intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập những tác phẩm tự sự

Chia sẻ: Nguyễn Biên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

107
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm đề tài Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập những tác phẩm tự sự được nghiên cứu với các nội dung: Nâng cao hiệu quả học tập và giúp các em thi tốt nghiệp THPT đạt kết quả tốt nhất; Ổn định tâm lý giảm bớt tâm lý căng thẳng thi cử cho các em; Giúp các em hình thành phương pháp tự học, tự sáng tạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập những tác phẩm tự sự

  1.                                                    A. PHẦN MỞ ĐẦU  1. Lý do chọn đề tài        Đối với  học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 12 thi cử luôn là một áp lực   gây căng thẳng tâm lí. Thời gian ôn tập không nhiều, kiến thức của các môn  thi thì quá lớn. Vậy làm thế nào để cho việc ôn tập 6 môn thi tốt nghiệp và thi  Đại học đạt kết quả tốt ? Thiết nghĩ đây là một bài toán không đơn giản cho  học sinh và cũng là cho mỗi người thầy trong quá trình hướng dẫn học sinh   yêu quý của mình ôn thi đạt hiệu quả.      Trong thực tế các môn thi tốt nghiệp THPT, môn Ngữ văn bao giờ cũng là  một trong những môn cố định có tính bắt buộc đối với các kì thi. Môn học này  chiếm một lượng kiến thức tương đối lớn đòi hỏi học sinh cần phải có kế  hoạch ôn tập chu đáo thì mới có thể  đạt được điểm cao. Để  làm được điều   này bên cạnh việc nắm vững các kĩ năng làm bài đòi hỏi mỗi học sinh cần   phải có phương pháp ôn tập hữu hiệu thì mới có thể  đạt được kết qủa tốt.  Tuy nhiên, vấn đề  học môn Văn hiện nay không phải học sinh nào cũng làm  được điều đó.       Để  tránh gây áp lực căng thẳng vể  tâm lí và tạo được hứng thú cho học  sinh trong quá trình ôn thi, vấn đề  đặt ra cho mỗi người thầy là cần phải có   một phương pháp thiết thực để hướng dẫn các em ôn tập đạt được hiệu quả  cao nhất.       Trong quá trình ôn tập môn Ngữ văn và hướng dẫn cho các em thi cử thiết   nghĩ sẽ  có rất nhiều phương pháp được áp dụng và tất nhiên mỗi phương   pháp đều có những  ưu điểm nhược điểm nhất định. Song tôi thấy hiệu quả  vẫn là phương pháp hướng dẫn ôn tập cho học sinh theo cấu trúc đề  thi.  Trong những năm gần đây cấu trúc đề  thi gồm có hai phần: phần dành chung   cho tất cả  các thí sinh và phần danh riêng cho từng ban để  cho các em lựa   chọn. Cho dù thuộc về ban nào đi chăng nữa thì đề thường yêu cầu nghị luận   về các vấn đề sau: + Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ. + Nghị luận về một tác phẩm văn xuôi, một đoạn trích văn xuôi. + Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.  1
  2.        Trong phạm vi đề tài này, tôi muốn đi vào một vấn đề  cụ thể: “Hướng  dẫn học sinh lớp 12 ôn tập những tác phẩm tự  sự” với mong muốn tháo  gỡ những  khó khăn, những băn khoăn của các em khi làm văn, giúp các em thi cử đạt kết  quả tốt. 2. Mục đích nghiên cứu + Nâng cao hiệu quả học tập và giúp các em thi tốt nghiệp THPT đạt kết quả  tốt nhất. + Ổn định tâm lý giảm bớt tâm lý căng thẳng thi cử cho các em. + Giúp các em hình thành phương pháp tự học, tự sáng tạo. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ­Đối tượng nghiên cứu: Hướng dẫn học sinh lớp 12 cách ôn tập các tác phẩm   văn xuôi .  ­Phạm vi nghiên cứu: Học sinh các lớp 12 mà tôi là người trực tiếp giảng dạy. 4. Phương pháp nghiên cứu ­Phương pháp khảo sát thực tế  qua các kì thi: kiểm tra định kì, thi khảo sát   chất lượng, thi thử tốt nghiệp và thi tốt nghiệp THPT. ­Phương pháp nghiên cứu qua sản phẩm: bài viết của học sinh và thống kê kết  quả điểm kiểm tra.                                                    B.  PHẦN NỘI DUNG                                                             Chương I:                  Những cơ sở của việc hướng dẫn ôn tập những tác phẩm tự  sự. 1. Cơ sở nhận thức     Nhận thức là sự  phản ánh thế  giới khách quan vào bộ  óc người nhưng sự  phản ánh này không phải đơn giản, thụ  động mà là quá trình biện chứng dựa   2
  3. trên hoạt động tích cực của chủ thể  trong quan hệ đối với khách thể. Nhưng  không phải cá nhân nào cũng đều là chủ  thể  của nhận thức. Con người trở  thành chủ  thể  nhận thức khi tham gia vào hoạt động xã hội nhằm biến đổi   nhận thức khách thể. Trong nhà trường học sinh chính là chủ  thể  của hoạt   động nhận thức; còn khách thể chính là những tri thức kinh nghiệm. Theo cơ  sở triết học: con người tự làm ra mình bằng chính hoạt động của mình nhưng   cái quan trong là làm ra cái đó như  thế  nào vào bằng cách nào? Từ  cơ  sở   ấy   chúng ta có thể nói một cách đơn giản các em học sinh lớp 12 không chỉ phải   chỉ đơn giản là ôn cái gì mà điều quan trọng là ôn như thế nào? 2. Cơ sơ thực tiễn       Tác phẩm tự sự thường chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong các bài học của   học sinh lớp 12 ôn thi tốt nghiệp THPT. Cách làm bài nghị  luận về  một tác   phẩm tự sự không đơn giản so với các câu hỏi khác trong cấu trúc một đề thi.   Thực tế cho thấy khi nghị luận về một tác phẩm tự  sự, phần nhiều học sinh   khó đạt điểm cao so với các dạng câu hỏi nghị  luận khác. Chính vì vậy việc  học các tác phẩm tự sự đối với các em rất ngại, thường hay đối phó hoặc phụ  thuộc vào tài liệu, văn mẫu khi làm bài mà không có sự  độc lập, tư  duy sáng  tạo.       Qua kết quả thức tế mà tôi thống kê, hầu hết các em học sinh lớp 12 chưa   thực sự có kinh nghiệm và kĩ năng về cách làm bài nghị luận về một tác phẩm  tự sự do đó kết quả thi môn Ngữ văn thường thấp. Vấn đề đặt ra cần phải có  một cách hướng dẫn cụ thể mang tính khoa học để giúp các em tháo gỡ những   khó khăn trong quá trình làm bài.                                                               Chương II                         Nội dung hướng dẫn ôn tập những tác phẩm tự sự.        Tự sự là phương thức tái hiện đời sống qua các sự kiện, biến cố và hành  vi con người trong toàn bộ  tính khách quan của nó.  Ở  đây, tư  tưởng và tình  cảm của nhà văn thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động của con người,   nhà văn kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngoài mình, khiến cho người đọc có  cảm giác rằng hiện thực được phản ánh trong tác phẩm là một thế  giới tạo   3
  4. hình xác định đang tự  tồn tại, phát triển, không phụ  thuộc vào tình cảm, ý   muốn của người viết.     Để hiểu được nội dung phản ánh, để phân tích được các giá trị về  mặt tư  tưởng lẫn nghệ  thuật của một tác phẩm tự  sự, người giáo viên cần hướng   dẫn học sinh cách ôn tập như sau:  1/  Cần đọc kĩ và tóm tắt chính xác cốt truyện của mỗi tác phẩm.   ­ Để có thể làm bài đạt kết quả tốt về một tác phẩm văn xuôi thì tóm tắt cốt   truyện là yêu cầu không thể  thiếu, việc tóm tắt chính là cơ  sở  để  từ  đó tìm  hiểu các vấn đề khác của tác phẩm  ­ Tùy vào từng mục đích mà đưa ra yêu cầu của việc tóm tắt và như vậy tất   nhiên sẽ có nhiều cách tóm tắt khác nhau song người giáo viên hướng dẫn học   sinh tóm tắt theo cốt truyện. Vậy tóm tắt theo cốt truyện là như thế nào?  ­ Hiểu một cách ngắn gọn, cốt truyện là hệ  thống sự  kiện cụ  thể  được tổ  chức theo yêu cầu tư  tưởng và nghệ  thuật nhất định của nhà văn.   Nhờ  cốt  truyện, nhà văn thể hiện sự hình thành, đặc điểm của mỗi tính cách cũng như  sự  tác động qua lại giữa các tính cách. Cũng nhờ  cốt truyện, nhà văn tái hiện   các xung đột xã hội, chứng tỏ  năng lực, cách thức chiếm lĩnh thực tại khách  quan của mình. Dù đa dạng, mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận  động có hình thành, phát triển và kết thúc.  ­ Mỗi cốt truyện thường bao gồm các thành phần sau: +Trình bày: giới thiệu thời kì lịch sử, khung cảnh cụ thể của sự việc + Khai đoan: nêu tình huống, vấn đề  nảy sinh để  người đọc chú ý theo dõi. +Phát triển:  diễn tả  sự  tiến triển của hành động, của tính cách, của mâu   thuẫn, xung đột. + Đỉnh điểm (hoặc cao trào): hành động, tính cách, mâu thuẫn được phát triển   đến độ cao nhất, căng thẳng nhất +Kết cục (hoặc mở nút): giải quyết, kết thúc một quá trình phát triển của mâu  thuẫn. ­ Một cách đầy đủ, theo trình tự  thông thường là như  vậy. Tuy nhiên, không  phải bất cứ  cốt truyện nào cũng bao hàm đầy đủ  các thành phần như  vậy.  Mặt khác, trình tự các thành phần ấy cũng biến hóa sinh động như cuộc sống   muôn màu và tùy theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. 4
  5. ­ Từ  khái niệm xác định như  trên, muốn tóm tắt được cốt truyện một tác   phẩm tự sự, người giáo viên cần hướng dẫn các em phải đọc kĩ tác phẩm sau   đó trả lời được những câu hỏi sau: +   Hoàn   cảnh   xã   hội,   thời   kì   lịch   sử   mà   tác   phẩm   phản   ánh,   tái   hiện? + Chủ đề của tác phẩm? + Nhân vật chính của tác phẩm và các bước phát triển của tính cách, của số  phận nhân vật  ấy? Các chi tiết, sự  kiện quan trọng trong tác phẩm tác động   tới cuộc đời nhân vật?       Trên cơ sở đọc kĩ tác phẩm, nắm vững kiến thức cơ bản theo yêu cầu trên  mới có thể đi đến xây dựng văn bản tóm tắt. Ví dụ : Tóm tắt truyện Rừng Xànu (Nguyễn Trung Thành) Mở  đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn trong “tầm đại bác ”của  giặc, đang  ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xô Man. Sau 3 năm đi lực   lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở  thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ  kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ  Mết đã kể  cho cả  dân  làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, Tnú cùng Mai   tham gia nuôi giấu anh Quyết­ cán bộ cách mạng­ từ nhỏ. Giặc bắt Tnú sau 3  năm anh lại vượt ngục Kon Tum trở  về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú  lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị  chiến đấu. Giặc  nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn  bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, Tnú đã nhảy xổ ra giữa bọn lính  nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm dầu xà   nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã  nổi dậy   giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng.  Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết  và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước  mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời. Để xây dựng văn bản tóm tắt tác phẩm, điểm đáng nói nữa là rèn luyện  về  lời văn. Độ  dài, ngắn của một văn bản tóm tắt tùy thuộc vào yêu cầu cụ  thể. Song nhìn chung, lời văn tóm tắt cần gọn gàng, súc tích, hàm chứa lượng  thông tin cao. Tránh lối viết chỉ một ý mà quá nhiều câu, dùng nhiều từ  đồng  nghĩa ở một mệnh đề. Bài tóm tắt nên có ngắt đoạn, chuyển ý để người đọc  nắm được các phần tác phẩm, nắm được diễn tiến của dòng cốt truyện. 5
  6. Ví dụ: Tóm tắt truyện Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)       Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng   ven biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để  chụp một tấm   ảnh cho cuốn lịch năm sau.           Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ  sĩ đã phát hiện và chụp được  “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện   trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc   hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu   đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả  lại cha mình.        Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã  ra tay can thiệp... Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của  Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ  nữ  ấy đã từ  chối sự  giúp đỡ  của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ  lão chồng   vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích  cho sự từ chối trên.         Rời vùng biển với khá nhiều  ảnh, người nghệ  sĩ đã có một tấm được   chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy.               Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên   cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng  thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.   ­ Như  vậy cách tóm tắt cốt truyện thể  hiện mức độ  thâm nhập tác phẩm.   Nếu không tóm tắt được tác phẩm thì đồng nghĩa với việc không nhớ  cốt  truyện sẽ  khó có thể  làm bài. Do đó việc tóm tắc tác phẩm và yêu cầu bắt  buộc đối với học sinh. 2. Cần chú ý đến ý nghĩa nhan đề của tác phẩm: ­ Như chúng ta biết, tác phẩm văn học là con đẻ tinh thần của người nghệ sĩ.  Việc sáng tác đã khó nhiều khi việc đặt tên lại càng khó hơn. Tên tác phẩm   không phải là cho nó cái tên để  gọi mà là cả  một dụng ý, một ý nghĩa nghệ  thuật. Ví dụ: Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân. ­ Gợi sắc thái đối lập ­ Tình cảnh ngang trái, một tình huống đặc biệt 6
  7. ­ Còn có thể gợi về cái tên của nhân vật trong tác phẩm Lấy một ví dụ  khác. Khi đọc truyện “ Những đứa con trong gia đình” của  Nguyễn Trung Thành thì cần đặt ra cẩu hỏi: tại sao tác giả  lại đặt cho tác  phẩm cái tên như vậy? Ý nghĩa của nó? ­ Gợi lên cho người đọc hình ảnh những đứa con sinh ra trong một gia đình có  truyền thống cách mạng đang nối tiếp và phát huy con đường lí tưởng của cha   ông. ­ Thể hiện cái nhìn hiện thực có chiều sâu mang tính độc đáo của Nguyễn Thi:  Ông đã chọn lăng kính gia đình để nhìn ra cả cuộc chiến đấu lớn của nhân dân  MN. Cách nhìn này là một sự  phát hiện, khám phá mới mẻ: sự  tiếp nối giữ  hiện tại và quá khứ, sự  hoà quyện giữa tình cảm gia đình và tình cảm cách  mạng tạo nên sức mạnh thiêng liêng của con người Việt nam, dân tộc Việt  nam. ­ Nhà văn muốn ta nghĩ đến không chỉ một gia đình, mà cả  một tổ  quốc đang   hào hùng chiến đấu được sinh ra từ sức mạnh đau thương. 3. Cần chú ý đền tình huống và chi tiết trong tác phẩm 3.1. Vấn đề tình huống truyện. ­ Nếu như tứ thơ giữ một vai trò quan trọng đối với thơ  trữ  tình, thì với văn   xuôi tự sự, tình huống truyện có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của   tác phẩm. Nếu tạo được một tình huống truyện xem như  đã tạo được một   tiền đề khá vững chắc cho sự thành công của tác phẩm. Do đó các cây bút tài   năng thường ý thức đến điều này.   Ví dụ: Truyện“Vợ Nhặt”, Kim Lân  đã xây dựng tình huống truyện độc đáo.   Có thể  nói tình huống truyện của “Vợ  Nhặt” được xây dựng trên cơ  sở  về  một cuộc hôn nhân lạ lùng giữa Tràng và cô “vợ nhặt”. + Hôn nhân là một trong những việc hệ  trọng nhất của đời người, của cuộc  sống nhân sinh. Có lẽ  chính vì vậy mà người xưa thường nhắn nhủ  “Trăm   năm tính cuộc vuông tròn ­ Phải dò cho tận lạch nguồn cuối sông” hay “Tậu  trâu, cưới vợ, làm nhà. Trong ba việc ấy thầy là khó ghê”. + Đọc truyện ngắn Vợ Nhặt, Kim Lân đã cho ta thấy cái việc thiêng liêng ấy  lại biến thành trò đùa. + Cuộc sống không ra sống, cuộc sống cứ phản phất hơi hướng cái chết với   ám ảnh cái đói. Bối cảnh như thế một cuộc hôn nhân lạ lùng đã diễn ra: Tràng  7
  8. gã trai nghèo khổ, xấu xí, thô kệch, lại là dân ngụ cư, bấy lâu nay chẳng có ai  thèm ngó tới. Thế mà bỗng dưng anh ta lại “nhặt” được vợ một cách dễ dàng,  gần như là cho không. Quả giá trị  của Tràng cũng như  địa vị  của cô gái hoàn  toàn bị đảo lộn. Không gờ người ta có thể láy đựơc vợ với cái giá rẻ như vậy  và cũng không ngờ, một người phụ nữ có thể bị  nhặt về  làm vợ như  một cái  rơm cái rác bên đường. + Hôn nhân vốn là biểu trưng của hạnh phúc, nhưng cuộc hôn nhân của Tràng   và cô vợ  nhặt lại diễn ra trong những ngày tháng đau buồn đói kém nhất của   dân tộc. + Cái đói “tràn đến” lúc nào không ai biết: Sự hiện hình của nó giống như một  thảm họa, một cơn cuồng phong, càn quét mọi sinh linh. Người sống xanh   xám đi lại dật dờ như những bóng ma. Người chết: “như ngả rạ”, không buổi  sáng nào người trong làng đi chợ, hay đi làm đồng  không gặp ba, bốn cái thây   nằm cỏng queo bên đường”. Câu văn tả người sống liền kề câu văn tả  người  chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh  ấn tượng về  ranh gi ới mong   manh giữa sống và chết. + Âm thanh: Tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” > “sứ  giả” của cái chết,   cõi âm > gợi ám ảnh rợn lạnh, âm khí. + Mùi vị: “vẩn lên mùi ẩm thối”: rác, mùi gây của xác người. + Tràng lấy vợ  vào đúng lúc cái đói đang diễn ra gay gắt, chẳng ai còn nghĩ   đến thứ gì khác ngoài miếng ăn, thậm chí bản thân anh ta cũng chưa chắc giữ  được mạng sống của mình qua cái nạn đói khủng khiếp này. Việc Tràng lấy  vợ trong hoàn cảnh này đồng nghĩa rước thêm về  nhà một miệng ăn, lo thêm  một nỗi lo, đưa mình đến với cái chết nhanh hơn. ­ Như vậy khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các tác phẩm văn xuôi ngoài việc  tóm tắt để  ghi nhớ  tác phẩm người giáo viên phải hướng dẫn các em chú ý  tình huống truyện. Bởi vì trong văn xuôi tự  sự  tình huống có vai trò đặc biệt  quan trọng đối với việc thể  hiện tính cách và số  phận nhân vật, chủ  đề  tác  phẩm.      Ví dụ: “Chiếc thuyền ngoài xa” của  nhà  văn Nguyên Minh Châu: + Để tạo nên hình tượng người đàn bà hàng chài nhà văn đã tạo ra tình huống   truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ số phận. 8
  9. + Truyện được kể  lại qua lời của nghệ  sĩ nhiếp  ảnh Phùng, một người lính  vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp   trở  về  chiến trường xưa để  chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề  nghị  của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có  một không hai: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa  thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ  lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như  sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người   lớn lẫn trẻ  con ngồi im phăng phắc như  tượng trên chiếc mui khum khum,   đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh đẹp đến nỗi Phùng có cảm giác bối rối, trái   tim như bị bóp thắt vào.  + Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng   phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ  người đàn bà bằng những  trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ  sung sướng đến  ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.  +Trong suốt câu chuyện, nguời đàn bà làng chài không có tên, chỉ được gọi là   “người đàn bà”, là “mụ”, là “ chị”­ những cách gọi phiếm định. Đó là người   đàn bà vô danh. Đây là một dụng ý nghệ  thuật của tác giả. Không phải nhà  văn "nghèo" ngôn ngữ  đến độ  không thể  đặt cho chị  một cái tên mà là vì chị  cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này. Dù vô danh,  nhưng người đọc sẽ không quên được chị bởi những nét đặc biệt về tính cách  và nỗi đau thân phận mà chị phải gánh chịu.              Tóm lại có thể xem tình huống là loại hoàn cảnh bất bình thường, hoàn  cảnh “có vấn đề” đòi hỏi con người trong đó phải xử  lí, phải vượt qua. Khi  được hoặc bị  đặt trong tình huống, con người ta mới bộc lộ  tính cách, bản  chất của mình một cách đầy đủ, chân thực nhất. Nếu cuộc sống là một dòng  sông thì tình huống là các xoáy nước. Nó chính là phần đậm đặc nhất của   cuộc sống, nơi thể hiện tập trung bản chất một xã hội, một thời đại.             ­Trong văn xuôi tự sự, xây dựng tình huống dường như  thành nhiệm  vụ tất yếu của nhà văn, trở thành nơi thử thách tài nghệ của nhà văn. Bởi thế,   phân tích tác phẩm thuộc thể loại này, điều quan trọng là phải xác định, khái  quát được tình huống và ý nghĩa của nó. Mối quan hệ  giữa tình huống với   nhân vật thể  hiện mối tương quan giữa hoàn cảnh và tính cách. Hoàn cảnh  càng có tính điển hình, càng có độ gay cấn thì càng dễ nổi bật tính cách điển   9
  10. hình   của   nhân   vật.            ­ Khi phân tích tình huống cần phải chú ý tới hiệu quả nghệ thuật của  nó đối với việc thể hiện chủ đề tác phẩm, tư tưởng của nhà văn.      Ví dụ: Ý nghĩa của tình huống truyện trong tác phẩm “Vợ Nhặt” của   Kim Lân  +Giúp tác giả xây dựng tính cách nhân vật một cách chân thực + Làm nổi bật giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm + Giá trị hiện thực :  ­Hiện thực về tội ác của giặc ­Hiện thực về nỗi đau khổ, đói kém của nhân dân ­Hiện thực về  tư  tưởng của quần chúng : Đói kém sẽ  dẫn tới liều lĩnh ;   nhưng đói kém cùng quẫn cũng sẽ dẫn họ đến với cách mạng. + Giá trị  nhân đạo  : Trong bất kì hoàn cảnh nào, người dân lao động không  hoàn toàn tuyệt vọng họ vẫn luôn hướng về sự sống và ánh sáng ; hạnh phúc   và tương lai.          ­Ngoài việc xác định và phân tích ý nghĩa của tình huống truyện người   giáo viên cần cho học sinh so sánh tình huống truyện trong mỗi tác phẩm của   từng nhà văn.        Ví dụ: “Vợ Nhặt” (Kim Lân) và “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh   Châu) cả hai đều xây dựng được tình huống truyện độc đáo, nhưng tình huống  trong mỗi câu chuyện lại có sự khác nhau.Tình huống trong “Vợ Nhặt” là tình  huống về một cuộc hôn nhân lạ lùng giữa Tràng và cô vợ nhặt.Còn tình huống   trong chiếc thuyền ngoài xa là tình huống mang tính phát hiện về  “cảnh đắt  trời cho” với hiện thực nghiệt ngã cuộc sống của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng . 3.2. Chi tiết trong tác phẩm văn xuôi tự sự.         Một tác phẩm văn xuôi hay lắm khi hay  ở chi tiết, hình ảnh cho nên khi   ôn tập các tác phẩm văn xuôi người giáo viên phải hướng dẫn học sinh chú ý  đến chi tiết đặc sắc trong tác phẩm và đi tìm ý nghĩa của các chi tiết đó.    Ví dụ: Đọc “Thuốc” của Lỗ Tấn mà không chú ý đến nội dung và ý nghĩa  về   những người trong quán trà của lão Hoa đã bàn luận về  thuốc thì quả  là  một sự thiếu sót. Hay đọc “Số phận con người” của Sô­lô­khốp  cần phải chú ý chi tiết: khi Xô­cô­lôp đưa đứa con trai mới nhận về  nhà, bà   chủ nhà “ Nhìn nó ăn ngấu nghiến mà nước mắt ròng ròng…”.Có thể nói đây   10
  11. là một chi tiết nhỏ  nhưng lại có ý nghĩa lớn.Vì tiếng khóc của bà chủ  nhà là  tiếng khóc: + Khóc thương, thông cảm cho hoàn cảnh tội nghiệp của bé Vania. + Khóc thương cho cảnh ngộ của Xôcôlốp. + Cảm phục, ngưỡng mộ trước lòng tốt của Xôcôlôp,một người vượt lên nỗi   đau của chính mình để yêu thương, cưu mang một người bất hạnh khác. + Tiếng khóc tủi thân cho hoàn cảnh của chính mình (không có con cái) + Và tiếng khóc ấy còn là tiếng khóc của chính tác giả thương xót cho những   “số phận con người” sau chiến tranh.  Ví dụ: Khi đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành mà không chú ý đến  chi tiết tác giả miêu tả hình ảnh “bàn tay của Tnú” thì quả là một sự thiết sót   lớn.         Bàn tay là xương thịt, là một phần cơ thể của chúng ta. Đây là điểm đầu  hết sức nhạy cảm của hệ thần kinh, là biên giới xúc giác nối liền chủ thể với  ngoại giới, cũng là công cụ  vô cùng quan trọng, linh hoạt để  con người lao  động, chiến đấu và bộc lộ tâm tư tình cảm.Trong truyện ngắn “Rừng xà nu”,  nhà văn Nguyễn Trung Thành đã đặc biệt đi sâu vào khắc hoạ  hình  ảnh bàn   tay của nhân vật Tnú với một dung ý sâu sắc.Bàn tay của Tnú không phải là  bàn tay của người lao động với tinh thần “ bàn tay ta làm nên tất cả.Có sức   người sỏi đá cũng thành cơm”, cũng không phải bàn tay của người nghệ  sĩ  trong sáng tạo nghệ  thuật.Bàn tay của Tnú là bàn tay của người chiến sĩ, bàn  tay trong máu lửa khốc liệt của chiến tranh, trong cuộc chiến sinh tồn, một   mất một còn với kẻ thù hung ác.Có hiểu như vậy mới thấy hết được dụng ý   của tác giả khi miêu tả những đoạn văn đầy ý nghĩa về đôi bàn tay của Tnú         Tóm  lại trong một tác phẩm thường có nhiều chi tiết nhưng không phải  mọi chi tiết đều có giá trị  ngang bằng nhau. Có các chi tiết có thể  lướt qua   hoặc bỏ  đi cũng không sao. Có các chi tiết thể  hiện thần thái nhân vật, cô   đọng nội dung, giá trị của tác phẩm, như một giọt nước mà qua đó có thể thấy  cả cốc nước. Bởi thế, người giáo viên khi hướng dẫn học sinh đọc văn, phân  tích văn phải biết lướt qua những chi tiết vụn vặt, ngẫu nhiên, đồng thời nắm  bắt lấy và tập trung phân tích các chi tiết tiêu biểu, đắt giá nhất. Làm được   điều này chính là một căn cứ  để  đánh giá năng lực cảm thụ  tác phẩm, đồng   thời đánh giá phương pháp, kĩ năng của học sinh. Nhân đây, cũng xin nói với  11
  12. học sinh rằng một bài viết hay (cũng như một ca sĩ hát) phải có chỗ đậm chỗ  nhạt, chỗ thăng chỗ  trầm chứ không nên đều đều, đơn giọng. Muốn đạt đến   điều này đương nhiên cần nhiều điều kiện, yếu tố, cần phải luyện bút công  phu. 4. Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.       ­ Trong thực tế học văn, làm văn, khá nhiều học sinh còn lúng túng khi gặp  kiểu bài phân tích nhân vật trong tác phẩm tự  sự. Lúng túng này do nhiều   nguyên nhân. Có phần do cách đọc và nắm tác phẩm để  dẫn chứng khi làm   bài. Có phần do chưa thuần thục phương pháp, kĩ năng, chưa biết tìm ra các  vấn đề phân tích. Lại có phần bởi chưa thực hiểu mục đích, ý nghĩa của việc  mình đang làm. Việc gì cũng thế, khi chưa thật hiểu mục đích công việc thì  khó có thể làm tốt, làm một cách có ý thức cao được.        ­ Trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi  mang chở  nội dung phản ánh, tư  tưởng, chủ  đề  của tác phẩm, là nơi kí thác  quan niệm về  con người, về  nhân sinh của nhà văn. Bởi thế, phân tích nhân  vật trở  thành con đường quan trọng nhất để  đi đến giá trị  hiện thực, giá trị  nhân đạo của tác phẩm, để  nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân  vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh  độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí  một thời đại nào đó.        ­ Không phải không còn những học sinh chưa hiểu thật đầy đủ rằng nhân   vật trong tác phẩm văn học là “con đẻ”, là sản phẩm sáng tạo của một nhà  văn nhất định. Nó là kết quả của một quá trình khám phá, chiêm nghiệm. Nó là  sản phẩm từ sự tổng hợp, nhào nặn. Cũng do thế, nhân vật mang dấu ấn của  cá nhân sáng tạo ra nó. Không ít học sinh còn đối chiếu máy móc nhân vật với   hiện thực lịch sử, với sự thực cuộc đời để đánh giá đúng, sai, hay, dở mà quên   đi một sự thực khác: nhân vật có thể mang màu sắc “siêu thực”, có thể  đi lối   riêng theo cách dẫn dắt, theo ý đồ  và bút pháp nghệ  thuật của nhà văn. Phân  tích nhân vật còn để nhận ra tài năng, đặc điểm bút pháp của nhà văn, để thêm  thú vị khi thưởng thức một giá trị thẩm mĩ.      ­ Việc phân tích một nhân vật cần được soi tỏ dưới các ánh sáng trên. Khi   phân tích một nhân vật phải vươn lên khái quát được các giá trị trên. Nhắc lại   12
  13. mấy điều này, là  để  người  giáo  viên khi  hướng  dẫn  học  sinh ôn tập cần   lưu ý: +Thứ nhất, biến bài phân tích nhân vật thành một bài miêu tả, ca ngợi một con   người nào đó ngoài đời (nhất là khi phân tích loại nhân vật chính diện có các  phẩm chất, vẻ  đẹp cao quí). Quá trình phân tích một nhân vật văn học cần   gắn với sự  cảm thụ, đánh giá bút pháp nghệ  thuật miêu tả  của nhà văn. Chữ  phân tích  ở  đây không nên hiểu chỉ  là một thao tác nghị  luận (chỉ  ra các đặc  điểm của nhân vật) mà bao hàm cả  sự  nhận xét, đánh giá bằng cảm thụ, suy  nghĩ của mình. +Thứ hai, bài phân tích nhân vật chỉ dừng ở cấp độ cụ thể mà không nâng lên  tầm khái quát để  rút ra tư  tưởng, quan niệm của nhà văn. Nên nhớ  rằng khi  xây dựng một nhân vật (nhất là nhân vật chính) bao giờ  nhà văn cũng muốn  gửi gắm qua đó một cách nhìn nhận về xã hội, một quan niệm nhân sinh. Nếu   phân tích nhân vật mà chỉ dừng ở nhân vật nghĩa là chưa ý thức được vị trí của  nhân vật ấy trong chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.   ­ Một nhân vật văn học thành công cũng như một con người sinh động ngoài  đời vậy. Đó là “con người này” trong sự phân biệt với con người khác. Nó có   tính cách riêng, số phận riêng không thể lẫn. Bởi thế, suy cho cùng, phân tích  một nhân vật làm sáng tỏ một tính cách, một số phận. Song vấn đề là nhà văn  không trực tiếp bước vào tác phẩm mà nói lên điều  ấy. Tính cách, số  phận  nhân vật hiện lên sinh động trong tác phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó  chính là những phương diện học sinh­ người phân tích cần lưu ý. 4.1. Lai lịch  ­ Đây là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách, chi   phối con đường đời của nhân vật cũng như mục đầu tiên ta thường khai trong  bản “Sơ yếu lí lịch” là thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình vậy. ­ Lưu ý không phải tác phẩm nào chúng ta cũng cần phải chú ý đến lai lịch   của nhân vật.Chúng ta chỉ chú ý đến lai lịch của nhân vật khi đó là một dụng ý  của nhà văn trong việc khắc hoá số phận và tính cách của nhân vật mà thôi.  4.2. Ngoại hình    ­Trong văn học, nhà văn miêu tả  ngoại hình nhân vật thường với hai mục  đích. 13
  14. + Thứ nhất, để cá thể hóa nhân vật, nghĩa là tạo ấn tượng riêng về  nhân vật  ấy (không thể lẫn vào các nhân vật khác). + Thứ hai, qua vẻ bề ngoài mà phần nào hé mở  tính cách, bản chất của nhân  vật  ấy. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số  nét khắc họa chấm phá có  thể  giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư  thế  cùng bản chất của một  nhân vật nào đó. Một nhân vật thành công bao giờ  cũng là “con người này”  khác với con người kia, con người nọ… ­Khi cảm nhận, phân tích ngoại hình nhân vật cần thấy rằng phần lớn trường   hợp, đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài.   Song cũng có những trường hợp cái bên trong và vẻ  bên ngoài của nhân vật   “trật khớp”, thậm chí trái ngược nhau.  ­Trong phân tích nhân vật, cần qua các chi tiết ngoại hình mà “đọc” đúng nội   tâm, bản chất của đối tượng. 4.3. Ngôn ngữ ­Qua lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta   có thể nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của con người   ấy.  ­Ngôn ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ,  nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống   với nhiều nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ. 4.4. Nội tâm ­Khi phân tích nhân vật cần quan tâm đến thế  giới bên trong với những cảm  giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ… Thế giới bên trong này thường tương tác  với thế  giới bên ngoài (môi trường thiên nhiên, sự  biến chuyển của đời sống  xã hội, quan hệ và hành vi của các nhân vật khác xung quanh) đồng thời cũng  có qui luật vận động riêng của nó. Một nghệ  sĩ tài năng thường cũng là một  bậc thầy trong việc nắm bắt và diễn tả tâm lí con người. Miêu tả  chân thực,   tinh tế  đời sống nội tâm nhân vật là chỗ  thử  thách tài nghệ  nhà văn và cảm   nhận, phân tích được một cách kĩ lưỡng, thuyết phục mặt này cũng thành nơi  chứng tỏ năng lực của người phân tích tác phẩm. 4.5. Cử chỉ, hành động ­Bản chất của con người ta bộc lộ  chân xác, đầy đủ  nhất qua cử  chỉ, hành   động. Phân tích nhân vật, vì thế, cần tập trung khai thác kĩ phương diện này.   14
  15. Đó là sự  thật hiển nhiên. Nhưng đáng chú ý là bản chất nhân vật không chỉ  bộc lộ ở việc nhân vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật nữa. 4.6. Lời các nhân vật khác về nhân vật ­Để khắc họa tính cách, bản chất một nhân vật, nhà văn còn mượn lời nói, lời  đánh giá của các nhân vật khác. Lắm khi, nhà văn còn “tổ chức” cho các nhân  vật khác thảo luận, bàn bạc về nhân vật ấy. ­Sau khi trình bày sáu phương diện cụ  thể  lúc phân tích nhân vật trong tác  phẩm tự sự, chúng tôi muốn lưu ý các bạn mấy điểm: + Thứ nhất: Không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy  đủ các phương diện này (lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội tâm, cử  chỉ, hành  động, qua lời các nhân vật khác). Tùy trường hợp mà có chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ  đậm, chỗ nhạt. Bởi thế, không phải cứ máy móc tìm đủ, phân tích đủ mà cần   biết tập trung, xoáy sâu vào các phương diện thành công nhất của tác phẩm.   Cũng không cứ  phải tuần tự  theo sáu phương diện như  thế  mà nên sắp xếp   theo thực tế, làm sao cho bài văn của mình hấp dẫn. + Thứ  hai: Tránh lầm lẫn cấp độ  của những phương diện phân tích. Có thể  xem sáu phương diện đã nêu đồng đẳng và đều là sự  cụ  thể  hóa, hiện thực  hóa   của   tính   cách,   số   phận   nhân   vật.   Không   nên   xem   tính   cách   như   một   phương diện ngang bằng các phương diện ấy (như một vài cuốn sách về làm   văn lâu nay vẫn sắp xếp). Điều này không đúng về mặt lí luận và sẽ gây lúng  túng trong thực tế làm bài. + Thứ  ba: Nắm vững sáu phương diện cơ  bản đã nêu khi phân tích nhân vật  chính là điều có ý nghĩa định hướng cho việc đọc tác phẩm tự sự. Biết đọc tác   phẩm tự sự nghĩa là hiểu được, nhớ được nội dung phản ánh của tác phẩm và  mối quan hệ giữa các nhân vật, nắm được tính cách, số phận của các nhân vật   chính. Để có căn cứ phân tích, để có chất liệu làm bài, khi đọc tác phẩm cần  ghi nhớ các chi tiết, các hình ảnh về từng phương diện ấy. ­ Ví dụ: Về  nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài  xa(Nguyên Minh Châu) ­ Nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm này đã để  lại nhiều  ấn   tượng và cảm xúc trong lòng người đọc. Để tạo nên hình tượng người đàn bà   ấy nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này  mà nhân vật dần hé lộ số phận. 15
  16. ­ Truyện được kể  lại qua lời của nghệ  sĩ nhiếp  ảnh Phùng, một người lính   vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp   trở  về  chiến trường xưa để  chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề  nghị  của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện một “ cảnh đắt trời cho”. Cảnh   đẹp đến nỗi Phùng có cảm giác bối rối, trái tim như bị bóp thắt vào.  ­ Nhưng  đằng bức tranh tuyệt  đỉnh  ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng:  người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù,   người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ  sung sướng đến ngạc nhiên,  sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.  ­ Trong suốt câu chuyện, nguời đàn bà làng chài không có tên, chỉ được gọi là  “người đàn bà”, là “mụ”, là “ chị”_những cách gọi phiếm định. Đó là người  đàn bà vô danh. Đây là một dụng ý nghệ  thuật của tác giả. Không phải nhà  văn "nghèo" ngôn ngữ  đến độ  không thể  đặt cho chị  một cái tên mà là vì chị  cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này. Dù vô danh,  nhưng người đọc sẽ không quên được chị bởi những nét đặc biệt về tính cách  và nỗi đau thân phận mà chị phải gánh chịu.  a/ Lai lịch: Trước đây Chị vốn là con của một gia đình khá giả  nhưng số  phận đã không  may mắn với chị. Chị mắc bệnh đậu mùa. Di chứng để lại đó là cái xấu.  Cái   xấu xí thô kệch đã đeo đuổi chị như một định mệnh.   b/ Ngọai hình và hoàn cảnh sống: ­ Đó là một “người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của   đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ  rỗ  mặt. Khuôn  mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như  đang  buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.” ­Cặp mắt của chị  hay nhìn xuống thể  hiện sự  nhẫn nhục, câm lặng, dự  báo   một thân phận đầy bất hạnh.  ­Vì xấu xí không ai lấy nên chị trót có mang với một anh hàng chài nhà ở giữa   phá vẫn hay đến nhà chị  mua bả  về  đan lưới. Thế  rồi thành vợ  thành chồng.  Chị xuống ở luôn dưới thuyền. . Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất   vả, lam lũ, bấp bênh: “có nhiều tháng biển động phải ăn cây xương rồng luộc   chấm muối”. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật. 16
  17. => Những chi tiết miêu tả  ngoại hình và hòan cảnh sống đầy  ấn tượng của  tác giả đã làm hiện lên hình ảnh một người phụ nữ vất vả, cơ cực, lam lũ cả  một đời. c/ Tính cách và tâm hồn . ­ Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu, lão chồng của chị từ một anh con   trai “hiền lành nhưng cục tính” đã trở  thành một kẻ  vũ phu lỗ  mãng. Hắn đã  lấy phương pháp đánh vợ  để  giải tỏa những bế  tắc cuộc sống. Bị  chồng   thường xuyên đánh đập, hành hạ  bằng một chiếc thắt lưng của lính ngụy  ngày xưa: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ  khi nào lão   thấy khổ  quá là lại xách chị  ra đánh, như  là để  trút giận, như  đánh một con  thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho   ông nhờ". “Mày” ở đây là vợ ông ta. “Chúng mày” là vợ con của ông ta.   ­ Dù vậy,   chị  lặng thầm đón nhận “với một vẻ  cam chịu đầy nhẫn nhục,  không hề  kêu một tiếng, không chống trả  cũng không tìm cách chạy trốn”mà  coi đó là một lẽ đương nhiên. Thậm chí chị còn yêu cầu hắn “ Muốn đánh chị  thì đưa chị  lên bờ  để  đánh vì chị  không muốn để  những đứa con nhìn thấy  cảnh bố hành hạ mẹ”.  Vì đâu chị lại chịu đựng và cam chịu như vậy? ­ Vì đó là một người đàn bà giàu đức hi sinh và thương con.  + Khi đứa con chị là thằng Phác, vì quá thương mẹ  nên đã lao vào đánh lại cha  nó, chị  đã khóc, ôm chầm lấy nó mà kêu lên: “Phác, con  ơi!”. Hành động  ấy   thể  hiện nỗi đau tột cùng của người mẹ. Chị  muốn tạ  lỗi với con vì đã làm  tổn thương trái tim bé bỏng của nó, và cũng van xin con đừng làm những điều   có lỗi với cha mình. + Ra ngoài đời, chị  bộc lộ  vẻ  lúng túng sợ  sệt thật đáng thương. Khi được  mời đến tòa án để giải quyết bi kịch gia đình, chị chỉ dám chọn một góc tường   để ngồi. Sau đó được mời chị mới dám rón rén ngồi xuống mép ghế và cố thu  người lại. Nhưng khi phải lí giải nguyên nhân không chịu từ  bỏ  gã chồng vũ   phu hành hạ mình, thì chị tỏ ra sắc sảo không ngờ. Chị kiên quyết từ chối lời  đề  nghị  của chánh án Đẩu: “quý tòa… phạt tù con cũng được, đừng bắt con   bỏ nó…” Người đàn bà đau khổ kể lại câu chuyện cuộc đời mình nhằm gián tiếp đưa ra  những lí do khiến mình không thể bỏ chồng.  17
  18. + Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông  khỏe mạnh, biết nghề, để chung tay nuôi những đứa con khôn lớn nên người.   “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài  ở  thuyền   chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn   nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa.  + Chị  cũng là người vợ  luôn biết quý trọng chắt chiu những giây phút hạnh   phúc của đời thường, giản dị mà thật cảm động: “Ở  trên chiếc thuyền, cũng  có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Và “vui nhất là lúc  ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no.” Vẻ đẹp tâm hồn của chị gòn thể hiện ở thiên chức làm mẹ thiêng liêng và tình  thương con vô bờ. “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho   đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ,…đàn bà ở thuyền chúng tôi  phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. Chị  hiểu như thế  nào là   nỗi đau của những trẻ thơ sống trong cảnh bố mẹ ly dị. Chị không muốn nhìn  cảnh các con thấy bộ mẹ chia tay. Cũng vì thương con chị đã yêu cầu lão đàn   ông vũ phu mang chị lên bờ mà đánh vì sợ con nhìn thấy. Vì thương con mà chỉ  đưa thằng Phác lên bờ để sống.  Đó là triết lí sống thật giản dị mà sâu sắc vô   cùng! + Chị cũng hiểu và thông cảm cho chồng: chị thừa nhận chồng chị trước kia là  “anh con trai hiền lành nhưng cục tính”, chẳng qua vì đói nghèo, thất học, túng   quẫn lão chồng mới sinh ra vậy. Đây chính là sự hiểu đời, sự thông cảm và vị  tha của chị. Chị không hề oán trách chồng mà ngược lại chị rất cảm thông cho   hành động của chồng. Chồng chị là nạn nhân của hòan cảnh sống nghiệt ngã,  chứ không phải là một người cay nghiệt, độc ác trong bản chất. + Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ  bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ  đời. Thấp thoáng trong người đàn bà  ấy là bóng dáng của biết bao phụ  nữ  Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. ­ Bằng thủ pháp đối lập giữa vẻ bề ngòai và tâm hồn bên trong, giữa số phận  bất hạnh và lòng cao thượng khi xây dựng nhân vật, nhà văn đã kẳng định   những phẩm chất tốt đẹp, cao cả trong tâm hồn người phụ nữ nghèo khổ giữa  cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn. Chị hấp dẫn người đọc ở vẻ đẹp tình mẫu tử  18
  19. thiêng liêng, ở cách hóa giải bi kịch của cuộc đời mình bằng nguyên lí của tình  yêu thương, sự hi sinh và tha thứ  ­ Với việc tạo tình huống truyện độc đáo, ngôi kể, điểm nhìn nghệ thuật sắc   sảo, đa diện, lời văn giản dị  mà sâu sắc, qua câu chuyện của người đàn bà,  nhà văn đưa ra một thông điệp: Không thể  dễ  dãi, đơn giản trong việc nhìn  nhận mọi sự  vật, hiện tượng của cuộc sống mà phải có cái nhìn đa diện,   nhiều chiều, phổ  quát thì mới hiểu được những sắc cạnh của cuộc đời. Vì  “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”. 5/ Điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự      ­ Trong tác phẩm văn xuôi tự sự, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ  điểm nhìn, bằng quan điểm trần thuật nào đó. Thông thường có ba phương  thức trần thuật phổ biến trong tác phẩm tự sự: + Phương thức 1: theo ngôi thứ  3 của người kể  chuyện   giấu mình => Lời   gián tiếp. + Phương thức thứ 2: theo ngôi thứ nhất do nhân vật tự kể => Lời trực tiếp. + Phương thức 3: theo ngôi thứ  ba của người kể  tự  giấu mình nhưng điểm   nhìn, lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật.=> Lời nửa trực tiếp. Tác phẩm   “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi đã kể theo phương thức này.      ­ Xác định điểm nhìn trần thuật nghĩa là chỉ ra vị trí từ đó người trần thuật  nhìn ra và miêu tả sự vật, tường thuật câu chuyện trong tác phẩm. Nó chính là  cách kể, phương thức kể, là tình huống diễn ngôn. Như  thế, điểm nhìn trần  thuật có mối quan hệ  mật thiết với cấu trúc nghệ  thuật, giọng điệu của tác  phẩm, với cách cảm thụ  thế  giới, thái độ  của nhà văn. Khi nghiên cứu một  cấu trúc văn bản, người giáo viên cần quan tâm đến điểm nhìn, chỗ đứng mà  tác giả lựa chọn. Chính điểm nhìn, chỗ đứng này chi phối cách miêu tả, đánh   giá sự  việc, câu chuyện và thành cơ  sở  để  người đọc chúng ta cân nhắc, lựa  chọn thái độ đối với hiện thực, nhân vật được phản ánh.                                                       Chương III                                                   Kết quả nghiên cứu               Đề tài này được thực hiện bằng hai phương pháp 19
  20. 1. Kết quả từ quan sát thực tế    Quan sát việc học tập trong các giờ ôn tập và vở bài tập cho về nhà của  học sinh kết quả như sau: +Trong giờ ôn tập không khí học tập sôi nổi nghiêp túc và có tinh thần tự  giác +Học sinh ôn tập mang tính hệ thống, khoa học, không học tủ +Bài tập ở các dạng  khi cho về nhà các em dầu hoàn  thành và đạt yêu cầu 2. Nghiên cứu qua sản phẩm ­Trước khi chưa áp dụng phương pháp này, thi khảo sát chất lượng lần 1   lớp 12 .Kết quả thực hiện ở hai lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy như sau: Nghị   luận   nghị   luận   về   tác  Lớp 12A Lớp 12B phẩm tự sự Mức điểm đạt ­ Giỏi: 0/45 ­ Giỏi:0/46 ­Khá:9/45 ­ Khá:7/46 ­TB:28/45 ­TB:26/46 ­Yếu:8/45 ­Yếu:13/46 ­Sau khi chưa áp dụng phương pháp này, tiến hành thi khảo sát chất lượng   lần 2  cũng trên 2 lớp đó .Kết quả như sau: Nghị   luận   nghị   luận   về   tác  Lớp 12A Lớp 12B phẩm tự sự ­ Giỏi: 2/45 ­ Giỏi:1/46 ­Khá:17/45 ­ Khá:21/46 Mức điểm đạt ­TB: 23/45 ­TB:19/46 ­Yếu: 3/45 ­Yếu:5/46 C. KẾT LUẬN           Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn văn theo cấu trúc đề  thi là rất  quan trọng và hướng dẫn học sinh làm thế nào để học sinh có kĩ năng làm văn   lại còn quan trọng hơn.Thiết nghĩ rằng mỗi một người thầy, người cô trong   quá trình giảng dạy cũng đã tự  đúc rút cho mình những kinh nghiệm nhất  định.Tuy nhiên điều mà chúng ta đáng bàn ở đây là chất lượng bài viết, điểm   thi tốt nghiệp của học sinh như thế nào thì mới  là điều chúng ta quan tâm. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1