intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí luận văn học để giải quyết các yêu cầu của đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:56

25
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí luận văn học để giải quyết các yêu cầu của đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn” với mong muốn đem đến cho các thầy cô giáo và các em học sinh một tài liệu tham khảo hữu ích, cũng là góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí luận văn học để giải quyết các yêu cầu của đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Lí luận văn học là một bộ  môn của khoa học nghiên cứu văn học. Nó có   nhiệm vụ nghiên cứu bản chất, chức năng xã hội ­ thẩm mĩ và quy luật phát triển   của sáng tác văn học. Do đó nó có tác dụng xác định phương pháp luận và phương   pháp phân tích, cảm thụ  văn học. Đây là vấn đề  quan trọng không những cho   người sáng tác mà còn đặc biệt quan trọng đối với người học văn. Nhờ kiến thức  lí luận mà học sinh có thể nhận thức đúng vấn đề nghị luận. Khi làm bài, học sinh   biết nhận xét, đánh giá, bình luận...vấn đề; hiểu đúng đắn, sâu sắc những khái   niệm, thuật ngữ  văn học. Có thể nói, lí luận văn học đóng vai trò mở  đường, nó  như chiếc chìa khóa giúp người học văn “mở cửa” để đi vào khám phá văn học từ  quy mô rộng (một nền văn học) hay quy mô hẹp (tác phẩm văn học). Trong các kì thi chọn học sinh giỏi cấp Tỉnh và cấp Quốc gia những năm  gần đây, đề  thi đều yêu cầu phải vận dụng kiến thức lí luận văn học để  giải   quyết vấn đề. Song trên thực tế, bài làm của học sinh dễ “bỏ  ngỏ” phần lí luận  văn học hoặc hiểu chưa sâu, chưa đúng các khái niệm, thuật ngữ  văn học. Hơn  nữa, tri thức lí luận văn học được đưa vào giảng dạy  ở  bậc THPT còn rất ít ỏi.   Trong phân phối chương trình toàn cấp học, học sinh được học 05 bài lí luận văn   học với thời lượng là 9 tiết/333 tiết. Vậy khi bồi dưỡng học sinh giỏi, ngoài việc  trang bị kiến thức về tác phẩm, cần cung cấp thêm kiến thức lí luận văn học nào,  rèn cho các em kĩ năng vận dụng kiến thức đó ra sao quả là điều không đơn giản. Xuất phát từ thực tiễn trong quá trình ôn thi học sinh giỏi, tôi tiến hành  thực hiện chuyên đề  “Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí luận  văn học  để  giải  quyết các yêu cầu của  đề  thi học sinh giỏi  môn  Ngữ  Văn” với mong muốn đem đến cho các thầy cô giáo và các em học sinh một   tài liệu tham khảo hữu ích, cũng là góp phần vào việc nâng cao chất lượng  dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói chung. 1
  2. 2. Tên sáng kiến:  “Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí luận văn học  để  giải  quyết các yêu cầu của đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn”. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên:  Nguyễn Thị Tuyết Nhung. ­ Địa chỉ: Giáo viên trường THPT Nguyễn Thái Học. ­ Số điện thoại: 0986.229.678. ­ Email: tuesansan@gmail.com. 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Tuyết Nhung. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng trong lĩnh vực giảng dạy môn Ngữ  Văn mà trọng tâm là công tác  bồi dưỡng học sinh giỏi. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:  Năm 2017. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN I. Những kiến thức lí luận văn học cần bồi dưỡng cho học sinh 1. Giá trị văn học và tiếp nhận văn học 1.1. Giá trị văn học  ­ Giá trị  văn học là sản phẩm kết tinh từ  quá trình văn học, đáp ứng những nhu   cầu khác nhau của cuộc sống con người, tác động sâu sắc tới con người và cuộc  sống.  ­ Những giá trị cơ bản: Giá trị nhận thức, giá trị giáo dục, giá trị thẩm mĩ. 1.1.1. Giá trị nhận thức
  3. * Cơ sở: ­ Tác phẩm văn học là kết quả của quá trình nhà văn khám phá, lí giải hiện thực   đời sống rồi chuyển hoá những hiểu biết đó vào nội dung tác phẩm. Bạn đọc đến  với tác phẩm sẽ được đáp ứng nhu cầu về nhận thức. ­ Mỗi người chỉ sống trong một khoảng thời gian nhất định, ở những không gian   nhất định với những mối quan hệ  nhất định. Văn học có khả  năng phá vỡ  giới  hạn tồn tại trong thời gian, không gian thực tế của mỗi cá nhân, đem lại khả năng   sống cuộc sống của nhiều người, nhiều thời, nhiều nơi. ­>Giá trị  nhận thức là khả  năng của văn học có thể  đáp ứng được yêu cầu của   con người muốn hiểu biết cuộc sống và chính bản thân, từ đó tác động vào cuộc   sống một cách có hiệu quả. * Biểu hiện: ­ Quá trình nhận thức cuộc sống của văn học: nhận thức nhiều mặt của cuộc  sống với những thời gian, không gian khác nhau (Quá khứ, hiện tại, tương lai, các   vùng đất, các dân tộc, phong tục, tập quán,…).  ­ Quá trình tự nhận thức của văn học: người đọc hiểu được bản chất của con   người   nói   chung   (mục   đích   tồn   tại,   tư   tưởng,   khát   vọng,   sức   mạnh   của   con   người); từ đó mà hiểu chính bản thân mình.  1.1.2. Giá trị giáo dục * Cơ sở: ­ Con người không chỉ  có nhu cầu hiểu biết mà còn có nhu cầu hướng thiện,  khao khát cuộc sống tốt lành, chan hoà tình yêu thương. ­ Nhà văn luôn bộc lộ  tư  tưởng ­ tình cảm, nhận xét đánh giá,…của mình trong  tác phẩm. Điều đó tác động lớn và có khả năng giáo dục người đọc. ­ Giá trị  nhận thức luôn là tiền đề  của giá trị  giáo dục. Giá trị  giáo dục làm sâu  sắc thêm giá trị nhận thức. * Biểu hiện:
  4. ­ Văn học đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống để họ tự rèn  luyện bản thân mình ngày một tốt đẹp hơn.  + Về  tư  tưởng: Văn học hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp  học có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống.  + Về tình cảm: Văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn   con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn.  + Về đạo đức: Văn học nâng đỡ cho nhân cách con người phát triển, giúp cho họ  biết phân biệt phải­trái, tốt ­ xấu, đúng ­ sai, có quan hệ  tốt đẹp và biết gắn bó  cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của mọi người.  ­ Đặc trưng giáo dục của văn học là từ  con đường cảm xúc đến nhận thức, tự  giáo dục (khác với pháp luật, đạo đức,…). Văn học cảm  hóa con người bằng hình  tượng, bằng cái thật, cái đúng, cái đẹp nên nó giáo dục một cách tự  giác, thấm  sâu, lâu bền. Văn học không chỉ góp phần hoàn thiện bản thân con người mà còn  hướng con người tới những hành động cụ  thể, thiết thực, vì một cuộc đời ngày  càng tốt đẹp hơn.  1.1.3. Giá trị thẩm mĩ * Cơ sở: ­ Con người luôn có nhu cầu cảm thụ, thưởng thức cái đẹp. ­ Thế  giới hiện thực đã có sẵn cái đẹp nhưng không phải ai cũng có thể  nhận  biết và cảm thụ. Nhà văn, bằng năng lực của mình đã đưa cái đẹp vào tác phẩm   một cách nghệ thuật, giúp người đọc vừa cảm nhận được cái đẹp cuộc đời vừa  cảm nhận được cái đẹp của chính tác phẩm. ­> Giá trị thẩm mĩ là khả năng của văn học có thể đem đến cho con người những  rung động trước cái đẹp (cái đẹp của cuộc sống và cái đẹp của chính tác phẩm). * Biểu hiện: ­ Văn học đem đến cho con người những vẻ đẹp muôn hình, muôn vẻ  của cuộc  đời (thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc đời, lịch sử,…). 
  5. ­ Văn học đi sâu miêu tả vẻ đẹp con người (ngoại hình, nội tâm, tư tưởng ­ tình  cảm, những hành động, lời nói,…).  ­ Văn học có thể phát hiện ra vẻ đẹp của những sự vật rất nhỏ bé, bình thường   và cả những vẻ đẹp đồ sộ, kì vĩ.  ­ Hình thức đẹp của tác phẩm (kết cấu, ngôn ngữ, thủ pháp NT…) cũng chính là  một nội dung quan trọng của giá trị thẩm mĩ.  1.1.4. Mối quan hệ giữa các giá trị văn học ­ Ba giá trị  có mối quan hệ  mật thiết, không tách rời, cũng tác động đến người  đọc (khái niệm chân ­ thiện ­ mĩ của cha ông). ­ Giá trị  nhận thức luôn là tiền đề  của giá trị  giáo dục. Giá trị  giáo dục làm sâu  sắc thêm giá trị  nhận thức. Giá trị  thẩm mĩ khiến cho giá trị  nhận thức và giá trị  giáo dục được phát huy. Không có nhận thức đúng đắn thì văn học không thể giáo  dục được con người vì nhận thức không chỉ  để  nhận thức mà nhận thức là để  hành động.  Tuy nhiên, giá trị nhận thức là giáo trị  giáo dục chỉ có thể phát huy một cách tích   cực nhất, có hiệu quả  cao nhất khi gắn với giá trị  thẩm mĩ ­ giá trị  tạo nên đặc   trưng của văn học. 1.2. Tiếp nhận văn học 1.2.1. Tiếp nhận trong đời sống văn học ­ Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hoà mình vào tác phẩm, rung động   với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng tai   nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ  sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hoá và bằng cả tâm   hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của   từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật,…làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan  biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút. ­> Tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc  nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình.
  6. 1.2.2. Tính chất tiếp nhận văn học ­ Tiếp nhận văn học thực chất là một quá trình giao tiếp (tác giả  và người tiếp  nhận, người nói và người nghe, người bày tỏ và người chia sẻ, cảm thông).  ­ Tính chất cá thể hóa, tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận: Các yếu tố  thuộc về  cá nhân có vai vai trò quan trọng: năng lực, thị  hiếu, sở  thích, lứa tuổi,  trình độ  học vấn, kinh nghiệm sống,…Tính khuynh hướng trong tư  tưởng, tình  cảm, trong thị  hiếu thẩm mĩ làm cho sự  tiếp nhận mang đậm nét cá nhân. Chính  sự  chủ  động, tích cực của người tiếp nhận đã làm tăng thêm sức sống cho tác  phẩm.  ­ Tính đa dạng, không thống nhất: Cảm thụ, đánh giá của công chúng về một tác  phẩm rất khác nhau, thậm chí cùng một người  ở  nhiều thời điểm có nhiều khác  nhau trong cảm thụ  đánh giá. Nguyên nhân ở  cả  tác phẩm (nội dung phong phú,  hình tượng phức tạp, ngôn ngữ  đa nghĩa,…) và người tiếp nhận (tuổi tác, kinh   nghiệm, học vấn, tâm trạng,…).  1.2.3. Các cấp độ tiếp nhận văn học ­ Có ba cấp độ tiếp nhận văn học: + Cấp độ  thứ  nhất: cảm thụ  chỉ  tập trung vào nội dung cụ  thể, nội dung trực   tiếp của tác phẩm, nội dung trực tiếp của tác phẩm. Đây là cách tiếp nhận đơn  giản nhưng khá phổ biến. + Cấp độ  thứ  hai: cảm thụ  qua nội dung trực tiếp để  thấy được nội dung tư  tưởng của tác phẩm. + Cấp độ thứ ba: cảm thụ chú ý đến cả nội dung và hình thức để thấy được giá   trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. ­  Để tiếp nhận văn học có hiệu quả thực sự, người tiếp nhận cần: + Nâng cao trình độ. + Tích luỹ kinh nghiệm. + Trân trọng tác phẩm, tìm cách hiểu tác phẩm một cách khách quan, toàn vẹn.
  7. + Tiếp nhận một cách chủ  động, tích cực, sáng tạo, hướng tới cái hay, cái đẹp,  cái đúng. +  Không nên suy diễn tuỳ tiện. 2. Nội dung và hình thức trong văn bản văn học 2.1. Các khái niệm về nội dung văn bản văn học 2.1.1. Đề tài Đề  tài là phạm vi cuộc sống được nhà văn nhận thức, lựa chọn, khái quát, bình  giá và thể  hiện trong văn bản. Việc lựa chọn đề  tài bước đầu bộc lộ  khuynh   hướng và ý đồ sáng tác của tác giả. 2.1.2. Chủ đề ­ Chủ  đề  là nội dung cuộc sống được nêu ra trong tác phẩm. Chủ  đề  thể  hiện   điều quan tâm cũng như chiều sâu nhận thức của nhà văn đối với cuộc sống. ­ Một văn bản có thể  có nhiều chủ  đề. Tầm quan trọng của chủ đề  không phụ  thuộc vào khuôn khổ  văn bản, cũng như  không phụ  thuộc vào việc chọn đề  tài.   Có những văn bản rất ngắn, đề  tài lại rất hẹp nhưng chủ  đề  đặt ra lại hết sức  lớn lao (chẳng hạn bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương) 2.1.3. Cảm hứng nghệ thuật Cảm hứng nghệ thuật là nội dung tình cảm chủ  đạo của văn bản. Những trạng  thái tâm hồn, những cảm xúc được thể hiện đậm đà, nhuần nhuyễn trong văn bản   sẽ truyền cảm và hấp dẫn người đọc. Qua cảm hứng nghệ thuật, người đọc cảm  nhận được tư tưởng, tình cảm của tác giả nêu trong văn bản. 2.1.4. Tư tưởng Tư tưởng của văn bản là sự  lí giải đối với chủ  đề  đã nêu lên, là nhận thức của   tác giả  muốn trao đổi, nhắn gửi, đối thoại với người đọc. Tư  tưởng là linh hồn   của văn bản văn học.
  8. 2.2. Các khái niệm thuộc về hình thức văn bản văn học 2.2.1. Ngôn từ ­ Ngôn từ là yếu tố đầu tiên, là vật liệu, công cụ, lớp vỏ đầu tiên của tác phẩm  văn học. ­ Ngôn từ hiện diện trong từ ngữ, câu đoạn, hình ảnh, giọng điệu của văn bản. ­ Được nhà văn chọn lọc hàm súc, đa nghĩa... mang dấu ấn của tác giả. 2.2.2. Kết cấu ­ Là sự  sắp xếp tổ chức các thành tố  của văn bản thành một đơn vị  thống nhất  chặt chẽ, hoàn chỉnh, có ý nghĩa. Có nhiều cách kết cấu: theo thời gian; không gian; đầu, cuối tương ứng; mở theo   dòng suy nghĩ; tâm lí; theo sự  việc;... hàm chứa dụng ý của tác giả  sao cho phù  hợp với nội dung văn bản 2.2.3. Thể loại ­ Thể loại là những quy tắc tổ chức hình thức văn bản phù hợp với nội dung văn  bản: thơ, tiểu thuyết, kịch… ­ Mỗi thể loại được biến đổi theo thời đại và mang sắc thái cá nhân của tác giả. Cần lưu ý: không có hình thức nào là "hình thức thuần tuý" mà hình thức bao giờ  cũng "mang tính nội dung”. Vì vậy, trong quá trình tìm hiểu và phân tích tác phẩm,  cần chú ý mối quan hệ  hữu cơ, lôgic giữa hai mặt nội dung và hình thức của một   tác phẩm một cách thống nhất, toàn vẹn. 3. Văn học ­ Nghệ thuật ngôn từ 3.1.  Vì sao văn học là nghệ thuật của ngôn từ ?  ­ Mỗi bộ môn nghệ thuật đều có một chất liệu riêng tạo nên đặc trưng của hình   tượng. Nếu âm nhạc dùng âm thanh, hội họa dùng đường nét và màu sắc, điêu   khắc dùng mảng khối thì văn học chọn ngôn từ làm chất liệu.
  9.  ­ Ngôn từ  văn học vốn không như  ngôn từ  ta hay dùng trong sinh hoạt hằng   ngày. Ngôn ngữ đời sống dùng trong lao động và sinh hoạt hằng ngày là chủ yếu,  có tác dụng nhận và phát thông tin nên người ta thường đơn giản ngôn từ  đến   mức tối đa sao cho người nghe dễ hiểu, dễ tiếp thu là được. Ngôn từ văn học vốn  bắt nguồn từ  ngôn ngữ  của quần chúng lao động nhưng nó lại không dùng một  cách đơn giản như lời nói thông thường. Từ lời nói thô mộc thông thường, chỉ có  ý nghĩa thông báo nhất thời, nhà văn đã nhào nặn và tái tạo lại nó, khoác cho nó  tấm áo mới. Bấy giờ, lời nói bình thường trở  thành ngôn ngữ  nghệ  thuật, có tác  dụng thể hiện cái vô cùng, vô tận của cuộc đời tâm hồn con người một cách hình  tượng. Nó gợi dậy những cảm xúc nơi độc giả, cho ta cảm giác mới mẻ và trong  ngần. Mỗi từ, mỗi câu như khêu gợi một cái gì lớn hơn, tràn ra ngoài nó, tạo dựng   ý ngoài lời, hình thành một chỉnh thể hình tượng mới mẻ.  ­ Mặt khác, sở  dĩ nói văn học là nghệ thuật ngôn từ  là vì đó là cách sử  dụng từ  ngữ  đầy nghệ  thuật của nhà văn. Ngôn từ  văn học mang tính tổ  chức cao để  khi  đọc lên, độc giả có thể cảm nhận được cuộc sống và nỗi lòng người viết, từ  đó  tác phẩm nằm lại ở trong tim độc giả.  3.2. Đặc điểm của ngôn từ văn học. 3.2.1. Tính chính xác và tinh luyện. ­ Trong đời sống cũng như trong văn học, chính xác là yếu tố rất quan trọng trong   việc dùng ngôn ngữ. Để  diễn tả  cho ra được đúng và chính xác cái thần của  người và việc thì từng câu từng chữ  cũng phải thật chính xác, chi tiết và cụ  thể.  Qua cách lựa chọn từ  ngữ, ta còn thấy được tài năng của nhà văn: gọi đúng tên,   đúng bản chất đối tượng. Mỗi từ trong văn học là duy nhất, không có từ nào thay   thế. Dù đối tượng anh viết là ai đi nữa thì cũng chỉ có một từ để nói.  ­ Các nhà văn lớn đều là những bậc thầy trong việc dùng từ.  3.2.2. Tính hàm súc và đa nghĩa. ­ Điều này làm nên ý tại ngôn ngoại, tạo dư ba cho tác phẩm. Ngôn từ trong văn  học phải cô đọng, nén chặt ý tối đa tạo sức nặng, độ  thừa và nhiều lượng ngữ  nghĩa. 
  10. ­ Từ ngữ tiếng Việt vốn có khả năng chuyển nghĩa tạo nghĩa mới hay do tu từ nên   ngôn từ văn học cũng có tính đa nghĩa. Văn bản văn học, do đó, nó cũng có tính đa   nghĩa.  3.2.3. Tình hình tượng. ­ Tính hình tượng là quan trọng nhất. Tính hình tượng biểu hiện ở việc làm sống   dậy hiện thực trong tâm trí độc giả, tái hiện được trạng thái, truyền được động  tác hoặc sự vận động của con người, cảnh vật và toàn bộ  thế  giới mà tác phẩm  nói tới. Ngoài ra, nó còn biểu hiện  ở  sự  nắm bắt những cái mơ  hồ, mong manh,  vô hình chứ không chỉ dừng lại ở những cái hữu hình. ­ Cơ sở từ trong nội dung của lời nói nghệ thuật nằm ở tính hình tượng. Nhà văn  viết ra những câu chữ ấy, không chỉ để giải tỏa tâm sự mà còn thể hiện tư tưởng,   tình cảm của giai cấp mình, tầng lớp mình. Lời nói tuy là của chủ  thể  sáng tạo  nhưng lại mang tầm vóc khái quát là ở chỗ đó. Nhà văn đại diện cho giai cấp, thế   hệ mình đang sống, thay họ cất tiếng nói. ­ Mặt khác, trong văn học, sức mạnh của lời nói nằm ở tầm khái quát của chủ thể  hình tượng, ở khả năng đại diện cho tư tưởng, tình cảm, lương tâm của thời đại  chứ không phải phụ thuộc vào địa vị xã hội của nhà văn. Từ phương trời của một   người mà thành phương trời của nhiều người, tác phẩm từ đó trường tồn mãi với  thời gian.  3.2.4. Tính biểu cảm. ­ Nghệ  thuật nói bằng thứ  tiếng duy nhất: thứ  tiếng của cảm xúc. Bản chất   người nghệ  sĩ là giàu tình cảm và nhạy bén trước cuộc đời. Do đó, ngôn từ  văn  học mang tính biểu cảm. Nó biểu hiện  ở  nhiều dạng thức khác nhau : gián tiếp  hay trực tiếp, có hình  ảnh hay chỉ  là thuần túy, rõ nhất là khi nhấn mạnh những  cảm xúc nội tâm. ­ Hình tượng nghệ  thuật là phương thức giao tiếp đặc biệt giữa nhà văn và độc   giả. Hình tượng là thế giới sống do nhà văn tạo ra bằng sức gợi ngôn từ. Gọi là  hình tượng vì một mặt, nó cũng sống động và hấp dẫn y như  thật, nhưng mặc  khác nó chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng con người, nó không phải là sự thật trăm 
  11. phần trăm. Nhưng, thật sai lầm nếu chỉ quan niệm hình tượng nghệ  thuật chỉ  là  phản quang đơn thuần của đời sống. Hình tượng, một mặt nó vừa mang tính   khách quan, mặt khác vừa mang tính chủ quan của nghệ sĩ.  3.3. Tính “phi vật thể” của hình tượng văn học. ­ Âm nhạc dùng âm thanh, hội họa dùng đường nét, điêu khắc dùng mảng khối để  xây dựng hình tượng. Những chất liệu đó đều mang tính “vật chất”, tức có thể  nhìn, nghe, cảm nhận được bằng giác quan, nó khác với ngôn từ  của văn học.  Ngôn từ  tồn tại trong trí óc, không thể  sờ, thấy hay cảm nhận bằng những cách   thông thường, mà buộc độc giả  phải thâm nhập, cảm nhận và tưởng tượng như  mình đang sống chung với hình tượng. Độc giả buộc phải nhập cuộc, đau nỗi đau  của người trong cuộc thì mới có thể cảm nhận rõ những gì mà nhà văn viết ra. ­ Nhờ dùng chất liệu ngôn từ mà bức tranh đời sống không bị hạn chế về không  gian, thời gian. Những gì tinh vi, mong manh, mơ hồ, ngay cả tâm trạng sâu thẳm  của con người đều có thể mô tả trực quan, sinh động bằng từ ngữ.  4. Phong cách văn học 4.1. Khái niệm. ­ Phong cách văn học là khái niệm dùng để  chỉ  tính độc đáo có ý nghĩa thẩm mĩ   của một hiện tượng văn học. Cái gọi là hiện tượng văn học này bao gồm phạm vi   rất rộng, từ nền văn học của một dân tộc, một thời đại, một trào lưu, một trường   phái tới toàn bộ  sáng tác của một nhà văn, thậm chí tới những tác phẩm văn học  riêng lẻ… ­ Trong khái niệm phong cách văn học có bao hàm khái niệm PCNT của nhà văn: + Đó là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả  trong quá trình nhận thức   và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả các yếu tố nội  dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. Nói cách khác, phong cách là sự thể  hiện tài nghệ của người nghệ sĩ trong việc đưa đến cho độc giả một cái nhìn mới  mẻ  về  cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ  thuật mang   đậm dấu ấn cá nhân của người sáng tạo. 
  12. + Phong cách văn học còn mang dấu  ấn của dân tộc và thời đại. Cho nên trong   phong cách riêng của mỗi tác giả, người ta có thể nhận ra diện mạo tâm hồn, tính  cách của một dân tộc và "Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời" (Tô   Hoài). Chẳng hạn, qua những biểu hiện của phong cách Nguyễn Du trong Truyện   Kiều, có thể  thấy nét riêng của tâm hồn Việt Nam và dấu  ấn của một thời "dâu  bể".     4.2. Những biểu hiện cơ bản của phong cách văn học: ­ Cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá, giọng điệu riêng biệt của   tác giả. Ví dụ: Cùng là nhà văn hiện thực nhưng Ngô Tất Tố  quan tâm đến số  phận   người phụ nữ trong xã hội, Nguyễn Công Hoan vạch trần bản chất những trò lố  nực cười, còn Nam Cao lại miêu tả tấn bi kịch của người trí thức.         Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến giọng điệu triết lý, nhắc đến Vũ Trọng   Phụng là nhắc đến giọng điệu trào phúng . Giọng điệu trào phúng của Nguyễn   Khuyến thì hóm hỉnh, thâm trầm trong khi tiếng cười của Tú Xương lại châm  biếm sâu cay, đả kích quyết liệt… ­ Sự  sáng tạo các yếu tố  thuộc nội dung tác phẩm : lựa chọn đề  tài, xác định  chủ đề, thể hiện nhân vật, triển khai cốt truyện, xác lập tứ thơ, hình ảnh thơ,...   Nói đến Nam Cao là người ta nghĩ ngay tới một nhà văn của "những kiếp lầm   than”, một người cầm bút với tâm hồn rộng mở  để  đón nhận "những vang động   của đời". Nhắc tới Xuân Diệu là người đọc nhớ  về  một hồn thơ  luôn khát khao   giao cảm với đời, luôn nồng nàn, say đắm trong tình yêu… ­ Hệ thống phương thức biểu hiện và các yếu tố nghệ thuật của tác phẩm:   thể loại, kết cấu, ngôn ngữ, hình ảnh, âm điệu, cách kể chuyện, miêu tả, bộc lộ  nội tâm, câu văn, giọng điệu, nhạc điệu,... Tô Hoài nổi tiếng là nhà văn giỏi miêu tả phong tục, giỏi khắc hoạ nét đẹp riêng  trong cảnh vật và tính cách con người của một vùng đất. Nguyễn Tuân xứng đáng  với danh hiệu bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ với khả năng sáng tạo  
  13. những từ ngữ, hình ảnh mới lạ, bất ngờ; những câu văn giàu chất nhạc, chất hoạ,   linh hoạt như "biết co duỗi nhịp nhàng". ­ Phong cách văn học là cái thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác.  Cái độc  đáo, vẻ riêng phải xuất hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại, có tính chất bền vững,   nhất quán.Thống nhất từ cốt lõi, nhưng sự triển khai phải đa dạng, đổi mới: Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập  rất hào hùng, đanh  thép, sắc bén, nhưng trong Quốc âm thi tập lại u hoài, trầm lắng, suy tư. Hồ Chí  Minh trong truyện và kí thì hiện đại nhưng thơ chữ Hán lại mang sắc thái phương   Đông cổ kính, thơ tiếng Việt đậm cốt cách dân gian. ­  Phong cách còn phải có phẩm chất thẩm mĩ, nghĩa là nó phải đem lại cho  người đọc một sự hưởng thụ mĩ cảm dồi dào qua những tác phẩm giàu tính nghệ  thuật. Chỉ khi đó vẻ đẹp của phong cách từng tác giả mới được lưu giữ bền vững   trong lòng người đọc từ thế hệ này sang thế hệ khác và trường tồn cùng với thời   gian và lịch sử. 5. Một số thể loại văn học: Thơ, truyện Tác phẩm văn học gồm ba loại lớn: trữ tình, tự sự, kịch. ­ Loại trữ tình có các thể: thơ ca, khúc ngâm… ­ Loại tự sự có truyện, kí… ­ Loại kịch có chính kịch, bi lịch, hài kịch. ­ Ngoài ra còn có thể loại khác như nghị luận. 5.1. Thơ. 5.1.1. Quan niệm về thơ Thơ  là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể  hiện những tâm  trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là  có nhịp điệu (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H, 1999). 5.1.2. Một số cách phân loại thơ Lâu nay giới nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách phân loại thơ. Cụ thể: 
  14. ­ Theo nội dung biểu hiện có thơ  trữ  tình (đi vào tâm tư  tình cảm, những chiêm   nghiệm của con người về cuộc đời, ví dụ như bài Tự tình của Hồ Xuân Hương),  thơ tự sự (cảm nghĩ vận động theo mạch kể chuyện, ví dụ như bài Hầu Trời của   Tản Đà), thơ trào phúng (phê phán, phủ nhận cái xấu theo lối mỉa mai, đùa cợt, ví   dụ như bài Vịnh Khoa thi Hương của Tú Xương).  ­ Theo cách thức tổ chức bài thơ có thơ cách luật (viết theo luật đã định trước, ví   dụ các loại thơ Đường, lục bát, song thất lục bát,…), thơ tự do (không theo niêm  luật có sẵn), thơ văn xuôi (câu thơ giống như câu văn xuôi, nhưng giàu nhịp điệu  hơn). ­  Ở Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung, một số  nhà nghiên cứu còn  dựa vào thời gian xuất hiện để chia thơ thành các loại:  + Thơ trư tinh dân gian: Ca dao ­ nh ̃ ̀ ưng sang tac tr ̃ ́ ́ ư tinh dân gian, diên ta đ ̃ ̀ ̃ ̉ ời sông ́   ̣ ̉ nôi tâm cua con ng ươi. Ca dao không mang dâu ân ca nhân tac gia nh ̀ ́ ́ ́ ́ ̉ ư thơ trư tinh ̃ ̀   ̉ ̣ (cua văn hoc viêt). Trong ca dao, nh ́ ưng tinh cam, tâm trang cua cac kiêu nhân vât ̃ ̀ ̉ ̣ ̉ ́ ̉ ̣  trữ tinh và cach thê hiên th ̀ ́ ̉ ̣ ế giơi nôi tâm cua cac kiêu nhân vât nay đêu mang tinh ́ ̣ ̉ ́ ̉ ̣ ̀ ̀ ́   ̀ ợp vơi l chât chung, phu h ́ ́ ưa tuôi, gi ́ ̉ ơi tinh, nghê nghiêp,… B ́ ́ ̀ ̣ ất cứ ai, nếu thấy ca   dao phù hợp, đều có thể sử dụng, xem đó là tiếng lòng mình. Vì thế, ca dao được   coi là" thơ của vạn nhà", là tấm gương soi của tâm hồn và đời sống dân tộc. Tuy   ́ ỗi bài ca dao lại có nét riêng độc đáo.  nhiên, trong cai chung đo m ́ + Thơ trữ tình trung đại: do đặc điểm hệ tư tưởng thời đại mà thơ ở thời đại này  thường nặng tính tượng trưng, ước lệ, tính quy phạm và tính phi ngã. Chủ thể trữ  tình trong thơ trung đại thường là cái tôi đại chúng, cái tôi “siêu cá thể”. Nội dung   thơ trữ tình trung đại thường nặng về tỏ chí và truyền tải đạo lí. + Thơ trữ tình hiện đại: thuộc loại hình Thơ mới, xuất hiện từ đầu thế kỷ XX và  phát triển cho đến ngày nay. Do nhu cầu đề  cao mạnh mẽ  của cái tôi của thi sĩ,  nên màu sắc cá thể  của cảm xúc in đậm trong mọi khía cạnh của ngôn từ  như  vốn từ, các biện pháp tu từ  hay ngữ  điệu, giọng điệu. Lời thơ  thường linh hoạt,   uyển chuyển hơn so với thơ cũ. 
  15. Ở nước ta lâu nay vẫn còn tồn tại quan niệm dựa vào nội dung để chia thơ thành   các loại: thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng, thơ cách mạng (có nội dung tuyên   truyền chính trị, cổ vũ chiến đấu bảo vệ đất nước). Nhìn chung, mọi cách phân chia trên đây đều mang tính chất tương đối. Bởi thơ  nào mà chẳng trữ  tình, dù ít dù nhiều loại thơ  nào cũng theo thi luật nhất định   (theo đặc trưng của thơ, của ngôn ngữ, dung lượng,…). Mặt khác, những bài thơ  trữ  tình biểu lộ  tình cảm trước thiên nhiên đất trời, giang sơn gấm vóc cũng là  một “kênh” thể hiện lòng yêu nước,… Tuy vậy, việc phân chia thơ thành các loại   khác nhau là cần thiết, phục vụ cho việc nghiên cứu, đọc – hiểu và thẩm bình tác   phẩm một cách thuận lợi hơn. 5.1.3. Đặc trưng của thơ. ­ Thơ  là một thể  loai văn h ̣ ọc thuộc phương thức biểu hiện trữ  tình. Thơ  tác  động đến người đọc bằng sự  nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng  tượng phong phú; thơ  được phân chia thành nhiều loại hình khác nhau, nhưng dù  thuộc loại hình nào thì yếu tố trữ tình vẫn giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm. ̣ ữ tinh (cung goi la chu thê tr ­ Nhân vât tr ̀ ̃ ̣ ̀ ̉ ̉ ữ tinh, cai tôi tr ̀ ́ ữ tinh) la ng ̀ ̀ ười trực tiêp ́  ̉ ̣ ̀ ̀ ̉ ̣ cam nhân va bay to niêm rung đông trong th ̀ ơ  trươc s ́ ự  kiên. Nhân v ̣ ật trữ  tình là  cai tôi th ́ ư hai cua nha th ́ ̉ ̀ ơ, găn bo mau thit v ́ ́ ́ ̣ ới tư tưởng, tinh cam cua nha th ̀ ̉ ̉ ̀ ơ. Tuy   vậy, không thể đông nhât nhân vât tr ̀ ́ ̣ ư tinh v ̃ ̀ ơi tac gia. ́ ́ ̉ ­ Thơ  la tiêng noi cua tinh cam con ng ̀ ́ ́ ̉ ̀ ̉ ươi, nh ̀ ưng rung đông cua trai tim tr ̃ ̣ ̉ ́ ươć   ̣ ời. Lê Quý Đôn từng khẳng định: “Thơ  phát khởi từ  lòng người ta”, hay  cuôc đ như  nhà thơ  Tố Hữu đã viết: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật   đầy”.  ­ Thơ tuy biêu hi ̉ ện nhưng cam xuc, tâm s ̃ ̉ ́ ự  riêng tư, nhưng những tác phẩm thơ  chân chính bao giờ  cũng mang y nghia khai quat vê con ng ́ ̃ ́ ́ ̀ ười, vê cu ̀ ộc đời, về  ̣ nhân loai, đó là cầu nối dẫn đến sự  đồng cảm giữa người với người trên khắp  thế gian này.
  16. ­ Thơ thương không tr ̀ ực tiêp kê vê s ́ ̉ ̀ ự kiên, nh ̣ ưng bao giờ cung co it nhât môt s ̃ ́́ ́ ̣ ự  ̣ ̉ ̣ kiên lam nay sinh rung đông th ̀ ẩm mi manh liêt trong tâm hôn nha th ̃ ̃ ̣ ̀ ̀ ơ ma văn ban ̀ ̉   thơ la s ̀ ự thê hiên cua niêm rung đông ây.  ̉ ̣ ̉ ̀ ̣ ́ ­ Thơ  thường có dung lượng câu chữ  ngắn hơn các thể  loại khác (tự  sự, kịch).   Hệ quả là nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thông qua   hình tượng thơ, đặc biệt thông qua ngôn ngữ  nghệ  thuật, qua dòng thơ, qua vần  điệu, tiết tấu... Nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ  chật hẹp của ngôn từ,  cho nên mới có chuyện “ý tại ngôn ngoại”. Do đó, thơ  có thể  tạo điều kiện cho   người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo” để phát hiện đời sống, khiến người  đọc phải suy nghĩ, trăn trở  để  tìm kiếm ý đồ  nghệ  thuật của tác giả  cũng như  những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ.  ­ Thơ chu trong đên cai đep, phân thi vi cua tâm hôn con ng ́ ̣ ́ ́ ̣ ̀ ̣ ̉ ̀ ười va cuôc sông khach ̀ ̣ ́ ́   ̉ ̣ ́ ợi cam, truyên cam cua th quan. Ve đep va tinh chât g ̀ ́ ̉ ̀ ̉ ̉ ơ  co đ ́ ược con do ngôn ng ̀ ư ̃ thơ  cô đong, ham suc, giau hinh anh va nhac điêu. S ̣ ̀ ́ ̀ ̀ ̉ ̀ ̣ ̣ ự  phân dong, va hiêp vân cua ̀ ̀ ̣ ̀ ̉   lơi th ̀ ơ, cach ngăt nhip, s ́ ́ ̣ ử dung thanh điêu…lam tăng s ̣ ̣ ̀ ức âm vang va lan toa, thâm ̀ ̉ ́   ̉ ́ ơ.  sâu cua y th ­ Về  cấu trúc, mỗi bài thơ  là một cấu trúc ngôn ngữ  đặc biệt. Sự  săp xêp cac ́ ́ ́  dong (câu) th ̀ ơ, khổ  thơ, đoạn thơ  lam nên môt hinh th ̀ ̣ ̀ ưc co tinh tao hinh. Đông ́ ́ ́ ̣ ̀ ̀   thơi, s ̀ ự hiêp vân, xen phôi băng trăc, cach ng ̣ ̀ ́ ̀ ́ ́ ắt nhip v ̣ ưa thông nhât v ̀ ́ ́ ừa biên hoa ́ ́  ̣ ̣ ̣ tao nên tinh nhac điêu. Hinh th ́ ̀ ưc ây lam nên ve đep nhip nhang, trâm bông, luyên ́ ́ ̀ ̉ ̣ ̣ ̀ ̀ ̉ ́  ́ ̉ ̉ lay cua văn ban th ơ. Ngôn ngữ thơ  chu yêu la ngôn ng ̉ ́ ̀ ữ cua nhân vât tr ̉ ̣ ữ tinh, la ̀ ̀  ngôn ngữ hinh anh, biêu t ̀ ̉ ̉ ượng. Y nghia ma văn ban th ́ ̃ ̀ ̉ ơ  muôn biêu đat th ́ ̉ ̣ ường  không được thông bao tr ́ ực tiêp, đây đu qua l ́ ̀ ̉ ơi th ̀ ơ, ma do t ̀ ư th́ ơ, giong điêu, hinh ̣ ̣ ̀   ̉ ̉ ượng thơ  gợi lên. Do đo ngôn ng anh, biêu t ́ ữ thơ  thiên vê kh ̀ ơi gợi, giưa cac câu ̃ ́   thơ  co nhiêu khoang trông, nh ́ ̀ ̉ ́ ưng chô không liên tuc g ̃ ̃ ̣ ợi ra nhiêu nghia, đoi hoi ̀ ̃ ̀ ̉  ngươi đoc phai chu đông liên t ̀ ̣ ̉ ̉ ̣ ưởng, tưởng tượng, thê nghiêm thi m ̉ ̣ ̀ ơi hiêu hêt s ́ ̉ ́ ự   ́ ̉ ́ ơ bên trong.  phong phu cua y th 5.1.4. Yêu cầu và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ Khi đọc hiểu tác phẩm thơ, cần tiến hành theo các bước sau đây:
  17. ­ Cần biết rõ tên bài thơ, tên tác giả, thời gian và hoàn cảnh sáng tác, đó là cơ sở  ban đầu để tiếp cận tác phẩm. ­ Đọc và quan sát bước đầu để  nắm chắc bài thơ. Qua việc đọc, phải xác định  được chủ đề, chủ thể trữ tình (chủ thể trữ tình thường xuất hiện ở hai dạng: cái  tôi trữ  tình và chủ  thể  trữ  tình  ẩn), đối tượng trữ  tình, hình tượng trữ  tình và  giọng điệu chủ đạo của bài thơ. ­ Cảm nhận nội dung, ý nghĩa bài thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, kết cấu,  các biện pháp tu từ,…  ­ Lí giải, đánh giá toàn bộ bài thơ cả về hai phương diện nội dung và nghệ thuật.   Đặc biệt là phải chỉ ra những đóng góp của tác giả  (thể  hiện qua tác phẩm) cho  thơ và cho cuộc sống con người. 5.2. Truyện  5.2.1. Quan niệm về truyện. Truyện là loại văn tự  sự, kể  chuyện, trình bày sự  việc. Tryện có cốt truyện, có  nhân vật. Qui mô truyện thường lớn hơn thơ. Truyện phần lớn được viết bằng   văn xuôi, bên cạnh đó cũng có loại văn vần. Khác với thơ  thiên về  cái đẹp, xúc   cảm và sự  cô đọng, truyện có khả  năng đi sâu vào từng khía cạnh ngóc ngách   phức tạp của cuộc sống và của tâm hồn. 5.2.2. Phân loại truyện. ­ Văn học dân gian: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,.. ­ Văn học trung đại: có truyện viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. ­ Văn học hiện đại: có truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài. 5.2.3. Đặc trưng của truyện. ­ Truyện phản ánh hiện thực trong tính khách quan của nó qua con người, hành  vi, sự kiện được miêu tả và kể lại bởi một người nào đó. ­ Truyện thường có cốt truyện, nhân vật, tình huống được miêu tả chi tiết, sống   động gắn với hoàn cảnh. ­ Phạm vi miêu tả không bị hạn chế bởi thời gian và không gian.
  18. ­ Ngôn ngữ  truyện có lời người kể  chuyện, lời nhân vật… Ngôn ngữ  linh hoạt   gần với đời sống. 5.2.4. Yêu cầu về đọc truyện. ­ Tìm hiểu bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác… để  có cơ  sở  cảm nhận đúng   nội dung của truyện. ­ Phân tích diễn biến cốt truyện qua các phần mở  đầu, vận động, kết thúc, với  các tình tiết, sự kiện, biến cố cụ thể... ­ Phân tích nhân vật: ngoại hình, tính cách, ngôn ngữ… ­ Xác định vấn đề của truyện đặt ra, ý nghĩa tư tưởng, giá trị của truyện trên các  phương diện: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ. 5.3. Kịch. 5.3.1. Khái niệm:  Kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp,trong đó đối tượng mô tả  của kịch là   những xung đột trong đời sống. 5.3.2. Phân loại: ­ Xét theo nội dung và ý nghĩa của xung đột: bi kịch, hài kịch, chính kịch. ­ Xét theo hình thức ngôn ngữ trình diễn:  kịch thơ, kịch nói, ca kịch. 5.3.3. Đặc trưng của kịch ­ Đối tượng phản ánh : những mâu thuẫn, xung đột trong đời sống xã hội và con  người => xung đột kịch. ­ Xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động kịch, hành động kịch được thực  hiện bởi các nhân vật kịch. + Hành động kịch : do nhân vật kịch thể hiện. + Nhân vật kịch : bằng lời thoại và hành động thể hiện chủ để vở kịch. ­ Cốt truyện của kịch : phát triển theo xung đột kịch qua các giai đoạn : mở đầu –  thắt nút – phát triển – đỉnh điểm – giải quyết. ­ Ngôn ngữ  kịch: mang tính hành động và khẩu ngữ: gồm đối thoai, độc thoại,  bàng thoại => nổi bật tính cách nhân vật.
  19. + Lời đối thoại: lời của các nhân vật nói với nhau. + Lời độc thoại: lời của nhân vật bộc lộ tâm tư, tình cảm của bản thân. + Bàng thoại: lời nhân vật nói riêng với người xem. 5.3.4. Yêu cầu về đọc kịch bản văn học:    ­ Đọc kĩ phần giới thiệu, tiểu dẫn để hiểu biết về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh   ra đời, vị trí đoạn trích.  ­ Chú ý lời thoại của các nhân vật (xác định quan hệ của các nhân vật, tính cách  nhân vật).  ­ Phân tích hành động kịch (làm nổi bật xung đột, diễn biến cốt truyện).  ­  Nêu chủ đề tư tưởng, ý nghĩa xã hội của tác phẩm. 6. Một số khái niệm cần nắm vững 6.1. Giá trị hiện thực ­  Là gì: + Phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh. + Tác phẩm nào cũng có giá trị hiện thực. (Vì văn học bắt nguồn từ cuộc sống:   hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, hiện thực tình cảm, tâm lí…) ­ Biểu hiện: Hiện thực phản ánh trong tác phẩm thì vô cùng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên,  nói đến giá trị  hiện thực trong một tác phẩm văn học người ta thường đề  cập 3  nét chính: + Phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ  cực, nỗi khổ  về  vật chất hay tinh   thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh. + Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người. + Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Ở  mỗi một tác phẩm cụ  thể, giá trị  hiện thực được biểu hiện đa dạng. Cùng   phản ánh tình cảnh khốn quẫn của người nông dân Việt Nam trước cách mạng,   Ngô Tất Tố  miêu tả  nỗi chật vật về  vật chất của chị  Dậu vì nạn sưu cao thuế 
  20. nặng, một cổ nhiều tròng, Nguyễn Công Hoan phơi bày chân thực sự cùng đường  tuyệt lộ của người nông dân (Bước đường cùng), Nam Cao lại đi vào mảng hiện  thực sâu kín nhất, tăm tối nhất – địa hạt tâm lí để  lột trần bi kịch bị tha hoá, nỗi  đau tinh thần khắc khoải của những con người dưới đáy của xã hội – Chí Phèo. ­ Vai trò: + Thể hiện cái nhìn hiện thực sâu sắc hay hời hợt của nhà văn. + Dấu hiệu của một tác phẩm có giá trị. 6.2. Giá trị nhân đạo ­ Là gì: + Hạt nhân: lòng yêu thương con người. + Đối tượng: thường là nỗi khổ. ­ Biểu hiện:  + Cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh. + Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người. +  Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ  đẹp tiềm  ẩn trong những con người bất   hạnh. + Đồng tình với những ước mơ và khát vọng chính đáng của con người. Ở  mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự  biến đổi phong phú, linh  hoạt. Chẳng hạn, cùng viết về người phụ nữ với cái nhìn trân trọng, yêu thương  sâu sắc, Ngô Tất Tố  khám phá  ở  Chị  Dậu vẻ  đẹp truyền thống, thuỷ  chung,  không tì vết; Kim Lân phát hiện ra nét nữ  tính và khát vọng hạnh phúc bất diệt   trong tâm hồn người vợ nhặt, còn Tô Hoài thì khơi tìm sức sống tiềm tàng, mãnh  liệt nơi cô gái vùng cao ­ Mị… ­  Vai trò: +  Thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhà văn                                                    “Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ  trong cốt tuỷ”   (Biêlinxki)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2