn trình bày biện pháp giúp GV hướng dẫn HS tham gia một số CT theo tiêu chí (2): do các cấp tổ chức. Cụ thể là các CT cấp Trường (Do Nhà trường, Đoàn trường tổ chức, dành cho HS trong trường; Cấp Tỉnh: Do Sở GD-ĐT tổ chức, dành cho HS trong tỉnh Nghệ An; cấp Quốc gia (Do Bộ GD-ĐT tổ chức, dành cho HS cả nước.). 1.1.2. Một số căn cứ thực hiện đề tài Căn cứ để HS tham gia các CT đươc quy định rất cụ thể tại nhiều công văn, quyết định có tính chất pháp lí cao. Trước hết, các CT của HS ở cấp Quốc gia được quy định tại công văn số 5814/BGDĐT-GDTrH về việc tổ chức các CT dành cho HS phổ thông từ năm học 2017-2018 nhằm thống nhất công tác chỉ đạo, quản lý và đánh giá của Bộ GD-ĐT về các CT này. Trong đó nêu rõ danh sách các CT do Bộ GD-ĐT tổ chức hoặc phối hợp tổ chức. Công văn nêu rõ các nội dung cụ thể về danh mục các CT được phép tổ chức cho HS phổ thông; trách nhiệm của các đơn vị trong việc tổ chức các CT; quy trình tổ chức; kinh phí tổ chức... Theo đó, từ năm 2017 trở đi, sẽ có 10 CT do Bộ GD-ĐT chủ trì và phối hợp tổ chức. Trong đó, những kỳ thi kiến thức bao gồm kỳ thi THPT quốc gia, kỳ thi chọn HS giỏi quốc gia, kỳ thi chọn đội tuyển Olympic quốc tế, CT khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho HS THCS và THPT; Các kỳ thi thể thao, giáo dục đạo đức, tư tưởng bao gồm Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc (gồm các môn thể thao được dạy trong trường học, tổ chức 4 năm/lần), CT Tuổi trẻ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, CT Giao thông học đường do Ủy ban An toàn giao thông quốc gia chủ trì, CT An toàn giao thông cho nụ cười ngày mai do Cục 7
  8. cảnh sát giao thông (Bộ Công an), Ủy ban An toàn giao thông quốc gia chủ trì, CT Viết thư quốc tế UPU do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì. Trên tinh thần hướng dẫn chỉ đạo của Bộ GD- ĐT, hàng năm, tỉnh Nghệ An cũng thường xuyên xây dựng kể hoạch, ban hành các công văn quy định về việc tổ chức các CT trong khuôn khổ cho phép dành cho đông đảo HS THPT tham gia. Công văn phát động các CT của tỉnh Nghệ An có thể thay đổi ít nhiều theo từng năm học dựa vào đặc điểm điều kiện cho phép, nhưng trên hết đều dựa theo quy định và sự hướng dẫn của Bộ GD-ĐT, chú trọng chất lượng tham gia các CT của HS THPT, tránh sa vào hình thức, thiếu tác dụng thực tiễn và làm giảm đi ý nghĩa vốn có của nó. Ví dụ, trong năm 2023-2024, Sở GD-ĐT Nghệ An có công văn số 456/SGDĐT- THPT ngày 15/09/2023 về việc tổ chức CT Khoa học kỹ thuật dành cho HS trung học phổ thông cấp tỉnh năm học 2023-2024. Công văn số 525 /SGD&ĐT-CTTT-GDTX, V/v hưởng ứng CT bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ Tư năm 2024 Kế hoạch số 180/KH-UBND ngày 22/3/2023 của UBND tỉnh Nghệ An về việc tổ chức CT Đại sứ Văn hóa đọc tỉnh Nghệ An lần thứ 5, năm 2023 Về phía nhà trường, nhìn chung, các trường THPT nói chung, và trường THPT Hoàng Mai nói riêng đều coi việc tổ chức các CT không chỉ là một hoạt động ngoại khóa bình thường mà còn là một phần không thể thiếu trong quá trình giáo dục và phát triển của HS trong suốt năm học. Từ những CT văn nghệ chào mừng các ngày lễ truyền thống trong năm, các sự kiện lớn của Nhà trường đến các CT hưởng ứng, cụ thể hóa các CT cấp Tỉnh, cấp Quốc gia được tổ chức trong nhà trường đều được LĐ, BGH, ĐTN trong nhà trường quan tâm, phát động trong HS một cách nghiêm túc, cụ thể hóa bằng văn bản hành chính. Ví dụ: Năm học 2023-2024, trường THPT Hoàng Mai cũng có những CT, hội thi được phát động như CT KHKT cấp trường, thi diễn văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, một số CT tìm hiểu và thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc, những cuộc thi tri ân, thể hiện lòng biết ơn với bố mẹ, thầy cô, mái trường… Nhìn chung, những CT đã thực sự mang đến không khí sôi nổi, những giá trị không thể đo lường được đối với sự phát triển PC-NL cá nhân HS. Tham gia các CT, HS không chỉ có cơ hội để thể hiện bản thân mình mà còn rèn luyện những kỹ năng quan trọng như tự tin, sự kiên nhẫn, khả năng làm việc nhóm và tinh thần cạnh tranh. Thêm vào đó, việc tranh tài trong các CT còn khuyến khích HS tiếp cận kiến thức mới, khám phá tài năng bản thân và phát triển nhiều PC-NL cần có của HS thời đại mới. (Công văn các CT xin xem thêm ở link: Công văn cuộc thi - Google Drive) 1.1.3. Khái lược lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong những năm gần đây, việc khuyến khích HS tham gia các CT trong nhà trường nhằm phát triển phẩm chất và năng lực cá nhân đã trở thành một đề tài nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực giáo dục. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của các CT đối với sự phát triển toàn diện của người học, đào tạo con người “vừa hồng vừa 8
  9. chuyên” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng tha thiết căn dặn. Theo đuổi vấn đề này, tôi nhận thấy có không ít những tài liệu là các bài báo, nghiên cứu khoa học và một vài sáng kiến có liên quan ít nhiều đến nội dung nghiên cứu; các chuyên đề, tham luận…hướng tới mục đích chung là đổi mới và nâng cao năng lực người học thông qua việc học tập, thi cử. Liên quan đến đề tài, chúng tôi có tìm hiểu được một số tài liệu tiêu biểu như: Tác động của các cuộc thi học thuật đến thành tích học tập của HS (https://tutinvaodoi.vn/loi-the-xin-viec-neu-hoc-sinh-doat- giai-cac-cuoc-thi/), Những lợi ích khi tham gia các cuộc thi ở HS (wellspring.edu.vn), Các cuộc thi nghiên cứu khoa học: sân chơi bổ ích không nên bỏ qua (Glints Vietnam Blog), Thực chất của các phong trào, cuộc thi trong nhà trường là gì? (https://thanhnien.ntu.edu.vn/Giao-duc-tu-tuong/Lich-su-Truyen-thong) … Các cuốn sách và công trình nghiên cứu khác của một số nhà khoa học cũng có nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó, tôi đặc biệt tâm đắc với nghiên cứu của Carol Dweck- nhà tâm lý học xã hội nổi tiếng về tâm lý học phát triển với đóng góp lớn khi nói đến “tinh thần thành công”- đã đưa ra nhận thức sâu sắc về vai trò của sự khích lệ và phản hồi tích cực đối với việc phát triển lòng kiên nhẫn và năng lực của HS; cuốn sách “Grit: The Power of Passion and Perseverance” (Grit: Sức mạnh của Niềm đam mê và Kiên trì) của Angela Duckworth, nhà tâm lý học nổi tiếng, đã giới thiệu khái niệm “năng lực cốt lõi” để cấu thành nên sự khả năng của mỗi người. Theo đó, tác giả này đã trình bày các phương pháp thực tiễn để phát triển năng lực này bằng cách tạo ra môi trường học tập kích thích và hỗ trợ cho HS tham gia các hoạt động CT. Và còn không ít những tài liệu giá trị khác. Sau khi tham khảo các tài liệu này, chúng tôi nhận thấy, những công trình này tập trung chủ yếu vào 02 khía cạnh: Một là các nghiên cứu thường tập trung vào việc đánh giá tác động, vai trò, giá trị của việc tham gia các CT đối với kết quả học tập và sự phát triển cá nhân của HS. Khía cạnh này hướng các đề tài đến việc chú trọng việc đo lường hiệu quả của các CT thông qua các chỉ số như điểm số, tự tin, khả năng giải quyết vấn đề và kỹ năng giao tiếp. Hoặc đi sâu vào khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia và hiệu quả của các CT, trong đó nhắc nhiều đến giá trị của sự khích lệ động viên từ các nhân tố bên ngoài. Quả thực, các nhà nghiên cứu này đã quan tâm đến vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong việc động viên HS tham gia các CT. Tuy nhiên, những hướng đi trước đó có liên quan đến vấn đề lại chưa thực sự tập trung cao vào việc đề xuất các giải pháp cụ thể và hệ thống, thiết thực và phù hợp với đối tượng HS THPT để khuyến khích các em tham gia các CT, nhất là các CT được phát động trong nhà trường để đạt được hiệu quả cao, hướng vào mục tiêu hình thành và phát triển PC-NL cho người học. Nhận thức được điều đó, trên cơ sở kế thừa và tiếp tục phát triển sáng tạo các thành tựu trước đó, ở sáng kiến của mình, chúng tôi khai thác sâu theo hướng đi này. Từ những nghiên cứu về mặt lí luận của vấn đề, chúng tôi ít nhiều đã có những kinh nghiệm hữu ích để làm điểm tựa khi thực hiện đề tài của mình. Trong sáng kiến, 9
  10. chúng tôi mạnh dạn xây dựng các biện pháp cụ thể và chi tiết để tác động vào đối tượng là các GV và HS THPT trong nhà trường để tìm được chìa khóa mở ra cánh cửa tiềm năng về đam mê nghiên cứu, đam mê sáng tạo của HS qua các CT. Với mong mỏi, tất cả vì sự phát triển toàn diện của người học, đáp ứng mục tiêu chương trình GDPT 2018. 1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Thực tiễn vai trò của ban giám hiệu và giáo viên trong việc khuyến khích học sinh tham gia các cuộc thi được phát động trong nhà trường trên địa bàn Thị xã Hoàng Mai Để có cái nhìn khách quan và chính xác về thực tiễn này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 83 GV trong đó có 06 GV là lãnh đạo, 06 GV là cán bộ Đoàn Thanh niên và 71 giáo viên đang công tác tại 02 trường trên địa bàn TX, cụ thể: TT Trường Số lượng GV Chức vụ 1 THPT Hoàng Mai 50 (3 LĐ, 3 CBĐ, 44 GV) 2 THPT Hoàng Mai 2 33 (3 LĐ, 3 CBĐ, 27 GV) Tổng 83 Nội dung khảo sát: Đánh giá về vai trò của BGH, ĐTN và GV THPT về hoạt động khuyến khích HS tham gia các CT được phát động trong nhà trường Hình thức khảo sát: Qua phiếu khảo sát online, theo link: https://forms.gle/bTaFyzbxQE4WhFgA8 Cách thức tiến hành: + Thực hiện xây dựng phiếu khảo sát online (Phụ lục 1) + Liên hệ trực tiếp với BGH, cán bộ ĐTN và các thầy cô giáo ở 02 trường (riêng ở trường THPT Hoàng Mai 2, chúng tôi nhận được sự giới thiệu của BGH trường THPT Hoàng Mai), trao đổi về vấn đề khảo sát và đề nghị được xin ý kiến qua phiếu khảo sát online với tinh thần khách quan nhất + Thống kế, phân tích kết quả và đánh giá, kết luận Ở câu hỏi nhận thức về giá trị của các CT được phát động trong nhà trường có phù hợp với năng lực và sở thích của HS hay không, Chỉ có 27 (32,5%) trong tổng số 83 người được khảo sát chọn phương án A là phù hợp vì phát triển được nhiều PC- NL cho HS THPT. Trong khi đó, vẫn còn đến 56 (67,5%) thầy cô còn tồn tại tư tưởng rằng các CT ít phù hợp vì quá nhiều CT trong cùng một năm học hoặc không phù hợp vì mất thời gian, tiền bạc, công sức của HS rất nhiều. 10
  11. Với câu hỏi “Hiện nay có không ít đơn vị có số lượng HS tham gia các CT được phát động còn hạn chế. Theo thầy/cô, lý do chính khiến HS không/ít tham gia các CT là gì?”, các đáp án được thầy cô lựa chọn theo mức độ như sau: TT ĐÁP ÁN SỐ LƯỢNG LỰA % CHỌN 1 HS không có hứng thú với lĩnh 67 80,72 vực thi 2 HS cảm thấy khó khăn khi xây 69 83,13 dựng phương hướng và kế hoạch thực hiện 3 HS sợ bị ảnh hưởng đến học tập 80 96,39 4 HS không nhận được thầy cô giáo 65 78,31 khuyến khích, tạo điều kiện 5 Do áp lực từ gia đình không muốn 55 66,27 ảnh hưởng học tập của con/em Với câu hỏi “Thầy/cô nghĩ cá nhân mình có vai trò như thế nào đối với số lượng, chất lượng của HS khi tham gia các CT được phát động trong nhà trường?”. Kết quả trả về cho thấy 12 thầy cô giáo giữ chức vụ LĐ, CBĐ và 15 thầy cô chọn các phương án rất đa dạng trong việc phát huy vai trò của cá nhân với việc HS tham gia các CT của HS THPT. Thế nhưng, có đến hơn 49 thầy cô giáo chỉ lựa chọn phương án B là “Biết để tuyên truyền, khuyến khích cho HS tham gia CT” mà thôi. Còn lại, rất ít thầy cô (07 GV) lựa chọn các phương án khác như “Khơi gợi hứng thú, định hướng đề tài, phương hướng tổng thể”, “Tham gia hướng dẫn, bảo trợ, đồng hành cùng HS trong các CT”. Dựa vào kết quả thu thập được, chúng tôi đi đến những kết luận cơ bản sau: - Trong thực tiễn giáo dục ở các trường THPT trên địa bàn TX Hoàng Mai hiện nay, các thành viên BGH và hầu hết các GV đều nhận thức được tầm quan trọng của các cuộc thi đối với sự phát triển toàn diện của HS. Đồng thời cũng đã hình thành những nhận thức nhất định về vai trò quan trọng của bản thân mình trong việc khuyến khích HS tham gia các CT được phát động trong Nhà trường. Họ biết rằng các nhà quản lý 11
  12. và GV có ảnh hưởng lớn đến tinh thần và sự tham gia của HS thông qua các chiến lược, chính sách và hoạt động mà họ triển khai. - Tuy nhiên, chỉ có các BGH các trường là nhận thức đúng mức và có nhiều phương án khuyến khích, hỗ trợ, đồng hành cùng HS tham gia có hiệu quả các CT thông qua việc xây dựng chính sách và tạo điều kiện cho các em tham gia các CT. Ngược lại, có một bộ phận không nhỏ thầy, cô giáo chưa phát huy hết vai trò của mình trong việc nâng cao chất lượng các CT mà HS tham gia. Họ ít khi tham gia vào việc xây dựng các chiến lược và ít chịu tìm tòi về các CT này. Dẫn đến việc rất khó đồng hành cùng HS trong các CT, nhất là các CT lớn cấp Tỉnh, Quốc gia. 1.2.2. Thực trạng học sinh tham gia các cuộc thi được phát động trong nhà trường trên địa bàn Thị xã Hoàng Mai Tiếp tục nghiên cứu thực trạng, xây dựng cơ sở thực tiễn cho vấn đề nghiên cứu, chúng tôi tiếp tục tiến hành khảo sát trên 550 HS các trường THPT trên địa bàn TX Hoàng Mai (dưới sự hỗ trợ tối đa của các GV các trường có HS được khảo sát), cụ thể: TT Trường Số lượng HS 1 THPT Hoàng Mai 350 2 THPT Hoàng Mai 2 200 Tổng 550 Nội dung khảo sát: Đánh giá về vai trò của HS THPT về việc tham gia các CT được phát động trong nhà trường Hình thức khảo sát: Qua phiếu khảo sát online, theo link: https://forms.gle/T9QDez4r296xZ2SZ8 Cách thức tiến hành: + Thực hiện xây dựng phiếu khảo sát online (Phụ lục 2) + Liên hệ trực tiếp với các thầy cô giáo là đồng nghiệp ở các trường THPT phụ trách lớp có HS cần khảo sát. Nhờ các thầy cô gửi link khảo sát về các lớp với số lượng đã được đề xuất trước đó, đề nghị các em hợp tác trả lời các câu hỏi trên phiếu với tinh thần khách quan, trung thực và chi tiết nhất + Thống kế, phân tích kết quả và đánh giá, kết luận Ở câu hỏi “Trong 1 năm học, em thấy/nhớ/biết trong nhà trường phát động những CT nào (Mong nhận được câu trả lời chi tiết từ sự huy động trí nhớ hệ thống)”. Có đến hơn 400 HS viết câu trả lời rất sơ sài với các CT như thi Khoa học kĩ thuật; thi An toàn giao thông; thi HS giỏi, thi viết về thầy cô….Có một số HS không thực hiện trả lời câu hỏi này. Các câu trả lời thu được đều chủ yếu được viết rất sơ sài, đến tên các CT mà các em liệt kê được cũng viết chưa hoàn toàn chính xác. Với câu hỏi “Cá nhân em có hứng thú tham gia các CT được phát động trong nhà trường hay không?”, có đến hơn 80% (hơn 440 HS) đều lựa chọn phương án là Không hứng thú, 17% (94 HS) lựa chọn Khá hứng thú, còn lại 3% (16 HS) lựa chọn Rất hứng thú. Đây thực sự là một câu trả lời phản ánh đúng thực trạng tham gia các CT ở HS hiện nay. 12
  13. Khi đi sâu vào tìm hiểu lí do của tình trạng trên với câu hỏi “Hiện nay có không ít các bạn HS không tham gia các CT? Theo em, lí do là gì?”. Các HS đều lựa chọn những phương án như: HS không có hứng thú với lĩnh vực thi; HS cảm thấy khó khăn khi xây dựng phương hướng và kế hoạch thực hiện; HS sợ bị ảnh hưởng đến thời gian và kết quả học tập; HS không nhận được thầy cô giáo đồng hành, hướng dẫn, khuyến khích, tạo điều kiện; Do áp lực từ gia đình không muốn ảnh hưởng học tập của con/em. Đặc biệt trong số đó, chúng tôi nhận thấy phương án “Học sinh không nhận được nhiều từ thầy cô giáo sự đồng hành, hướng dẫn, khuyến khích, tạo điều kiện” được HS lựa chọn nhiều hơn cả (với gần 500 HS lựa chọn). Đáp án lựa chọn Số lượng lựa chọn A. HS không có hứng thú với lĩnh vực thi 254 B. HS cảm thấy khó khăn khi xây dựng phương hướng 372 và kế hoạch thực hiện C. HS sợ bị ảnh hưởng đến học tập 357 D. HS không nhận được thầy cô giáo đồng hành, hướng 432 dẫn, khuyến khích, tạo điều kiện E. Do áp lực từ gia đình không muốn ảnh hưởng học 129 tập của con/em Đây cũng là kết quả hoàn toàn tương thích với kết quả thu về từ câu hỏi “Em có gặp khó khăn gì khi tham gia các CT hay không?”. Trong số những đáp án mà HS lựa chọn, phương án được chọn nhiều nhất vẫn là “Khó khăn trong việc thiếu người định hướng, dẫn dắt” (90% HS lựa chọn). Dựa vào kết quả thu thập được khi tiến hành khảo sát thực trạng HS tham gia các CT được phát động trong nhà trường ở 02 đơn vị là trường THPT Hoàng Mai và trường THPT Hoàng Mai 2, chúng tôi đi đến những kết luận cụ thể: - Thực tế cho thấy, tại các trường trên địa bàn TX Hoàng Mai mặc dù nhà trường đã tổ chức và có một số chính sách thúc đẩy HS tham gia đầy đủ vào các CT phong trào, nhưng chưa thu hút được đông đảo HS hưởng ứng. Hệ lụy của vấn đề này có thể suy luận được là kết quả thu được từ các cuộc thi sẽ không đồng đều và cao như mong 13
  14. đợi. Dường như, việc tăng cường số lượng HS tham gia không đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động này. - Một trong những thách thức lớn nhất HS có thể đối mặt là thiếu sự hỗ trợ cần thiết về mặt kỹ năng giúp các em chuẩn bị và tham gia các CT một cách hiệu quả. Đồng thời, các em cũng thiếu đi GV có kiến thức, năng lực để định hướng, dẫn dắt và đồng hành. Chính khó khăn này cũng càng khiến các em ngày càng không mặn mà với các CT vì biết rằng nếu không có người định hướng, thẩm định có chuyên môn, chắc chắn sẽ không mang lại kết quả như mong đợi. Điều này dẫn đến việc các em gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các đối thủ có kỹ năng cao hơn. Sự thiếu hỗ trợ và động viên, khuyến khích cần thiết từ phía GV trở thành một trong những lực cản khiến số lượng, chất lượng các cuộc thi mà HS tham gia chưa nhiều. Những điểm tựa vững chắc và xuất phát từ thực tiễn đã giúp chúng tôi củng cố thêm tính đúng đắn trong hướng đi của mình và có thêm cơ sở để thực hiện các biện pháp được đề xuất trong đề tài. 2. Một số giải pháp giáo viên khuyến khích học sinh tham gia đạt hiệu quả cao các cuộc thi được phát động trong nhà trường nhằm phát triển phẩm chất- năng lực của người học. 2.1. Mỗi giáo viên cần thực sự tự nguyện mạnh dạn nhận trách nhiệm dẫn dắt, hướng dẫn, đồng hành cùng học sinh tham gia các cuộc thi được phát động trong nhà trường 2.1.1. Nâng cao nhận thức của bản thân về vai trò và vị trí của mỗi giáo viên trong trách nhiệm khuyến khích, hướng dẫn các học sinh tham gia các cuộc thi Đây có lẽ là vấn đề gặp rất nhiều khó khăn ở trường phổ thông hiện nay. Bởi như đã trình bày ở phần cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. Hiện nay, tình trạng có không ít GV, ngay cả GV đảm nhận nhiệm vụ CN cũng quan niệm rằng: chỉ cần HS chú tâm học tốt các môn văn hóa là được, đặc biệt là các môn học theo khối để thi tốt nghiệp, đại học, còn những hoạt động khác có tham gia hay không, không quan trọng. Với tâm lí định kiến rằng đó là những hoạt động tốn kém về thời gian, tiền bạc, công sức, có thể khiến các em sao nhãng đến việc học hành, nên khi HS có nhu cầu tham gia các hoạt động ngoại khóa, các CT khác được phát động trong nhà trường, các em lại không nhận được nhiều thái độ quan tâm, khuyến khích cổ vũ tán đồng từ thầy cô. Còn có những GV cũng không biết Nhà trường đang triển khai CT nào, phong trào nào ở lớp mình phụ trách. Và hệ lụy của vấn đề là vì không quan tâm nên các thầy cô cũng chưa bao giờ có ý định nghiên cứu công văn, quy chế, thể lệ các CT để định hướng, tư vấn, hỗ trợ cho học trò. Đây thực sự là một thực tế rất đáng buồn! Xuất phát từ điều này, chúng ta cần phải nhìn nhận lại sự cần thiết của các CT trong nhà trường đối với sự phát triển phẩm chất và năng lực toàn diện của HS. Muốn làm được điều đó, trước hết, chính tư duy của các thầy cô cũng phải có bước chuyển biến đột phá về vai trò, trách nhiệm của mình trong nhiệm vụ đồng hành cùng các em. Không coi các CT chỉ là trách nhiệm của Đoàn trường hay một số cá nhân GV nào, mà chính bản thân mình cũng cần phải “nhập cuộc”. 14
  15. Chúng ta thấy ở một số trường THPT, khi nhắc đến các CT, chỉ gắn liền với tên của một số GV hay tìm tòi nghiên cứu, lặp đi lặp lại qua nhiều năm mà không có cái tên nào mới trong công tác bồi dưỡng, hướng dẫn và bảo trợ HS. Một phần xuất phát từ lí do chính các thầy cô đưa ra rằng “mình không có năng lực”, hoặc “đã nhiều tuổi”. Nhưng liệu rằng, điều đó có đúng không khi có rất nhiều CT có liên quan đến chuyên môn của các thầy cô nhưng rất ít GV nhiệt tình tham gia hỗ trợ cho học trò?!. Câu trả lời đó xin được nhường lại cho các thầy cô cùng suy ngẫm Ở đây, tôi chỉ thực sự muốn thầy cô một lần nữa nhìn nhận và phát huy tối đa vai trò của mình trong việc khuyến khích HS tham gia các CT được phát động trong nhà trường. Chính các thầy cô sẽ là người truyền cảm hứng và tạo động lực cho các em để khơi dậy niềm đam mê và sự hứng thú của HS, giúp HS tin tưởng vào khả năng của các em và khích lệ các em tham gia thi cử với tinh thần học hỏi và rèn luyện bản thân. GV cũng chính là người có thể hướng dẫn và hỗ trợ các em ở những khâu nhất định như tư vấn lựa chọn các CT phù hợp sao cho với năng lực và sở thích, hỗ trợ tìm thêm tài liệu, hướng dẫn HS trong quá trình ôn tập và chuẩn bị cho các CT, rèn luyện cho HS các kỹ năng cần thiết để thành công, như kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng thuyết trình, và kỹ năng làm việc nhóm. Hơn ai hết, GV có khả năng đánh giá và phản hồi năng lực của HS và đưa ra những lời khuyên hữu ích để HS cải thiện, cung cấp cho HS những phản hồi tích cực và mang tính xây dựng để giúp HS học hỏi từ những sai lầm và phát triển bản thân. Tôi nghĩ rằng, đã là một nhà giáo, từ trong cốt tủy, mỗi chúng ta đã có sẵn ít nhiều những năng lực này. Điều quan trọng là các thầy cô còn thiếu đi sự nhiệt tình để biến năng lực của mình thành năng lực của HS mà thôi. Việc nâng cao nhận thức về vai trò của GV cần được thực hiện một cách thường xuyên và liên tục. Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, các sở ban ngành để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Trong đó, trách nhiệm hàng đầu thuộc về lãnh đạo Nhà trường, về lãnh đạo Nhà trường. Bởi BGH là những người đóng vai trò phụ trách, quản lí trực tiếp GV. Thực hiện nhiệm vụ này, BGH Nhà trường có thể thường xuyên ban hành chính sách khuyến khích GV tham gia tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng hướng dẫn HS thi cử, đồng thời tạo điều kiện cho GV có thời gian và nguồn lực để tìm tòi và nghiên cứu thêm các CT. Coi việc GV hướng dẫn HS tham gia các CT là một căn cứ quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ trong năm và đó cũng là cơ sở để xếp loại thi đua cuối năm. Đồng thời có chính sách khen thưởng, động viên kịp thời cho những GV có thành tích cao trong công tác bồi dưỡng, hướng dẫn HS. Đặc biệt, nhà trường cũng cần tận dụng tối đa các kênh truyền thông: truyền hình, báo chí, mạng xã hội, website giáo dục,... để tuyên truyền về vai trò quan trọng của GV trong việc hướng dẫn HS tham gia các CT. Nelson Mandela từng khẳng định “tư tưởng có thể thay đổi thế giới”. Tôi thiết nghĩ, việc nâng cao nhận thức của chính bản thân mình trở thành bệ phóng quan trọng trong bất cứ công việc nào, trong đó bao gồm cả hoạt động hướng dẫn HS tham gia các CT. Với sự hướng dẫn và hỗ trợ từ GV, HS sẽ có cơ hội phát triển toàn diện và 15
  16. đạt được thành công trong các CT. Nghị quyết hội nghị viên chức, người lao động trường THPT Hoàng Mai có những quy định về mức khen thưởng khuyến khích GV và HS tham gia các cuộc thi đạt giải 2.1.2. Nghiên cứu kĩ về thể lệ, nội dung các cuộc thi trên cơ sở năng lực, sở trường của bản thân để có thể nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn học sinh Để có thể nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn HS tham gia các CT một cách hiệu quả, trước hết GV cần thực hiện nghiên cứu kĩ về thể lệ, nội dung các CT trên cơ sở năng lực, sở trường của bản thân. Kinh nghiệm nhiều năm hướng dẫn HS tham gia 16
  17. các CT của bản thân chúng tôi cho rằng đây là khâu rất quan trọng, có quyết định không nhỏ đến kết quả của các HS khi tham gia các CT dưới sự dẫn dắt của GV. Tại sao lại như vậy? Bởi chỉ khi nắm chắc các vấn đề thuộc về quy chế thi cử mới đảm bảo cho HS tham gia thi đúng quy định. Mỗi CT có thể có những thể lệ riêng về đối tượng tham gia, nội dung, hình thức, thời gian, cách thức thi, …Nếu GV không nắm rõ thể lệ và quy định, khi hướng dẫn HS có thể vi phạm và bị loại khỏi CT. Khi nắm vững thể lệ thi cử, GV cũng có thể hỗ trợ iúp HS chuẩn bị ôn tập đúng trọng tâm, rèn luyện kỹ năng phù hợp và chuẩn bị tâm lý tốt cho CT. Từ đó, giúp HS tự tin hơn và có khả năng đạt kết quả cao hơn. Ngoài ra nó còn giúp HS tránh được những sai lầm thường gặp, ví dụ như đi thi trễ, nộp bài sai quy cách… Đồng thời, việc GV càng hiểu rõ về các CT sẽ tạo sự công bằng cho tất cả HS bởi khi tất cả các em đều được hướng dẫn kỹ lưỡng về thể lệ và quy định của CT, ai cũng sẽ có cơ hội thi cử bình đẳng và công bằng. Một vai trò quan trọng khác đòi hỏi GV phải nắm vững quy chế của các CT chính là giúp GV đánh giá kết quả thi của HS một cách khách quan. GV có thể đánh giá kết quả thi của HS một cách khách quan và chính xác. Việc đánh giá khách quan sẽ giúp HS hiểu rõ năng lực của bản thân và có định hướng học tập phù hợp. Có nhiều cách để GV có thể tìm hiểu và nghiên cứu kĩ thể lệ của các CT. Thứ nhất, GV có thể tận dụng nguồn thông tin vô tận trên Internet để truy cập website của ban tổ chức CT. Ví dụ Website của Bộ Giáo dục và Đào tạo: https://moet.gov.vn/, Website của sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An: (nghean.edu.vn), Website chính thức của các trường (thường có tên miền giáo dục: edu) như Trường THPT Hoàng Mai - Nghệ An (thpthoangmai.edu.vn). Hoặc GV cũng có thể tìm hiểu trên chuyên trang chính thức đưa tin về CT. Đây là cách đơn giản và nhanh chóng nhất để tìm hiểu thông tin về thể lệ và nội dung thi. Hầu hết các ban tổ chức CT đều có website riêng, nơi cung cấp đầy đủ thông tin chi tiết về CT, bao gồm: Thể lệ thi (Quy định về đối tượng dự thi, thời gian dự thi, hồ sơ dự thi, cách thức dự thi, đánh giá kết quả,...) Nội dung thi( Các môn thi, cấu trúc đề thi, phạm vi kiến thức thi,... ), Tin tức về CT (Cập nhật những thông tin mới nhất về CT, như thay đổi thể lệ, thời gian thi,...). Thứ hai, GV có thể liên hệ trực tiếp với ban tổ chức CT nếu còn thắc mắc về thể lệ hoặc nội dung thi. Thông tin liên hệ của ban tổ chức thường được ghi trên website hoặc trong tài liệu hướng dẫn của CT. Hoặc GV có thể liên hệ trực tiếp, trao đổi bàn bạc và yêu cầu sự giúp đỡ với người phụ trách các CT trong nhà trường (thông thường sẽ là Bí thư Đoàn trường hoặc Hiệu phó phụ trách lĩnh vực này ở trường phổ thông). Thứ ba, GV cũng có thể tham khảo ý kiến của các GV khác đã từng có kinh nghiệm hướng dẫn HS tham gia CT có thể cung cấp cho GV nhiều thông tin hữu ích về thể lệ và nội dung thi. Như vậy, nghiên cứu kỹ về thể lệ và quy định các CT là một việc làm cần thiết đối với GV khi hướng dẫn cho HS. Việc này sẽ giúp HS tham gia thi đúng quy định, chuẩn bị tốt cho kỳ thi, tránh được những sai lầm thường gặp, và có cơ hội đạt kết quả cao. 17
  18. Nghiên cứu thể lệ các cuộc thi qua nhiều kênh khác nhau như văn bản hoặc qua các trang Internet chính thức của cuộc thi i Từ đó GV mới hướng dẫn HS nắm vững thể lệ, quy chế, cách thức tham gia các cuộc thi hiệu quả 2.1.3. Thực sự mạnh dạn đề xuất ý kiến với Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường để có thể thử sức trong vai trò hướng dẫn học sinh tham gia các cuộc thi Trong sự nghiệp cầm phấn của đời mình, tôi nhận thấy ít có GV nào lại không mong muốn mình tạo được thành tựu. Bởi đó không chỉ còn là vấn đề về thành tích của cá nhân mà còn là tâm huyết, trách nhiệm, dấu ấn và vị thế của mỗi GV trong lòng HS và vì thành tích chung của Nhà trường. Thế nhưng, quy luật chung của mỗi GV chúng ta là thường rất ngại thay đổi, ít chịu đổi mới và khó khăn trong việc đối diện với thất bại. Chính vì vậy, chúng ta chỉ yên tâm khi làm một việc gì đó có liên 18
  19. quan thực sự chặt chẽ đến nhiệm vụ giảng dạy môn mình được đào tạo ra mà thôi. Ngay cả đội ngũ GV trẻ hiện nay cũng tồn tại tư tưởng này. Nhưng, sự thật là, không có GV nào ở bậc THPT được đào tạo ra chỉ chuyên về lĩnh vực hướng dẫn HS thi cử hoặc tham gia các phong trào cả. Chính vì vậy, những GV mà ta biết có kinh nghiệm và thành tích tham gia bồi dưỡng hoặc hướng dẫn HS cũng đều xuất phát từ niềm đam mê học hỏi, từ khát vọng luôn mong muốn làm mới mình trên nhiều cương vị khác nhau. Và có lẽ, một trong số những lí do đó còn vì họ bắt đầu rèn luyện đức tính tự tin vào bản thân và không ngại thử sức với những vai trò mới. Những GV đó dám coi thất bại là một phần của quá trình học tập và phát triển. Qua mỗi lần thất bại, GV có thể rút ra kinh nghiệm và học hỏi để làm tốt hơn trong tương lai. Chính vì vậy, để có thể hướng dẫn HS tham gia các CT, khuyến khích động viên các em tham gia rộng rãi các CT có chất lượng tốt, GV cần thực sự “dấn thân” và mong muốn thử sức. Bằng cách, mạnh dạn đề xuất ý kiến với BGH, lãnh đạo nhà trường về mong muốn của bản thân trong vai trò hướng dẫn học sinh tham gia các CT. Muốn làm được việc này, tất nhiên, trước đó, người GV cần phải: + Chuẩn bị kỹ lưỡng thông qua việc nghiên cứu kỹ về các CT mà mình muốn hướng dẫn HS tham gia. Sau đó, có thể phác thảo sơ lược kế hoạch về cách thức hướng dẫn HS ôn tập và chuẩn bị cho CT đó. Đồng thời dự trù những khó khăn và thách thức có thể gặp phải và đưa ra giải pháp khắc phục. + Trang bị cho mình đức tính tự tin vào bản thân: GV cần tin tưởng vào năng lực và kinh nghiệm của mình. Mỗi người cần thể hiện sự quyết tâm và nhiệt huyết với việc hướng dẫn HS tham gia các CT. + Khi làm việc với BGH hoặc người phụ trách CT, GV cần có chiến lược giao tiếp hiệu quả: GV cần trình bày ý kiến của mình một cách rõ ràng, logic và thuyết phục. Tất nhiên, chúng ta cần chuẩn bị sẵn tâm thế có thể bị từ chối bởi BGH Nhà trường thường đã có dự kiến người sẽ tham gia hướng dẫn, bồi dưỡng qua từng năm. Người đó thường sẽ là người đã đạt được thành công ở các kì hướng dẫn HS trước đó. Vì vậy, trong trường hợp này, bản thân GV cần thể hiện sự tôn trọng đối với ý kiến của BGH nhà trường. Đồng thời có những cam kết hợp lí về kết quả để tạo lòng tin với lãnh đạo. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, sự tự tin và kỹ năng giao tiếp hiệu quả, GV hoàn toàn có thể mạnh dạn đề xuất ý kiến với BGH, lãnh đạo nhà trường để có thể thử sức trong vai trò hướng dẫn HS tham gia các CT, không ngại thất bại. 2.2. Giáo viên cần xây dựng quy trình hướng dẫn học sinh tham gia có hiệu quả các cuộc thi được phát động trong nhà trường Kinh nghiệm nhiều năm hướng dẫn HS tham gia các CT của bản thân chúng tôi nhận thấy, nếu bản thân GV có cơ hội được hướng dẫn, bảo trợ HS tham gia các cuộc thi, GV có thể tham khảo các bước thực hiện theo các giai đoạn cụ thể sau: 19
  20. 2.2.1. Giai đoạn trước cuộc thi: Ở giai đoạn này, GV cần xác định được các vấn đề cụ thể: Bước 1: Lựa chọn CT phù hợp để GV có thể hướng dẫn HS có thể tham gia: + Xác định mục tiêu, lĩnh vực, độ tuổi, yêu cầu của CT dành cho HS + Đánh giá năng lực, sở thích, thế mạnh của HS trường/lớp mình phụ trách + Có thể tham khảo ý kiến GV, chuyên gia về các CT mà GV định hướng cho HS tham gia. Việc lựa chọn những CT phù hợp sẽ giúp HS có cơ hội đạt được thành công cao hơn. Bước 2: Tìm hiểu thông tin kỹ lưỡng thông qua công văn ban hành, qua Internet, tạp chí… + Nội dung, thể lệ, thời gian, quy định của CT. + Kỹ năng, kiến thức cần thiết để tham gia. + Kinh nghiệm từ những người đã từng tham gia. Bước 3: Nghiên cứu để lựa chọn ra một số HS, nhóm/đội trong lớp mình phụ trách hoặc giảng dạy để làm nguồn tham gia CT : + GV lựa chọn HS cần chú ý đến sở trường, mong muốn và mức độ phù hợp của đối tượng với CT sắp tổ chức. + Cuộc thi chỉ lựa chọn ít sản phẩm dự thi các cấp cao hơn cần nghiên cứu và lựa chọn kĩ lưỡng hơn. CT mở rộng đối tượng tham gia và chọn được nhiều sản phẩm tham gia, GV có thể khuyến khích động viên thêm nhiều HS ở những mức độ năng lực khác nhau. Tất nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc sẽ không trao cơ hội cho các HS khác. Nhưng nếu dựa trên sự lựa chọn có định hướng, cơ hội đạt kết quả cao sẽ dễ thành hiện thực hơn. + Việc lựa chọn HS có thể căn cứ nhiều nguồn từ việc tham khảo GV ở các cấp học trước đó, từ học bạ, từ quan sát hàng ngày của chính bản thân mình trong quá trình giảng dạy, giáo dục các em 2.2.2. Giai đoạn hướng dẫn học sinh tham gia cuộc thi * Giai đoạn đầu của cuộc thi: + Giới thiệu, phổ biến thông tin về CT cho HS thông qua các kênh + Giải thích mục đích, ý nghĩa, lợi ích của việc tham gia CT cho HS (Các nội dung này chúng tôi đã trình bày rõ trong SK ở mục 2.3. Giáo viên cần nâng cao nhận thức cho học sinh về vai trò của việc tham gia các cuộc thi được phát động trong Nhà trường) + Khuyến khích, động viên, định hướng HS đăng ký tham gia. * Giai đoạn thực hiện các khâu cần thiết cho CT: + Hỗ trợ HS xây dựng kế hoạch thực hiện theo lộ trình. Kế hoạch ôn tập cần bao gồm: Nội dung, hình thức thực hiện; Phương pháp thực hiện, Lịch trình thực hiện các nội dung công việc cụ thể. Các hoạt động này có thể được ghi chép cẩn thận vào sổ tay khoa học của GV và HS để tiện theo dõi và ghi nhớ tranh sai sót và lặp lại ở những khâu khác nhau của công việc. Việc lập kế hoạch sẽ giúp cuộc thi được thực hiện hiệu quả và khoa học 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2