Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập những tác phẩm tự sự
lượt xem 12
download
Sáng kiến kinh nghiệm đề tài Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập những tác phẩm tự sự được nghiên cứu với các nội dung: Nâng cao hiệu quả học tập và giúp các em thi tốt nghiệp THPT đạt kết quả tốt nhất; Ổn định tâm lý giảm bớt tâm lý căng thẳng thi cử cho các em; Giúp các em hình thành phương pháp tự học, tự sáng tạo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập những tác phẩm tự sự
- A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đối với học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 12 thi cử luôn là một áp lực gây căng thẳng tâm lí. Thời gian ôn tập không nhiều, kiến thức của các môn thi thì quá lớn. Vậy làm thế nào để cho việc ôn tập 6 môn thi tốt nghiệp và thi Đại học đạt kết quả tốt ? Thiết nghĩ đây là một bài toán không đơn giản cho học sinh và cũng là cho mỗi người thầy trong quá trình hướng dẫn học sinh yêu quý của mình ôn thi đạt hiệu quả. Trong thực tế các môn thi tốt nghiệp THPT, môn Ngữ văn bao giờ cũng là một trong những môn cố định có tính bắt buộc đối với các kì thi. Môn học này chiếm một lượng kiến thức tương đối lớn đòi hỏi học sinh cần phải có kế hoạch ôn tập chu đáo thì mới có thể đạt được điểm cao. Để làm được điều này bên cạnh việc nắm vững các kĩ năng làm bài đòi hỏi mỗi học sinh cần phải có phương pháp ôn tập hữu hiệu thì mới có thể đạt được kết qủa tốt. Tuy nhiên, vấn đề học môn Văn hiện nay không phải học sinh nào cũng làm được điều đó. Để tránh gây áp lực căng thẳng vể tâm lí và tạo được hứng thú cho học sinh trong quá trình ôn thi, vấn đề đặt ra cho mỗi người thầy là cần phải có một phương pháp thiết thực để hướng dẫn các em ôn tập đạt được hiệu quả cao nhất. Trong quá trình ôn tập môn Ngữ văn và hướng dẫn cho các em thi cử thiết nghĩ sẽ có rất nhiều phương pháp được áp dụng và tất nhiên mỗi phương pháp đều có những ưu điểm nhược điểm nhất định. Song tôi thấy hiệu quả vẫn là phương pháp hướng dẫn ôn tập cho học sinh theo cấu trúc đề thi. Trong những năm gần đây cấu trúc đề thi gồm có hai phần: phần dành chung cho tất cả các thí sinh và phần danh riêng cho từng ban để cho các em lựa chọn. Cho dù thuộc về ban nào đi chăng nữa thì đề thường yêu cầu nghị luận về các vấn đề sau: + Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ. + Nghị luận về một tác phẩm văn xuôi, một đoạn trích văn xuôi. + Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học. 1
- Trong phạm vi đề tài này, tôi muốn đi vào một vấn đề cụ thể: “Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập những tác phẩm tự sự” với mong muốn tháo gỡ những khó khăn, những băn khoăn của các em khi làm văn, giúp các em thi cử đạt kết quả tốt. 2. Mục đích nghiên cứu + Nâng cao hiệu quả học tập và giúp các em thi tốt nghiệp THPT đạt kết quả tốt nhất. + Ổn định tâm lý giảm bớt tâm lý căng thẳng thi cử cho các em. + Giúp các em hình thành phương pháp tự học, tự sáng tạo. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Hướng dẫn học sinh lớp 12 cách ôn tập các tác phẩm văn xuôi . Phạm vi nghiên cứu: Học sinh các lớp 12 mà tôi là người trực tiếp giảng dạy. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp khảo sát thực tế qua các kì thi: kiểm tra định kì, thi khảo sát chất lượng, thi thử tốt nghiệp và thi tốt nghiệp THPT. Phương pháp nghiên cứu qua sản phẩm: bài viết của học sinh và thống kê kết quả điểm kiểm tra. B. PHẦN NỘI DUNG Chương I: Những cơ sở của việc hướng dẫn ôn tập những tác phẩm tự sự. 1. Cơ sở nhận thức Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người nhưng sự phản ánh này không phải đơn giản, thụ động mà là quá trình biện chứng dựa 2
- trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ đối với khách thể. Nhưng không phải cá nhân nào cũng đều là chủ thể của nhận thức. Con người trở thành chủ thể nhận thức khi tham gia vào hoạt động xã hội nhằm biến đổi nhận thức khách thể. Trong nhà trường học sinh chính là chủ thể của hoạt động nhận thức; còn khách thể chính là những tri thức kinh nghiệm. Theo cơ sở triết học: con người tự làm ra mình bằng chính hoạt động của mình nhưng cái quan trong là làm ra cái đó như thế nào vào bằng cách nào? Từ cơ sở ấy chúng ta có thể nói một cách đơn giản các em học sinh lớp 12 không chỉ phải chỉ đơn giản là ôn cái gì mà điều quan trọng là ôn như thế nào? 2. Cơ sơ thực tiễn Tác phẩm tự sự thường chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong các bài học của học sinh lớp 12 ôn thi tốt nghiệp THPT. Cách làm bài nghị luận về một tác phẩm tự sự không đơn giản so với các câu hỏi khác trong cấu trúc một đề thi. Thực tế cho thấy khi nghị luận về một tác phẩm tự sự, phần nhiều học sinh khó đạt điểm cao so với các dạng câu hỏi nghị luận khác. Chính vì vậy việc học các tác phẩm tự sự đối với các em rất ngại, thường hay đối phó hoặc phụ thuộc vào tài liệu, văn mẫu khi làm bài mà không có sự độc lập, tư duy sáng tạo. Qua kết quả thức tế mà tôi thống kê, hầu hết các em học sinh lớp 12 chưa thực sự có kinh nghiệm và kĩ năng về cách làm bài nghị luận về một tác phẩm tự sự do đó kết quả thi môn Ngữ văn thường thấp. Vấn đề đặt ra cần phải có một cách hướng dẫn cụ thể mang tính khoa học để giúp các em tháo gỡ những khó khăn trong quá trình làm bài. Chương II Nội dung hướng dẫn ôn tập những tác phẩm tự sự. Tự sự là phương thức tái hiện đời sống qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người trong toàn bộ tính khách quan của nó. Ở đây, tư tưởng và tình cảm của nhà văn thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động của con người, nhà văn kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực được phản ánh trong tác phẩm là một thế giới tạo 3
- hình xác định đang tự tồn tại, phát triển, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của người viết. Để hiểu được nội dung phản ánh, để phân tích được các giá trị về mặt tư tưởng lẫn nghệ thuật của một tác phẩm tự sự, người giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách ôn tập như sau: 1/ Cần đọc kĩ và tóm tắt chính xác cốt truyện của mỗi tác phẩm. Để có thể làm bài đạt kết quả tốt về một tác phẩm văn xuôi thì tóm tắt cốt truyện là yêu cầu không thể thiếu, việc tóm tắt chính là cơ sở để từ đó tìm hiểu các vấn đề khác của tác phẩm Tùy vào từng mục đích mà đưa ra yêu cầu của việc tóm tắt và như vậy tất nhiên sẽ có nhiều cách tóm tắt khác nhau song người giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt theo cốt truyện. Vậy tóm tắt theo cốt truyện là như thế nào? Hiểu một cách ngắn gọn, cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định của nhà văn. Nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự hình thành, đặc điểm của mỗi tính cách cũng như sự tác động qua lại giữa các tính cách. Cũng nhờ cốt truyện, nhà văn tái hiện các xung đột xã hội, chứng tỏ năng lực, cách thức chiếm lĩnh thực tại khách quan của mình. Dù đa dạng, mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động có hình thành, phát triển và kết thúc. Mỗi cốt truyện thường bao gồm các thành phần sau: +Trình bày: giới thiệu thời kì lịch sử, khung cảnh cụ thể của sự việc + Khai đoan: nêu tình huống, vấn đề nảy sinh để người đọc chú ý theo dõi. +Phát triển: diễn tả sự tiến triển của hành động, của tính cách, của mâu thuẫn, xung đột. + Đỉnh điểm (hoặc cao trào): hành động, tính cách, mâu thuẫn được phát triển đến độ cao nhất, căng thẳng nhất +Kết cục (hoặc mở nút): giải quyết, kết thúc một quá trình phát triển của mâu thuẫn. Một cách đầy đủ, theo trình tự thông thường là như vậy. Tuy nhiên, không phải bất cứ cốt truyện nào cũng bao hàm đầy đủ các thành phần như vậy. Mặt khác, trình tự các thành phần ấy cũng biến hóa sinh động như cuộc sống muôn màu và tùy theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. 4
- Từ khái niệm xác định như trên, muốn tóm tắt được cốt truyện một tác phẩm tự sự, người giáo viên cần hướng dẫn các em phải đọc kĩ tác phẩm sau đó trả lời được những câu hỏi sau: + Hoàn cảnh xã hội, thời kì lịch sử mà tác phẩm phản ánh, tái hiện? + Chủ đề của tác phẩm? + Nhân vật chính của tác phẩm và các bước phát triển của tính cách, của số phận nhân vật ấy? Các chi tiết, sự kiện quan trọng trong tác phẩm tác động tới cuộc đời nhân vật? Trên cơ sở đọc kĩ tác phẩm, nắm vững kiến thức cơ bản theo yêu cầu trên mới có thể đi đến xây dựng văn bản tóm tắt. Ví dụ : Tóm tắt truyện Rừng Xànu (Nguyễn Trung Thành) Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn trong “tầm đại bác ”của giặc, đang ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xô Man. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu anh Quyết cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt Tnú sau 3 năm anh lại vượt ngục Kon Tum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, Tnú đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm dầu xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời. Để xây dựng văn bản tóm tắt tác phẩm, điểm đáng nói nữa là rèn luyện về lời văn. Độ dài, ngắn của một văn bản tóm tắt tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể. Song nhìn chung, lời văn tóm tắt cần gọn gàng, súc tích, hàm chứa lượng thông tin cao. Tránh lối viết chỉ một ý mà quá nhiều câu, dùng nhiều từ đồng nghĩa ở một mệnh đề. Bài tóm tắt nên có ngắt đoạn, chuyển ý để người đọc nắm được các phần tác phẩm, nắm được diễn tiến của dòng cốt truyện. 5
- Ví dụ: Tóm tắt truyện Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp... Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh. Như vậy cách tóm tắt cốt truyện thể hiện mức độ thâm nhập tác phẩm. Nếu không tóm tắt được tác phẩm thì đồng nghĩa với việc không nhớ cốt truyện sẽ khó có thể làm bài. Do đó việc tóm tắc tác phẩm và yêu cầu bắt buộc đối với học sinh. 2. Cần chú ý đến ý nghĩa nhan đề của tác phẩm: Như chúng ta biết, tác phẩm văn học là con đẻ tinh thần của người nghệ sĩ. Việc sáng tác đã khó nhiều khi việc đặt tên lại càng khó hơn. Tên tác phẩm không phải là cho nó cái tên để gọi mà là cả một dụng ý, một ý nghĩa nghệ thuật. Ví dụ: Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân. Gợi sắc thái đối lập Tình cảnh ngang trái, một tình huống đặc biệt 6
- Còn có thể gợi về cái tên của nhân vật trong tác phẩm Lấy một ví dụ khác. Khi đọc truyện “ Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Trung Thành thì cần đặt ra cẩu hỏi: tại sao tác giả lại đặt cho tác phẩm cái tên như vậy? Ý nghĩa của nó? Gợi lên cho người đọc hình ảnh những đứa con sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng đang nối tiếp và phát huy con đường lí tưởng của cha ông. Thể hiện cái nhìn hiện thực có chiều sâu mang tính độc đáo của Nguyễn Thi: Ông đã chọn lăng kính gia đình để nhìn ra cả cuộc chiến đấu lớn của nhân dân MN. Cách nhìn này là một sự phát hiện, khám phá mới mẻ: sự tiếp nối giữ hiện tại và quá khứ, sự hoà quyện giữa tình cảm gia đình và tình cảm cách mạng tạo nên sức mạnh thiêng liêng của con người Việt nam, dân tộc Việt nam. Nhà văn muốn ta nghĩ đến không chỉ một gia đình, mà cả một tổ quốc đang hào hùng chiến đấu được sinh ra từ sức mạnh đau thương. 3. Cần chú ý đền tình huống và chi tiết trong tác phẩm 3.1. Vấn đề tình huống truyện. Nếu như tứ thơ giữ một vai trò quan trọng đối với thơ trữ tình, thì với văn xuôi tự sự, tình huống truyện có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của tác phẩm. Nếu tạo được một tình huống truyện xem như đã tạo được một tiền đề khá vững chắc cho sự thành công của tác phẩm. Do đó các cây bút tài năng thường ý thức đến điều này. Ví dụ: Truyện“Vợ Nhặt”, Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện độc đáo. Có thể nói tình huống truyện của “Vợ Nhặt” được xây dựng trên cơ sở về một cuộc hôn nhân lạ lùng giữa Tràng và cô “vợ nhặt”. + Hôn nhân là một trong những việc hệ trọng nhất của đời người, của cuộc sống nhân sinh. Có lẽ chính vì vậy mà người xưa thường nhắn nhủ “Trăm năm tính cuộc vuông tròn Phải dò cho tận lạch nguồn cuối sông” hay “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà. Trong ba việc ấy thầy là khó ghê”. + Đọc truyện ngắn Vợ Nhặt, Kim Lân đã cho ta thấy cái việc thiêng liêng ấy lại biến thành trò đùa. + Cuộc sống không ra sống, cuộc sống cứ phản phất hơi hướng cái chết với ám ảnh cái đói. Bối cảnh như thế một cuộc hôn nhân lạ lùng đã diễn ra: Tràng 7
- gã trai nghèo khổ, xấu xí, thô kệch, lại là dân ngụ cư, bấy lâu nay chẳng có ai thèm ngó tới. Thế mà bỗng dưng anh ta lại “nhặt” được vợ một cách dễ dàng, gần như là cho không. Quả giá trị của Tràng cũng như địa vị của cô gái hoàn toàn bị đảo lộn. Không gờ người ta có thể láy đựơc vợ với cái giá rẻ như vậy và cũng không ngờ, một người phụ nữ có thể bị nhặt về làm vợ như một cái rơm cái rác bên đường. + Hôn nhân vốn là biểu trưng của hạnh phúc, nhưng cuộc hôn nhân của Tràng và cô vợ nhặt lại diễn ra trong những ngày tháng đau buồn đói kém nhất của dân tộc. + Cái đói “tràn đến” lúc nào không ai biết: Sự hiện hình của nó giống như một thảm họa, một cơn cuồng phong, càn quét mọi sinh linh. Người sống xanh xám đi lại dật dờ như những bóng ma. Người chết: “như ngả rạ”, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, hay đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây nằm cỏng queo bên đường”. Câu văn tả người sống liền kề câu văn tả người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về ranh gi ới mong manh giữa sống và chết. + Âm thanh: Tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” > “sứ giả” của cái chết, cõi âm > gợi ám ảnh rợn lạnh, âm khí. + Mùi vị: “vẩn lên mùi ẩm thối”: rác, mùi gây của xác người. + Tràng lấy vợ vào đúng lúc cái đói đang diễn ra gay gắt, chẳng ai còn nghĩ đến thứ gì khác ngoài miếng ăn, thậm chí bản thân anh ta cũng chưa chắc giữ được mạng sống của mình qua cái nạn đói khủng khiếp này. Việc Tràng lấy vợ trong hoàn cảnh này đồng nghĩa rước thêm về nhà một miệng ăn, lo thêm một nỗi lo, đưa mình đến với cái chết nhanh hơn. Như vậy khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các tác phẩm văn xuôi ngoài việc tóm tắt để ghi nhớ tác phẩm người giáo viên phải hướng dẫn các em chú ý tình huống truyện. Bởi vì trong văn xuôi tự sự tình huống có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thể hiện tính cách và số phận nhân vật, chủ đề tác phẩm. Ví dụ: “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyên Minh Châu: + Để tạo nên hình tượng người đàn bà hàng chài nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ số phận. 8
- + Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh đẹp đến nỗi Phùng có cảm giác bối rối, trái tim như bị bóp thắt vào. + Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ. +Trong suốt câu chuyện, nguời đàn bà làng chài không có tên, chỉ được gọi là “người đàn bà”, là “mụ”, là “ chị” những cách gọi phiếm định. Đó là người đàn bà vô danh. Đây là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này. Dù vô danh, nhưng người đọc sẽ không quên được chị bởi những nét đặc biệt về tính cách và nỗi đau thân phận mà chị phải gánh chịu. Tóm lại có thể xem tình huống là loại hoàn cảnh bất bình thường, hoàn cảnh “có vấn đề” đòi hỏi con người trong đó phải xử lí, phải vượt qua. Khi được hoặc bị đặt trong tình huống, con người ta mới bộc lộ tính cách, bản chất của mình một cách đầy đủ, chân thực nhất. Nếu cuộc sống là một dòng sông thì tình huống là các xoáy nước. Nó chính là phần đậm đặc nhất của cuộc sống, nơi thể hiện tập trung bản chất một xã hội, một thời đại. Trong văn xuôi tự sự, xây dựng tình huống dường như thành nhiệm vụ tất yếu của nhà văn, trở thành nơi thử thách tài nghệ của nhà văn. Bởi thế, phân tích tác phẩm thuộc thể loại này, điều quan trọng là phải xác định, khái quát được tình huống và ý nghĩa của nó. Mối quan hệ giữa tình huống với nhân vật thể hiện mối tương quan giữa hoàn cảnh và tính cách. Hoàn cảnh càng có tính điển hình, càng có độ gay cấn thì càng dễ nổi bật tính cách điển 9
- hình của nhân vật. Khi phân tích tình huống cần phải chú ý tới hiệu quả nghệ thuật của nó đối với việc thể hiện chủ đề tác phẩm, tư tưởng của nhà văn. Ví dụ: Ý nghĩa của tình huống truyện trong tác phẩm “Vợ Nhặt” của Kim Lân +Giúp tác giả xây dựng tính cách nhân vật một cách chân thực + Làm nổi bật giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm + Giá trị hiện thực : Hiện thực về tội ác của giặc Hiện thực về nỗi đau khổ, đói kém của nhân dân Hiện thực về tư tưởng của quần chúng : Đói kém sẽ dẫn tới liều lĩnh ; nhưng đói kém cùng quẫn cũng sẽ dẫn họ đến với cách mạng. + Giá trị nhân đạo : Trong bất kì hoàn cảnh nào, người dân lao động không hoàn toàn tuyệt vọng họ vẫn luôn hướng về sự sống và ánh sáng ; hạnh phúc và tương lai. Ngoài việc xác định và phân tích ý nghĩa của tình huống truyện người giáo viên cần cho học sinh so sánh tình huống truyện trong mỗi tác phẩm của từng nhà văn. Ví dụ: “Vợ Nhặt” (Kim Lân) và “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) cả hai đều xây dựng được tình huống truyện độc đáo, nhưng tình huống trong mỗi câu chuyện lại có sự khác nhau.Tình huống trong “Vợ Nhặt” là tình huống về một cuộc hôn nhân lạ lùng giữa Tràng và cô vợ nhặt.Còn tình huống trong chiếc thuyền ngoài xa là tình huống mang tính phát hiện về “cảnh đắt trời cho” với hiện thực nghiệt ngã cuộc sống của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng . 3.2. Chi tiết trong tác phẩm văn xuôi tự sự. Một tác phẩm văn xuôi hay lắm khi hay ở chi tiết, hình ảnh cho nên khi ôn tập các tác phẩm văn xuôi người giáo viên phải hướng dẫn học sinh chú ý đến chi tiết đặc sắc trong tác phẩm và đi tìm ý nghĩa của các chi tiết đó. Ví dụ: Đọc “Thuốc” của Lỗ Tấn mà không chú ý đến nội dung và ý nghĩa về những người trong quán trà của lão Hoa đã bàn luận về thuốc thì quả là một sự thiếu sót. Hay đọc “Số phận con người” của Sôlôkhốp cần phải chú ý chi tiết: khi Xôcôlôp đưa đứa con trai mới nhận về nhà, bà chủ nhà “ Nhìn nó ăn ngấu nghiến mà nước mắt ròng ròng…”.Có thể nói đây 10
- là một chi tiết nhỏ nhưng lại có ý nghĩa lớn.Vì tiếng khóc của bà chủ nhà là tiếng khóc: + Khóc thương, thông cảm cho hoàn cảnh tội nghiệp của bé Vania. + Khóc thương cho cảnh ngộ của Xôcôlốp. + Cảm phục, ngưỡng mộ trước lòng tốt của Xôcôlôp,một người vượt lên nỗi đau của chính mình để yêu thương, cưu mang một người bất hạnh khác. + Tiếng khóc tủi thân cho hoàn cảnh của chính mình (không có con cái) + Và tiếng khóc ấy còn là tiếng khóc của chính tác giả thương xót cho những “số phận con người” sau chiến tranh. Ví dụ: Khi đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành mà không chú ý đến chi tiết tác giả miêu tả hình ảnh “bàn tay của Tnú” thì quả là một sự thiết sót lớn. Bàn tay là xương thịt, là một phần cơ thể của chúng ta. Đây là điểm đầu hết sức nhạy cảm của hệ thần kinh, là biên giới xúc giác nối liền chủ thể với ngoại giới, cũng là công cụ vô cùng quan trọng, linh hoạt để con người lao động, chiến đấu và bộc lộ tâm tư tình cảm.Trong truyện ngắn “Rừng xà nu”, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã đặc biệt đi sâu vào khắc hoạ hình ảnh bàn tay của nhân vật Tnú với một dung ý sâu sắc.Bàn tay của Tnú không phải là bàn tay của người lao động với tinh thần “ bàn tay ta làm nên tất cả.Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”, cũng không phải bàn tay của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật.Bàn tay của Tnú là bàn tay của người chiến sĩ, bàn tay trong máu lửa khốc liệt của chiến tranh, trong cuộc chiến sinh tồn, một mất một còn với kẻ thù hung ác.Có hiểu như vậy mới thấy hết được dụng ý của tác giả khi miêu tả những đoạn văn đầy ý nghĩa về đôi bàn tay của Tnú Tóm lại trong một tác phẩm thường có nhiều chi tiết nhưng không phải mọi chi tiết đều có giá trị ngang bằng nhau. Có các chi tiết có thể lướt qua hoặc bỏ đi cũng không sao. Có các chi tiết thể hiện thần thái nhân vật, cô đọng nội dung, giá trị của tác phẩm, như một giọt nước mà qua đó có thể thấy cả cốc nước. Bởi thế, người giáo viên khi hướng dẫn học sinh đọc văn, phân tích văn phải biết lướt qua những chi tiết vụn vặt, ngẫu nhiên, đồng thời nắm bắt lấy và tập trung phân tích các chi tiết tiêu biểu, đắt giá nhất. Làm được điều này chính là một căn cứ để đánh giá năng lực cảm thụ tác phẩm, đồng thời đánh giá phương pháp, kĩ năng của học sinh. Nhân đây, cũng xin nói với 11
- học sinh rằng một bài viết hay (cũng như một ca sĩ hát) phải có chỗ đậm chỗ nhạt, chỗ thăng chỗ trầm chứ không nên đều đều, đơn giọng. Muốn đạt đến điều này đương nhiên cần nhiều điều kiện, yếu tố, cần phải luyện bút công phu. 4. Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự. Trong thực tế học văn, làm văn, khá nhiều học sinh còn lúng túng khi gặp kiểu bài phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự. Lúng túng này do nhiều nguyên nhân. Có phần do cách đọc và nắm tác phẩm để dẫn chứng khi làm bài. Có phần do chưa thuần thục phương pháp, kĩ năng, chưa biết tìm ra các vấn đề phân tích. Lại có phần bởi chưa thực hiểu mục đích, ý nghĩa của việc mình đang làm. Việc gì cũng thế, khi chưa thật hiểu mục đích công việc thì khó có thể làm tốt, làm một cách có ý thức cao được. Trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi mang chở nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Bởi thế, phân tích nhân vật trở thành con đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó. Không phải không còn những học sinh chưa hiểu thật đầy đủ rằng nhân vật trong tác phẩm văn học là “con đẻ”, là sản phẩm sáng tạo của một nhà văn nhất định. Nó là kết quả của một quá trình khám phá, chiêm nghiệm. Nó là sản phẩm từ sự tổng hợp, nhào nặn. Cũng do thế, nhân vật mang dấu ấn của cá nhân sáng tạo ra nó. Không ít học sinh còn đối chiếu máy móc nhân vật với hiện thực lịch sử, với sự thực cuộc đời để đánh giá đúng, sai, hay, dở mà quên đi một sự thực khác: nhân vật có thể mang màu sắc “siêu thực”, có thể đi lối riêng theo cách dẫn dắt, theo ý đồ và bút pháp nghệ thuật của nhà văn. Phân tích nhân vật còn để nhận ra tài năng, đặc điểm bút pháp của nhà văn, để thêm thú vị khi thưởng thức một giá trị thẩm mĩ. Việc phân tích một nhân vật cần được soi tỏ dưới các ánh sáng trên. Khi phân tích một nhân vật phải vươn lên khái quát được các giá trị trên. Nhắc lại 12
- mấy điều này, là để người giáo viên khi hướng dẫn học sinh ôn tập cần lưu ý: +Thứ nhất, biến bài phân tích nhân vật thành một bài miêu tả, ca ngợi một con người nào đó ngoài đời (nhất là khi phân tích loại nhân vật chính diện có các phẩm chất, vẻ đẹp cao quí). Quá trình phân tích một nhân vật văn học cần gắn với sự cảm thụ, đánh giá bút pháp nghệ thuật miêu tả của nhà văn. Chữ phân tích ở đây không nên hiểu chỉ là một thao tác nghị luận (chỉ ra các đặc điểm của nhân vật) mà bao hàm cả sự nhận xét, đánh giá bằng cảm thụ, suy nghĩ của mình. +Thứ hai, bài phân tích nhân vật chỉ dừng ở cấp độ cụ thể mà không nâng lên tầm khái quát để rút ra tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Nên nhớ rằng khi xây dựng một nhân vật (nhất là nhân vật chính) bao giờ nhà văn cũng muốn gửi gắm qua đó một cách nhìn nhận về xã hội, một quan niệm nhân sinh. Nếu phân tích nhân vật mà chỉ dừng ở nhân vật nghĩa là chưa ý thức được vị trí của nhân vật ấy trong chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Một nhân vật văn học thành công cũng như một con người sinh động ngoài đời vậy. Đó là “con người này” trong sự phân biệt với con người khác. Nó có tính cách riêng, số phận riêng không thể lẫn. Bởi thế, suy cho cùng, phân tích một nhân vật làm sáng tỏ một tính cách, một số phận. Song vấn đề là nhà văn không trực tiếp bước vào tác phẩm mà nói lên điều ấy. Tính cách, số phận nhân vật hiện lên sinh động trong tác phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó chính là những phương diện học sinh người phân tích cần lưu ý. 4.1. Lai lịch Đây là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách, chi phối con đường đời của nhân vật cũng như mục đầu tiên ta thường khai trong bản “Sơ yếu lí lịch” là thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình vậy. Lưu ý không phải tác phẩm nào chúng ta cũng cần phải chú ý đến lai lịch của nhân vật.Chúng ta chỉ chú ý đến lai lịch của nhân vật khi đó là một dụng ý của nhà văn trong việc khắc hoá số phận và tính cách của nhân vật mà thôi. 4.2. Ngoại hình Trong văn học, nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật thường với hai mục đích. 13
- + Thứ nhất, để cá thể hóa nhân vật, nghĩa là tạo ấn tượng riêng về nhân vật ấy (không thể lẫn vào các nhân vật khác). + Thứ hai, qua vẻ bề ngoài mà phần nào hé mở tính cách, bản chất của nhân vật ấy. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét khắc họa chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của một nhân vật nào đó. Một nhân vật thành công bao giờ cũng là “con người này” khác với con người kia, con người nọ… Khi cảm nhận, phân tích ngoại hình nhân vật cần thấy rằng phần lớn trường hợp, đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài. Song cũng có những trường hợp cái bên trong và vẻ bên ngoài của nhân vật “trật khớp”, thậm chí trái ngược nhau. Trong phân tích nhân vật, cần qua các chi tiết ngoại hình mà “đọc” đúng nội tâm, bản chất của đối tượng. 4.3. Ngôn ngữ Qua lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta có thể nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của con người ấy. Ngôn ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với nhiều nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ. 4.4. Nội tâm Khi phân tích nhân vật cần quan tâm đến thế giới bên trong với những cảm giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ… Thế giới bên trong này thường tương tác với thế giới bên ngoài (môi trường thiên nhiên, sự biến chuyển của đời sống xã hội, quan hệ và hành vi của các nhân vật khác xung quanh) đồng thời cũng có qui luật vận động riêng của nó. Một nghệ sĩ tài năng thường cũng là một bậc thầy trong việc nắm bắt và diễn tả tâm lí con người. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống nội tâm nhân vật là chỗ thử thách tài nghệ nhà văn và cảm nhận, phân tích được một cách kĩ lưỡng, thuyết phục mặt này cũng thành nơi chứng tỏ năng lực của người phân tích tác phẩm. 4.5. Cử chỉ, hành động Bản chất của con người ta bộc lộ chân xác, đầy đủ nhất qua cử chỉ, hành động. Phân tích nhân vật, vì thế, cần tập trung khai thác kĩ phương diện này. 14
- Đó là sự thật hiển nhiên. Nhưng đáng chú ý là bản chất nhân vật không chỉ bộc lộ ở việc nhân vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật nữa. 4.6. Lời các nhân vật khác về nhân vật Để khắc họa tính cách, bản chất một nhân vật, nhà văn còn mượn lời nói, lời đánh giá của các nhân vật khác. Lắm khi, nhà văn còn “tổ chức” cho các nhân vật khác thảo luận, bàn bạc về nhân vật ấy. Sau khi trình bày sáu phương diện cụ thể lúc phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự, chúng tôi muốn lưu ý các bạn mấy điểm: + Thứ nhất: Không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các phương diện này (lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội tâm, cử chỉ, hành động, qua lời các nhân vật khác). Tùy trường hợp mà có chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ đậm, chỗ nhạt. Bởi thế, không phải cứ máy móc tìm đủ, phân tích đủ mà cần biết tập trung, xoáy sâu vào các phương diện thành công nhất của tác phẩm. Cũng không cứ phải tuần tự theo sáu phương diện như thế mà nên sắp xếp theo thực tế, làm sao cho bài văn của mình hấp dẫn. + Thứ hai: Tránh lầm lẫn cấp độ của những phương diện phân tích. Có thể xem sáu phương diện đã nêu đồng đẳng và đều là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa của tính cách, số phận nhân vật. Không nên xem tính cách như một phương diện ngang bằng các phương diện ấy (như một vài cuốn sách về làm văn lâu nay vẫn sắp xếp). Điều này không đúng về mặt lí luận và sẽ gây lúng túng trong thực tế làm bài. + Thứ ba: Nắm vững sáu phương diện cơ bản đã nêu khi phân tích nhân vật chính là điều có ý nghĩa định hướng cho việc đọc tác phẩm tự sự. Biết đọc tác phẩm tự sự nghĩa là hiểu được, nhớ được nội dung phản ánh của tác phẩm và mối quan hệ giữa các nhân vật, nắm được tính cách, số phận của các nhân vật chính. Để có căn cứ phân tích, để có chất liệu làm bài, khi đọc tác phẩm cần ghi nhớ các chi tiết, các hình ảnh về từng phương diện ấy. Ví dụ: Về nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa(Nguyên Minh Châu) Nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm này đã để lại nhiều ấn tượng và cảm xúc trong lòng người đọc. Để tạo nên hình tượng người đàn bà ấy nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ số phận. 15
- Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện một “ cảnh đắt trời cho”. Cảnh đẹp đến nỗi Phùng có cảm giác bối rối, trái tim như bị bóp thắt vào. Nhưng đằng bức tranh tuyệt đỉnh ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ. Trong suốt câu chuyện, nguời đàn bà làng chài không có tên, chỉ được gọi là “người đàn bà”, là “mụ”, là “ chị”_những cách gọi phiếm định. Đó là người đàn bà vô danh. Đây là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này. Dù vô danh, nhưng người đọc sẽ không quên được chị bởi những nét đặc biệt về tính cách và nỗi đau thân phận mà chị phải gánh chịu. a/ Lai lịch: Trước đây Chị vốn là con của một gia đình khá giả nhưng số phận đã không may mắn với chị. Chị mắc bệnh đậu mùa. Di chứng để lại đó là cái xấu. Cái xấu xí thô kệch đã đeo đuổi chị như một định mệnh. b/ Ngọai hình và hoàn cảnh sống: Đó là một “người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.” Cặp mắt của chị hay nhìn xuống thể hiện sự nhẫn nhục, câm lặng, dự báo một thân phận đầy bất hạnh. Vì xấu xí không ai lấy nên chị trót có mang với một anh hàng chài nhà ở giữa phá vẫn hay đến nhà chị mua bả về đan lưới. Thế rồi thành vợ thành chồng. Chị xuống ở luôn dưới thuyền. . Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh: “có nhiều tháng biển động phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật. 16
- => Những chi tiết miêu tả ngoại hình và hòan cảnh sống đầy ấn tượng của tác giả đã làm hiện lên hình ảnh một người phụ nữ vất vả, cơ cực, lam lũ cả một đời. c/ Tính cách và tâm hồn . Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu, lão chồng của chị từ một anh con trai “hiền lành nhưng cục tính” đã trở thành một kẻ vũ phu lỗ mãng. Hắn đã lấy phương pháp đánh vợ để giải tỏa những bế tắc cuộc sống. Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ bằng một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". “Mày” ở đây là vợ ông ta. “Chúng mày” là vợ con của ông ta. Dù vậy, chị lặng thầm đón nhận “với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Thậm chí chị còn yêu cầu hắn “ Muốn đánh chị thì đưa chị lên bờ để đánh vì chị không muốn để những đứa con nhìn thấy cảnh bố hành hạ mẹ”. Vì đâu chị lại chịu đựng và cam chịu như vậy? Vì đó là một người đàn bà giàu đức hi sinh và thương con. + Khi đứa con chị là thằng Phác, vì quá thương mẹ nên đã lao vào đánh lại cha nó, chị đã khóc, ôm chầm lấy nó mà kêu lên: “Phác, con ơi!”. Hành động ấy thể hiện nỗi đau tột cùng của người mẹ. Chị muốn tạ lỗi với con vì đã làm tổn thương trái tim bé bỏng của nó, và cũng van xin con đừng làm những điều có lỗi với cha mình. + Ra ngoài đời, chị bộc lộ vẻ lúng túng sợ sệt thật đáng thương. Khi được mời đến tòa án để giải quyết bi kịch gia đình, chị chỉ dám chọn một góc tường để ngồi. Sau đó được mời chị mới dám rón rén ngồi xuống mép ghế và cố thu người lại. Nhưng khi phải lí giải nguyên nhân không chịu từ bỏ gã chồng vũ phu hành hạ mình, thì chị tỏ ra sắc sảo không ngờ. Chị kiên quyết từ chối lời đề nghị của chánh án Đẩu: “quý tòa… phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” Người đàn bà đau khổ kể lại câu chuyện cuộc đời mình nhằm gián tiếp đưa ra những lí do khiến mình không thể bỏ chồng. 17
- + Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề, để chung tay nuôi những đứa con khôn lớn nên người. “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. + Chị cũng là người vợ luôn biết quý trọng chắt chiu những giây phút hạnh phúc của đời thường, giản dị mà thật cảm động: “Ở trên chiếc thuyền, cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Và “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no.” Vẻ đẹp tâm hồn của chị gòn thể hiện ở thiên chức làm mẹ thiêng liêng và tình thương con vô bờ. “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ,…đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. Chị hiểu như thế nào là nỗi đau của những trẻ thơ sống trong cảnh bố mẹ ly dị. Chị không muốn nhìn cảnh các con thấy bộ mẹ chia tay. Cũng vì thương con chị đã yêu cầu lão đàn ông vũ phu mang chị lên bờ mà đánh vì sợ con nhìn thấy. Vì thương con mà chỉ đưa thằng Phác lên bờ để sống. Đó là triết lí sống thật giản dị mà sâu sắc vô cùng! + Chị cũng hiểu và thông cảm cho chồng: chị thừa nhận chồng chị trước kia là “anh con trai hiền lành nhưng cục tính”, chẳng qua vì đói nghèo, thất học, túng quẫn lão chồng mới sinh ra vậy. Đây chính là sự hiểu đời, sự thông cảm và vị tha của chị. Chị không hề oán trách chồng mà ngược lại chị rất cảm thông cho hành động của chồng. Chồng chị là nạn nhân của hòan cảnh sống nghiệt ngã, chứ không phải là một người cay nghiệt, độc ác trong bản chất. + Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. Bằng thủ pháp đối lập giữa vẻ bề ngòai và tâm hồn bên trong, giữa số phận bất hạnh và lòng cao thượng khi xây dựng nhân vật, nhà văn đã kẳng định những phẩm chất tốt đẹp, cao cả trong tâm hồn người phụ nữ nghèo khổ giữa cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn. Chị hấp dẫn người đọc ở vẻ đẹp tình mẫu tử 18
- thiêng liêng, ở cách hóa giải bi kịch của cuộc đời mình bằng nguyên lí của tình yêu thương, sự hi sinh và tha thứ Với việc tạo tình huống truyện độc đáo, ngôi kể, điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đa diện, lời văn giản dị mà sâu sắc, qua câu chuyện của người đàn bà, nhà văn đưa ra một thông điệp: Không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống mà phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phổ quát thì mới hiểu được những sắc cạnh của cuộc đời. Vì “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”. 5/ Điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự Trong tác phẩm văn xuôi tự sự, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ điểm nhìn, bằng quan điểm trần thuật nào đó. Thông thường có ba phương thức trần thuật phổ biến trong tác phẩm tự sự: + Phương thức 1: theo ngôi thứ 3 của người kể chuyện giấu mình => Lời gián tiếp. + Phương thức thứ 2: theo ngôi thứ nhất do nhân vật tự kể => Lời trực tiếp. + Phương thức 3: theo ngôi thứ ba của người kể tự giấu mình nhưng điểm nhìn, lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật.=> Lời nửa trực tiếp. Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi đã kể theo phương thức này. Xác định điểm nhìn trần thuật nghĩa là chỉ ra vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật, tường thuật câu chuyện trong tác phẩm. Nó chính là cách kể, phương thức kể, là tình huống diễn ngôn. Như thế, điểm nhìn trần thuật có mối quan hệ mật thiết với cấu trúc nghệ thuật, giọng điệu của tác phẩm, với cách cảm thụ thế giới, thái độ của nhà văn. Khi nghiên cứu một cấu trúc văn bản, người giáo viên cần quan tâm đến điểm nhìn, chỗ đứng mà tác giả lựa chọn. Chính điểm nhìn, chỗ đứng này chi phối cách miêu tả, đánh giá sự việc, câu chuyện và thành cơ sở để người đọc chúng ta cân nhắc, lựa chọn thái độ đối với hiện thực, nhân vật được phản ánh. Chương III Kết quả nghiên cứu Đề tài này được thực hiện bằng hai phương pháp 19
- 1. Kết quả từ quan sát thực tế Quan sát việc học tập trong các giờ ôn tập và vở bài tập cho về nhà của học sinh kết quả như sau: +Trong giờ ôn tập không khí học tập sôi nổi nghiêp túc và có tinh thần tự giác +Học sinh ôn tập mang tính hệ thống, khoa học, không học tủ +Bài tập ở các dạng khi cho về nhà các em dầu hoàn thành và đạt yêu cầu 2. Nghiên cứu qua sản phẩm Trước khi chưa áp dụng phương pháp này, thi khảo sát chất lượng lần 1 lớp 12 .Kết quả thực hiện ở hai lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy như sau: Nghị luận nghị luận về tác Lớp 12A Lớp 12B phẩm tự sự Mức điểm đạt Giỏi: 0/45 Giỏi:0/46 Khá:9/45 Khá:7/46 TB:28/45 TB:26/46 Yếu:8/45 Yếu:13/46 Sau khi chưa áp dụng phương pháp này, tiến hành thi khảo sát chất lượng lần 2 cũng trên 2 lớp đó .Kết quả như sau: Nghị luận nghị luận về tác Lớp 12A Lớp 12B phẩm tự sự Giỏi: 2/45 Giỏi:1/46 Khá:17/45 Khá:21/46 Mức điểm đạt TB: 23/45 TB:19/46 Yếu: 3/45 Yếu:5/46 C. KẾT LUẬN Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn văn theo cấu trúc đề thi là rất quan trọng và hướng dẫn học sinh làm thế nào để học sinh có kĩ năng làm văn lại còn quan trọng hơn.Thiết nghĩ rằng mỗi một người thầy, người cô trong quá trình giảng dạy cũng đã tự đúc rút cho mình những kinh nghiệm nhất định.Tuy nhiên điều mà chúng ta đáng bàn ở đây là chất lượng bài viết, điểm thi tốt nghiệp của học sinh như thế nào thì mới là điều chúng ta quan tâm. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Soạn dạy bài Clo hóa học 10 ban cơ bản theo hướng phát triển năng lực học sinh
23 p | 55 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p | 34 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p | 56 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào dạy học truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
33 p | 73 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 cơ bản phân dạng và nắm được phương pháp giải bài tập phần giao thoa ánh sáng
23 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 một số kĩ năng học và làm bài thi trắc nghiệm khách quan môn Vật lí trong kì thi Trung học phổ thông quốc gia
14 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh giải các bài tập gắn với chủ đề thực tiễn trong chương trình toán lớp 10 THPT
73 p | 16 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11
28 p | 65 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 25 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 34 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn sử dung phần mềm Zipgrade chấm trắc nghiệm bằng điện thoại smartphone và ứng dụng máy tính cầm tay vào làm nhanh bài tập toán trắc nghiệm thi THPT quốc gia
108 p | 50 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học và làm bài trắc nghiệm phần kỹ năng sử dụng Atlat địa lí Việt Nam, biểu đồ, bảng số liệu nhằm nâng cao kết quả trong kì thi THPT quốc gia
30 p | 44 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh học môn Sinh học 12 Trung Học Phổ Thông theo định hướng phát triển năng lực tự học của học sinh
36 p | 50 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh cách vẽ hình chiếu trục đo (HCTĐ) của vật thể bằng cách dựng mặt phẳng cơ sở
26 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn