intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kết hợp một số giải pháp tạo sự hứng thú giúp học sinh học tốt môn Lịch sử 12

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:58

8
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Kết hợp một số giải pháp tạo sự hứng thú giúp học sinh học tốt môn Lịch sử 12" nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khơi dậy niềm say mê, tìm tòi tiếp thu kiến thức của học sinh, tạo sự hứng thú trong giờ học Lịch sử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kết hợp một số giải pháp tạo sự hứng thú giúp học sinh học tốt môn Lịch sử 12

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KẾT HỢP MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO SỰ HỨNG THÚ GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN LỊCH SỬ 12 THUỘC LĨNH VỰC: LỊCH SỬ
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT HERMANN GMEINER =====  ===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KẾT HỢP MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO SỰ HỨNG THÚ GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN LỊCH SỬ 12 THUỘC LĨNH VỰC: LỊCH SỬ Tác giả : Trần Thị Thu Hiền Tổ bộ môn : Xã hội Năm thực hiện : 2023 Số điện thoại : 0915195333
  3. MỤC LỤC Trang PHẦN I. PHẦN MƠ ĐẦU ...................................................................................... 1 ̉ 1. Lý do cho ̣n đề tà i ............................................................................................... 1 2. Mu ̣c đích củ a viê ̣c nghiên cứ u ........................................................................... 2 3. Nhiê ̣m vu ̣ và phương pháp nghiên cứ u củ a đề tà i ............................................. 2 4. Đối tượng, pha ̣m vi nghiên cứ u củ a đề tà i......................................................... 3 5. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 3 6. Bố cục đề tài ...................................................................................................... 3 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .................................................................. 4 1. Cơ sở lí luận ....................................................................................................... 4 2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................... 5 2.1. Thực trạng ................................................................................................... 6 2.2. Nguyên nhân những hạn chế ....................................................................... 9 2.3. Một số kinh nghiệm rút ra ......................................................................... 11 3. Các giải pháp tạo hứng thú giúp học sinh học tốt môn lịch sử ở trường phổ thông Hermann Gmeiner Vinh. ........................................................................... 12 3.1. Giải pháp tạo ấn tượng của người thầy ..................................................... 12 3.2. Giải pháp tạo sự mới lạ trong giờ dạy lịch sử ........................................... 13 3.3. Giải pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học lịch sử ................................ 15 3.4. Giải pháp sử dụng trò chơi trong dạy học lịch sử ..................................... 17 3.5. Giải pháp phát huy tính tích cực của học sinh. ......................................... 20 3.6. Giải pháp xây dựng vở bài tập và sử dụng sách giáo khoa ....................... 22 4. Thiết kế một số bài giảng có sử dụng các giải pháp tạo sự hứng thú giúp học sinh học tốt môn lịch sử 12 ........................................................................... 27 5. Kết quả áp dụng các giải pháp ......................................................................... 40 6. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của đề tài ....................................................... 46 ́ PHẦN III. KÊT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................... 50 1. Kết luận ............................................................................................................ 50 2. Kiến nghị.......................................................................................................... 51 ̉ TÀ I LIỆU THAM KHAO .................................................................................... 53 Phụ lục 1. Một số mẫu phiếu. Phụ lục 2. Một số tư liệu, hình ảnh trong dạy học.
  4. PHẦN I. PHẦ N MƠ ĐẦU ̉ 1. Lý do cho ̣n đề tà i Đất nước ta có bề dày lịch sử với hàng nghìn năm dựng và giữ nước với bao mốc son chói lọi, với những anh hùng dân tộc, những chiến công vang dội khắp thế giới. Hôm nay được sống trong điều kiện đất nước hòa bình no ấm mỗi người dân Việt Nam phải hiểu rõ về cội nguồn để xây đắp lòng biết ơn, tự hào về truyền thống cha ông, từ đó đúc rút kinh nghiệm để xây dựng và bảo vệ và bảo vệ tổ quốc trong thời kì công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử nước mình vì đó là đạo lí muôn đời của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”. Nhưng học và dạy lịch sử giờ đây không phải là chỉ ghi nhớ một số sự kiện, một vài chiến công nói lên tiến trình đi lên của dân tộc hoặc chỉ ghi nhớ công ơn của một số người làm nên sự nghiệp to lớn đó, mà còn phải biết tìm hiểu, tiếp nhận những nét đẹp của đạo đức, của đạo lí làm người Việt Nam. Vì đó chính là cái gốc của mọi sự nghiệp lớn hay nhỏ của dân tộc không phải chỉ ở thời xưa mà ở cả ngày nay. Chính điề u đó nên da ̣y và ho ̣c lich sử ̣ trong bố i cả nh hiê ̣n nay cũng đã và đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với người dạy và người học, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải có những trang bị phù hợp với xu thế mới, từng bước thay đổi về nhận thức, phương pháp để đạt được những kết quả nhất định. Trong giáo dục phổ thông, các môn xã hội nói chung, môn Sử nói riêng có vai trò rất quan trọng trong hình thành nhân cách, bản lĩnh, năng lực, tư duy của con người. Sinh thời, Bác Hồ từng dạy : “Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Nếu ở nhà trường, học sinh được giáo dục tốt, hiểu biết về lịch sử dân tộc sẽ biết quý trọng những gì cha ông đã gây dựng nên. Qua đó hình thành nhân cách, hun đúc lòng yêu nước, trách nhiệm công dân của các em sau này với đất nước. Tầm quan trọng của môn Lịch sử là hết sức to lớn và rất quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ nước nhà. Tuy vậy, thực tế cho thấy trong những năm gần đây học sinh THPT mà đặc biệt là giới trẻ, đều xem môn học lịch sử là một môn học nhàm chán và không thiết thực. Đa số học sinh hiện nay đặc biệt là học sinh THPT đều có một câu hỏi là “Học lịch sử để làm gì?” và “tại sao phải học môn học lịch sử?” lịch sử là môn học rắc rối với quá nhiều sự kiện khó nhớ, dài dòng. Học lịch sử là không cần thiết và học là chỉ lấy điểm cho qua thôi. Vậy thì do đâu mà mà học sinh lại đưa ra ý kiến như vậy? Có phải là do học sinh hiện nay chưa nhận thức được ý nghĩa của môn học lich sử, lịch sử nghiên cứu cái gì? Do đó không xác định được mục đích học tập, không có phương pháp học tập đúng, từ đó nảy sinh quan niệm sai lầm về vai trò ý nghĩa môn học lịch sử. Hay là do tình trạng xem thường môn lịch sử như là môn phụ đã dẫn đến việc hạ thấp chất lượng dạy học 1
  5. môn lịch sử, làm ảnh hưởng đến việc giáo dục thế hệ trẻ. Câu chuyện về môn Lịch sử có điểm số thấp trong các kỳ thi tốt nghiệp dường như đã cũ; và nay nó lại trở thành câu chuyện “truyền kì” bởi Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021, Lịch sử vẫn là môn có điểm số thấp nhất trong 9 môn thi và cũng là môn có đến trên 50% thí sinh dự thi đạt điểm dưới trung bình. Thời lượng dành cho môn Sử tại bậc THPT rất ít, từ 1-2 tiết/tuần với cả 3 khối 10, 11, 12; trong đó trung bình lớp 11 là 1 tiết/tuần và lớp 12 là 1,5 tiết/tuần; còn trong phân bố đề thi, chương trình 11 là 20% và chương trình lớp 12 là 80%. Với 45 phút/tiết, kiến thức dài nên giáo viên phải cố gắng mới đủ thời gian để hoàn thành bài học. Ở trường PT Hermann Gmeiner Vinh trong những năm gần đây tình trạng học sinh tỏ ra không thích thú, chán học môn lịch sử, dẫn đến chất lượng điểm thi và điểm tổng kết học kì không cao, ảnh hưởng chung đến chất lượng đại trà của nhà trường. Điều này gây không ít khó khăn cho tôi khi đảm nhận dạy lịch sử khối 12. Vâ ̣y là m thế nà o ta ̣o đươ ̣c sự hứ ng thú ho ̣c tâ ̣p trong giờ da ̣y lich sử ? đó là câu ̣ hỏi thường trực làm tôi trăn trở. Từ những trăn trở, băn khoăn đó tôi đã quyết định áp dụng một số các giải pháp mới trong năm học 2021-2022 bước đầu thấy được những hiệu quả thiết thực. Những thành quả bước đầu đó được tôi đúc rút thành đề tài SKKN “Kết hợp một số giải pháp tạo sự hứng thú giúp học sinh học tốt môn Lịch sử 12”. 2. Mục đích củ a viêc nghiên cưu ̣ ́ Môn lich sử là môn ho ̣c hỗ trơ ̣ đắ c lực cho cá c môn ho ̣c khá c, nó không chỉ ̣ có tá c du ̣ng quan tro ̣ng trong viê ̣c phá t triể n trí tuê ̣ mà cò n cả giá o dục tư tưở ng, tinh cả m, đa ̣o đức, thẩ m mỹ vớ i nhữ ng người thâ ̣t, viêc thâ ̣t, là cơ sở vữ ng chắ c ̀ ̣ cho viê ̣c giá o du ̣c niề m tin, lý tưởng xã hô ̣i chủ nghia, truyề n thố ng dân tô ̣c, truyề n ̃ thố ng yêu nước, giá o du ̣c tinh thầ n và thá i đô ̣ lao đô ̣ng đúng đắ n, lò ng biế t ơn vớ i tổ tiên, vớ i nhữ ng người có công vớ i Tổ quố c. Do vâ ̣y sáng kiến kinh nghiệm này là nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khơi dâ ̣y niề m say mê, tìm tò i tiế p thu kiế n thứ c củ a ho ̣c sinh, ta ̣o sự hứ ng thú trong giờ ho ̣c lich sử . ̣ 3. Nhiêm vu ̣ và phương pháp nghiên cưu củ a đề tà i ̣ ́ 3.1. Nhiê ̣m vụ - Phân tích thực trạng dạy và học môn lịch sử tại trường phổ thông Hermann Gmeiner Vinh từ năm học 2020 - 2021 đến năm học 2021 - 2022. - Đề xuất một số giải pháp tạo hứng thú để học sinh học tốt bộ môn lịch sử ở trường phổ thông Hermann Gmeiner Vinh. 3.2. Phương pháp nghiên cưu ́ * Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận - Nghiên cứu các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, các văn bản quy định của nhà nước và của bộ, sở giáo dục và đào tạo. 2
  6. - Các tài liệu lý luận về quản lý, về phương pháp dạy học và các tài liệu liên quan đến sáng kiến kinh nghiệm. * Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm dạy học. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp điều tra bằng phiếu. - Phương pháp thống kê toán học. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cưu củ a đề tà i ́ * Đối tượng nghiên cứu Các hoạt động tạo hứng thú học tập để học sinh học tốt môn lịch sử lớp 12 ở trường phổ thông Hermann Gmeiner Vinh. * Phạm vi nghiên cứ u củ a đề tà i SKKN Các tiết dạy môn lịch sử khối 12 tại trường phổ thông Hermann Gmeiner Vinh trong năm học 2021-2022. 5. Đóng góp của đề tài Góp phần cùng với nhà trường, gia đình giú p ho ̣c sinh nhìn nhâ ̣n đúng vai trò , vi ̣trí môn ho ̣c. Thông qua viê ̣c yêu thích môn ho ̣c từ đó giáo dục đa ̣o đức cách ma ̣ng, bồ i dưỡng xây đắp lòng yêu nước và tinh thầ n tự hà o dân tô ̣c cho học sinh. Gó p phầ n giú p giá o viên lựa cho ̣n cá ch thứ c tiế n hà nh mô ̣t giờ ho ̣c Lich sử ̣ có hiêu quả tố t hơn, ho ̣c sinh tích cực, chủ đô ̣ng trong viê ̣c tiế p thu và linh hô ̣i nội ̣ ̃ dung kiế n thứ c củ a bà i ho ̣c. Chia sẻ với thầy cô giáo giảng dạy môn Lịch sử tại các trường trung ho ̣c phổ thông một số giải pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Lịch sử ở trường ho ̣c. Ngoài ra, kết quả đạt được của đề tài còn là kinh nghiệm để chia sẻ với những cán bộ Đoàn khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho đoàn viên tại Bảo tàng hay các di tích lịch sử trên địa bàn Tỉnh. 6. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề xuất kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo. Về nội dung đề tài được triển khai thành các nội dung sau: 1. Cơ sở lí luận. 2. Cơ sở thực tiễn 3. Các giải pháp tạo hứng thú giúp học sinh học tốt môn lịch sử 12 ở trường phổ thông Hermann Gmeiner Vinh. 4. Thiết kế một số bài giảng có sử dụng các giải pháp tạo sự hứng thú giúp học sinh học tốt môn lịch sử 12. 5. Kết quả áp dụng các giải pháp; 6. Khảo sát 3
  7. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN Như chúng ta đã biết, môn học lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng với việc giáo dục thế hệ trẻ, từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với những thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại có thái độ đúng đối với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. Nhưng khả năng nhớ lâu, xâu chuỗi, hệ thống kiến thức của các em học sinh còn mang tính hình thức. Theo thống kê hàng năm của bộ giáo dục và đào tạo thì chất lượng bài thi môn Lịch sử ở các cấp còn thấp. Các em thường nhầm lẫn kiến thức Lịch sử với những nội dung cơ bản nhất. Vậy câu hỏi đặt ra nguyên nhân là do đâu? Có lẽ vấn đề này chúng ta cũng không nên đổ lỗi cho một cấp học nào nhưng thực tế điều đáng nói là những kiến thức cơ bản các em cũng không nắm được. Môn Lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ về truyền thống dân tộc, tự hào với những truyền thống, với những thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại, có thái độ đúng với sự phát triển của tương lai. Song làm thế nào để các em làm được điều đó là vấn đề cốt lõi mà bản thân mỗi giáo viên cần quan tâm. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đã được Đảng và nhà nước xác định, hoàn chỉnh, bổ sung qua các thời kì, chúng ta cần chú trọng đến quan điểm là đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước nhà. Là người có trình độ cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, những người thông minh, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt. Con người phải được rèn luyện qua quá trình đào tạo và tự đào tạo. Hiện nay, trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bài nhưng về căn bản đã được hướng dẫn ở lớp, nên hoạt động trí tuệ của học sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học. Đây cũng là vấn đề nhức nhối cho những người làm công tác giáo dục nói chung và những giáo viên trực tiếp giảng dạy nói riêng. Từ những nhận thức, quan niệm sai lầm về vị trí chức năng của khoa học lịch sử và môn lịch sử trong đời sống xã hội đã dẫn đến phương pháp nghiên cứu, học tập không đúng làm giảm sút chất lượng của bộ môn trên nhiều mặt. Vì vậy, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương V (khóa VIII) của BCH Trung ương Đảng chỉ rõ: "để nền giáo dục phát triển bền vững, xây dựng lớp thế hệ trẻ có đủ đức, tài thì bên cạnh các môn khoa học tự nhiên, cần coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là tiếng Việt, lịch sử, địa lý và văn 4
  8. hóa Việt Nam". Giáo sư - nhà giáo Nhân dân Đinh Xuân Lâm, phó Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam cho rằng, có một nguyên nhân quan trọng, mà nếu giải quyết được tận gốc khâu này thì toàn bộ các khâu sau sẽ có chuyển động tích cực. Đó là phải thay đổi nhận thức của các cấp quản lý giáo dục, thầy cô giáo đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội về vai trò của môn lịch sử trong giáo dục con người nói chung, giáo dục nhân cách thế hệ trẻ nói riêng. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN Trong những năm gần đây bộ môn lịch sử nói chung và môn Lịch sử lớp 12 nói riêng trong các trường THPT được quan tâm chú trọng hơn trước. Điều đó được thể hiện ở chỗ môn Lịch sử được xếp ngang hàng với các môn như Lí - Hóa - Sinh...được tổ chức thi Ho ̣c sinh giỏ i các cấp. Sở giá o du ̣c thường xuyên tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên về đổi mới PPDH, dạy học tích hợp, liên môn ...Tuy nhiên, qua thực tiễn dạy học củ a mình từ trước tớ i nay tôi thấy việc dạy và học môn lịch sử vẫn còn nhiều khó khăn: - Về phía giáo viên chậm đổi mới phương pháp, việc vận dụng từ tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên là chưa hiệu quả, kết quả đạt thấp. - Về phía học sinh, trở ngại lớn nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, nhiều học sinh chán ghét môn lịch sử, dẫn đến kết quả chất lượng bộ môn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đã đề ra. Thực tế, khảo sát của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho thấy, hơn 40% giáo viên cho rằng môn lịch sử chưa được coi trọng đúng với vai trò và vị trí cần có, quan niệm "môn phụ" dẫn đến kết quả dạy và học lịch sử chưa cao. Vì thế, giải pháp hàng đầu là phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan niệm, nhận thức đối với môn lịch sử ở cấp học phổ thông. Không có nhận thức đúng thì tất cả những đề xuất về đổi mới nội dung, phương pháp, đội ngũ… nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn này không thể đem lại hiệu quả mong muốn. 5
  9. 2.1. Thực trạng Trường chúng tôi là một trong những trường rất đặc biệt có đầy đủ các cấp học và nhiều đối tượng học sinh, từ những học sinh có học lực trung bình ở ngoài đến các em ở làng trẻ, các học sinh nghèo từ các huyện về, với mặt bằng học lực học sinh không đồng đều. Phụ huynh của trường rất đa dạng với nhiều ngành nghề như kinh doanh, buôn bá n, công chức, lực lượng vũ trang...Trong xu thế nói chung đời sống của nhân dân tương đố i ổ n đinh và ngà y cà ng đươ ̣c nâng cao. Được sự ̣ quan tâm của chính quyền các cấp cùng với các lĩnh vực khác thì giáo dục cũng được đầu tư phát triển. Hội đồng giáo dục cũng như Ban giá m hiê ̣u nhà trường đang ra sức phấn đấu đưa trường phổ thông Hermann Gmeiner Vinh trở thành một điểm sáng trong giáo dục ở thà nh phố Vinh và cả của tỉnh nhà. Thấm nhuần sự quyết tâm đó những năm qua nhà trường thúc đẩy nhiều biện pháp tổng thể nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường. Bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định: chất lượng đại trà, chất lượng học sinh giỏi ngày càng được nâng cao, vị trí xếp hạng của nhà trường từng bước được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên hoạt động dạy và học ở một số bộ môn còn nhiều bất cập chưa khắc phục được như môn lịch sử là điển hình. Trong nhiều năm trở lại đây, điểm Sử luôn ở vị trí cuối bảng, có điểm thấp, thậm chí là… thấp thảm hại trong các môn thi. Năm 2018, điểm trung bình môn Lịch sử là 3.79; năm 2019, điểm trung bình môn Lịch sử là 4.3; năm 2020, điểm trung bình môn Lịch sử là: 5.19; và đến năm 2021, điểm trung bình Lịch sử là 4.97. Phân tích phổ điểm của Bộ GD&ĐT cho thấy, năm 2021, Lịch sử là môn duy nhất trong 9 môn thi có điểm trung bình dưới 5. Với 637.005 thí sinh dự thi môn Lịch sử, điểm số có nhiều thí sinh đạt nhất là 4; số thí sinh có điểm nhỏ hơn và bằng 1 là 540 (chiếm tỷ lệ 0.08%). Đặc biệt, môn Lịch sử có 331.429 thí sinh có điểm dưới 5 (tỷ lệ 52,03%). Điểm thi này tiếp tục thể hiện thực trạng dạy và học Sử hiện nay tại các bậc học, nhất là bậc THPT và lớp 12 không hiệu quả. Nếu: Sợ, chán, không thích, học vẹt, học đối phó… là những thái độ quen thuộc của học sinh khi học Sử thì nản, bế tắc, chấp nhận, phó mặc… là tâm lý khá thường gặp của các thầy cô. Hai cặp tâm lý, thái độ này với môn Lịch sử tiếp cận, chi phối lẫn nhau, tạo nên một cái kết ngậm ngùi, đó là điểm số môn Lịch sử rất thấp trong kỳ thi tốt nghiệp. 6
  10. Phổ điểm chi tiết môn Lịch sử năm 2019 Phổ điểm môn Lịch sử Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021 theo phân tích của Bộ GD&ĐT 7
  11. Tuổi trẻ bây giờ được sinh ra và lớn lên trong thời bình, dường như các em chưa quan tâm nhiều đến lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng của môn Lịch sử? Đó là nỗi lo âu, trăn trở của mỗi chúng ta khi giảng dạy môn học này. Học sử không phải để nhồi nhét vào trí nhớ một cách vô cảm những sự kiện, con số, ngày tháng, mà học sử để sống và rung động với sự kiện lịch sử. Học sử để rút ra những bài học về nhân văn, về lòng yêu nước, theo phương châm học để hiểu và hành động như câu nói của Bác: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Thực tế hiện nay một số giáo viên vẫn còn coi nhẹ, chưa dành những quan tâm xứng đáng cho tiết dạy lịch sử, một số học sinh không có hứng thú khi học môn này dẫn đến chất lượng giờ học lịch sử còn hạn chế. Đại bộ phận học sinh khối 12 chán học môn Lịch sử, giờ Sử nhiều học sinh không chú ý, cố ý quậy phá, ít phát biểu xây dựng bài. Chất lượng điểm các bài thi rất thấp như năm học 2020 - 2021 khối 12 có gần 50% học sinh chưa đạt điểm trung bình, điểm 8 trở lên chỉ đạt 10%. Chính vì vậy, bên cạnh chất lượng đại trà thấp thì việc tìm ra những học sinh học tốt để bồi dưỡng thi học sinh giỏi các cấp là hết sức khó khăn. Để có nhữ ng nhâ ̣n xé t đánh giá chính xá c về thực tra ̣ng trên tôi đã thực hiê ̣n khả o sá t, điề u tra đố i vớ i 164 ho ̣c sinh củ a 4 lớ p (12A6,12A7,12A3,12A5) về hứ ng thú củ a ho ̣c sinh khi ho ̣c môn Lich sử trong năm ho ̣c 2021-2022 ta ̣i trường Phổ ̣ thông Herman Gmeiner Vinh vớ i kế t quả như sau: Phương án Số lươ ̣ng Câu hỏ i điề u tra Tỷ lê ̣ % lư ̣a cho ̣n (HS cho ̣n) 1. Em có hà o hứ ng trong A. Có 50 30,8% giờ học Li ̣ch sử không? B. Không 112 69,2% 2. Em có bi ̣ hấ p dẫn bở i A. Có 70 43,2% cá c sá ch nó i về sự kiê ̣n li ̣ch sử không? B. Không 92 56,8% 3. Em có hà o hứ ng tham A. Có 130 80,2% gia nhó m ngoại khó a học B. Không 32 19,8% tập Li ̣ch sử không? 4. Động cơ học tập môn A. Do bắ t buộc 122 75,3% Li ̣ch sử củ a em là gì ? B. Cầ n thiế t cho cuộc số ng 40 24,7% 5. Theo em môn li ̣ch sử có A. Quan trọng 75 46,3% tầ m quan trọng như thế nà o? B. Không quan trọng 87 53,7% 8
  12. Ngoài ra, khi hỏi thêm một số em chọn thi tổ hợp môn Khoa học xã hội, các em cho biết: “Em không thích nhiều môn học nhưng Lịch sử là môn em “sợ” nhất. Sát kỳ thi, em ngó được một chút và đi thi hầu như khoanh đáp án bừa.” hoặc “Lý do em chọn tổ hợp Khoa học xã hội là vì có môn Giáo dục công dân và Địa lý dễ kiếm điểm; chứ để chọn môn Lịch sử thì không bao giờ em dám chọn. Khô khan, dài dòng, khó thuộc, khó nhớ, không hấp dẫn…là những gì em ấn tượng về môn Sử”. Đa số ho ̣c sinh nhâ ̣n thứ c đươ ̣c tầ m quan tro ̣ng củ a môn Sử , có đô ̣ng cơ ho ̣c tâ ̣p đúng đắ n, có nô ̣i dung bổ ích và cầ n thiế t cho cuô ̣c số ng. Tuy nhiên trên thực tế chỉ có 40% ho ̣c sinh có thá i đô ̣ hứ ng thú và thích ho ̣c bô ̣ môn cò n la ̣i chá n môn ho ̣c nà y vớ i lý do đưa ra là giá o viên da ̣y nhà m chá n, ho ̣c sinh không có nhiề u thờ i gian để ho ̣c tâ ̣p môn nà y. Vì vâ ̣y, viê ̣c áp du ̣ng nhiề u giả i phá p ta ̣o hứ ng thú ho ̣c tâ ̣p môn Lich sử là rấ t cầ n thiế t để giú p ho ̣c sinh yêu thich môn ho ̣c hơn và đa ̣t kế t quả ̣ ́ ho ̣c tâ ̣p cao hơn. 2.2. Nguyên nhân những hạn chế Qua theo dõi thống kê tôi thấy có những nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không thích học môn Lịch sử ở trường phổ thông Hermann Gmeiner Vinh. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến việc học sinh đạt điểm thấp môn Lịch sử. Điều đầu tiên phải kể đến việc nước ta đang ở giai đoạn hội nhập quốc tế nên người dân có nhu cầu quan tâm đến các môn học, lĩnh vực mang tính hội nhập như Tin học, Ngoại ngữ…các ngành nghề mang tính hội nhập hay phục vụ quá trình hội nhập như: Ngoại giao, ngoại thương quan hệ quốc tế, Luật… Khi chọn để thi, học sinh không thích chọn các môn xã hội, đặc biệt là môn Sử bởi tính chất khô khan của nó. Khi môn học không hấp dẫn, học sinh khó nỗ lực để nghiền ngẫm, nghiên cứu và cũng không có động lực học. Hiện số học sinh đam mê, học tốt môn Lịch sử chiếm số lượng rất ít trên cả nước. Yếu tố thứ 2 liên quan đến việc học sinh thờ ơ với môn Sử, không thích học Sử và thi Sử điểm thấp là do định hướng của cha mẹ, bởi cha mẹ thường hướng con theo những tổ hợp dễ chọn nghề, chọn trường và dễ tìm việc làm. Trong số những ngành nghề này, ít xuất hiện bóng dáng của môn Lịch sử. Yếu tố rất quan trọng phải kể đến, đó là đội ngũ giáo viên dạy Sử. Hiện có không nhiều giáo viên tâm huyết, đam mê, tìm tòi phương pháp đổi mới trong dạy Sử, vì vậy không truyền được cảm hứng yêu môn học Lịch sử cho học sinh. Ngoài ra, các trường học vẫn chưa thực sự coi trọng môn Lịch sử; không có đội ngũ giáo viên dạy Sử tốt, thậm chí có chỗ có nơi còn phân công giáo viên môn khác kiêm nhiệm dạy môn Sử. Phương pháp dạy Sử nhàm chán, cũ kỹ khiến học sinh càng ngày càng muốn rời xa môn Sử. Thêm nữa, chương trình sách giáo khoa Sử vẫn dài; phương pháp dạy Sử chưa lôi cuốn. Lịch sử là câu chuyện kể về quá khứ. Nếu chỉ kể đơn thuần, cũ kỹ và dài dòng kiểu nhồi nhét kiến thức thì không ai muốn nghe, muốn học; nhưng nếu người dạy đổi mới phương pháp, đưa công nghệ, đưa hình ảnh vào tiết Sử thì sẽ gây hứng thú, truyền cảm hứng cho học sinh. Ví như, dạy Lịch sử Đảng, nếu chỉ dạy Nghị quyết, Điều lệ, Cương lĩnh, … khô cứng thì có lẽ học sinh chỉ ngồi… ngáp. Ngược lại, người dạy đưa hình ảnh sinh động vào sẽ 9
  13. làm buổi học trở nên hấp dẫn, thú vị, học sinh cũng dễ tiếp thu hơn. Trong các yếu tố trên thì học sinh và giáo viên đóng vai trò quan trọng hơn mà tiên quyết nằm ở đội ngũ giáo viên. Giáo viên có tốt thì học sinh mới tốt, chất lượng tiếp thu môn Sử mới tốt và điểm số môn Sử mới cao. Trước hết, phải thừa nhận rằng, học môn Lịch sử khó và không hấp dẫn. Ðã là lịch sử, nhất thiết phải gắn với sự kiện, nhân vật và hiểu lịch sử nhất định phải nắm vững những sự kiện, nhân vật cơ bản, quan trọng trong suốt quá trình hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Thứ hai, chương trình do Bộ Giáo dục và Ðào tạo quy định là yêu cầu học sinh phải nắm được hầu như tất cả các nội dung về lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới, trong khi đó, số tiết quy định quá ít, chỉ một hoặc hai tiết học trong một tuần. Thứ ba, do yêu cầu của chương trình, nội dung trong sách giáo khoa quá nặng, ôm đồm, thiếu tính chọn lọc, thậm chí một số nội dung thiếu tính liên kết và lô-gích. Nội dung trong sách giáo khoa như một "đĩa nén", đầy ắp thông tin mà học sinh không thể nhớ hết được, dẫn đến tình trạng "học trước quên sau". Thứ tư, vì cho rằng đây là môn phụ nên nên học sinh cũng mất đi sự hứng thú với môn học. Thứ năm, nhiều giáo viên cho rằng lịch sử là một môn phụ, cho nên giáo viên dạy môn Lịch sử chưa tập trung cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy, chỉ da ̣y theo kiể u truyề n thố ng, chỉ thuyế t trình hay liêṭ kê nhữ ng sự kiên nên tiế t ho ̣c ̣ thường trầ m lắ ng, không thu hú t đươ ̣c sự chú ý củ a ho ̣c sinh dẫn đế n kế t quả ho ̣c tâ ̣p không cao. Thứ sáu, khâu kiểm tra đánh giá thực hiện chưa tốt như: kiểm tra còn máy móc, khuôn mẫu, chủ yếu là kiểm tra học thuộc lòng, ít đề ra theo hướng phát triển tư duy. Bên cạnh đó có không ít đề ra quá khó, nặng về con số và sự kiện, chưa sát với nội dung học. Thứ bảy, vì cho rằng là môn học phụ nên trong quá trình giảng dạy giáo viên chỉ chú ý dạy cho xong mà chưa chú ý đến vấn đề xây dựng cho học sinh ý thức tự học, tự tìm hiểu, việc củng cố, dặn dò còn sơ sài chưa tạo cho học sinh nề nếp học tập từ đó làm cho học sinh thấy nhàm chán, học cho xong nên kết quả đưa lại rất thấp. Thực trạng cho thấy, đầu năm học khi tôi nhận lớp, chỉ có khoảng hơn 60% học sinh hứng thú, thích học môn Lịch sử. Trước khi thực hiện đề tài này, trong lớp có: 28/49 HS yêu thích, hứng thú học môn Lịch sử. (chiếm 62%). 5/49 HS học vì yêu cầu của thầy cô, (chiếm 10%). 6/49 HS chưa hứng thú học môn lịch sử, (chiếm 12%). Như vậy qua tìm hiểu thực trạng chúng ta nhận thấy rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh ngại học Lịch sử nhưng theo tôi phải thẳng thắn nhìn nhận rằng: - Phương pháp dạy học của giáo viên chưa thật sự đổi mới. Trong hội giảng của trường hầu như giáo viên không tham gia hoặc đăng kí dạy môn Lịch sử. 10
  14. - Trang thiết bị cũng như băng hình, tài liệu về sử học còn hạn chế. Giáo viên ít đầu tư làm đồ dùng cho môn học mà học sinh chủ yếu được học chay. - Quan niệm về vị trí môn học của phụ huynh và học sinh còn sai lệch. - Nhà trường chưa tổ chức nhiều các hội thi hay hoạt động ngoài giờ lên lớp có kiến thức sử học. - Kiến thức về sử học của một số giáo viên còn hạn chế nên khi lên lớp không mở rộng cho học sinh thêm kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa. Vậy để giúp học sinh học tốt môn Lịch sử đòi hỏi trước hết giáo viên cần có kiến thức Lịch sử chuyên sâu. Thiết kế bài giảng sinh động và mới mẽ trong từng tiết dạy, sử dụng giáo án điện tử vào tiết dạy, luôn sưu tầm, cập nhật tài liệu, kiến thức Lịch sử thường xuyên qua thông tin đại chúng, trong tiết dạy phải biết phối hợp các phương pháp dạy học có hiệu quả. Ngoài ra, luôn luôn yêu cầu học sinh phối hợp giữa lí thuyết và thực hành. 2.3. Một số kinh nghiệm rút ra - Nhà trường phải giáo dục tốt động cơ học tập, tránh học lệch, học thực dụng, cần thay đổi về nhận thức đối với môn Lich sử. ̣ - Giáo viên phải giảng dạy sao cho học sinh hiểu và nhớ bài ngay trên lớp, bằng cách truyền đạt có cảm xúc, có hiểu biết rộng của giáo viên, chứ không phải đọc từ giáo án. - Giáo viên phải biết giảm lượng kiến thức trong sách giáo khoa, chỉ cho học sinh nhớ những chi tiết thật quan trọng trong một tiết học. - Không nên đặt yêu cầu quá cao đối với học sinh. Cho học sinh đi thực tế, để qua đó các em sẽ thay đổi nhận thức, say mê và yêu thích môn Sử. - Giáo viên phải đổi mới cách dạy và học, hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động, lấy “học” làm trung tâm thay vì lấy “dạy” làm trung tâm. - Giáo viên cần phải giáo dục lòng tự tôn dân tộc và yêu thích môn Sử cho học sinh. Giáo viên không nên tự hạ thấp môn Lich Sử, như coi đó là môn phụ ̣ chẳng hạn, rồi từ đó dạy thiếu tự tin, dạy thiếu nhiệt tình. Trước hết, người giáo viên luôn xác định muốn giúp các em yêu thích học môn Lịch sử thì giáo viên phải là người yêu thích sử, phải tự trang bị cho mình thật nhiều kiến thức về lịch sử. Bởi vậy tôi luôn nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, nắm vững các kiến thức mục tiêu cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo một hệ thống kiến thức liên tục, có sự liên hệ liền mạch: các thời kì, các sự kiện tiêu biểu, các nhân vật lịch sử tiêu biểu. Xây dựng lớp học thân thiện là điều cần thiết và trong đó tôi không thể bỏ qua môn lịch sử. Tại góc học tập của lớp tôi luôn dành một phần nhỏ để các em trưng bày những tư liệu lịch sử mà các em đã sưu tầm được. Trong các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp tôi luôn cùng đồng nghiệp chuẩn bị chu đáo nội 11
  15. dung và trong những nội dung ấy không thể thiếu nội dung tìm hiểu về các nhân vật hay sự kiện lịch sử. Có làm được các biện pháp như vừa nêu trên thì tiết học Lich sử không còn ̣ buồn tẻ, xơ cứng, nhàm chán, mà trở nên rất lý thú, rung cảm, sinh động, hiệu quả. 3. Các giải pháp tạo hứng thú giúp học sinh học tốt môn lịch sử 12 ở trường phổ thông Hermann Gmeiner Vinh. Có nhiều giải pháp để giúp học sinh yêu thích môn lịch sử nhưng trong khuôn khổ đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ đề cập đến những nhóm giải pháp mới ít giáo viên sử dụng, nhưng bản thân tôi sử dụng lại đạt hiệu quả. 3.1. Giải pháp tạo ấn tượng của người thầy Sau mỗi tiết giảng trên lớp, điều quan trọng là người học đã lĩnh hội được kiến thức gì về những nội dung mà thầy đã truyền đạt. Đó là vấn đề tất yếu và cũng là mục tiêu cần đạt được của quá trình dạy học. Nhưng hãy xem xét ở một góc độ khác, người thầy giáo đã tạo được những dấu ấn gì về phía người học, để mãi về sau này khi không còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng những ký ức về người thầy năm xưa cùng với những tình cảm tốt đẹp nhất vẫn nồng cháy một cách mãnh miệt trong tâm hồn của người học. Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng, không phải thầy cô giáo nào cũng gây được ấn tượng đối với học sinh, và cách gây ấn tượng ở mỗi thầy cô giáo là hoàn toàn khác nhau. Trải qua một thời gian cắp sách đến trường và hơn 20 năm giảng dạy tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ của bản thân về những kỹ năng để người thầy tạo ấn tượng đối với người học. Hãy ghi dấu ấn ngay từ lần gặp gỡ, tiếp xúc đầu tiên với người học. Có nhiều cách để tạo ấn tượng đối với người học, nhưng có lẽ, để lại ấn tượng mạnh mẽ nhất vẫn là buổi tiếp cận ban đầu. Điều này đòi hỏi người thầy giáo phải chuẩn bị tốt về trạng thái tâm lý, đủ năng lực tư duy và sức khỏe cần thiết để duy trì quá trình truyền đạt kiến thức về môn học mà mình đảm nhận. Sự uể oải, thiếu thân tình hoặc tự cao về khả năng, năng lực của mình... là điều người thầy nên tránh. Thực tế cho thấy, ấn tượng đầu tiên của học sinh về người thầy rất khó thay đổi và nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập sau này. Ví dụ: khi giới thiệu về nhân vật lịch sử, cụ thể là tấm gương chiến đấu của anh Phan Đình Giót, anh Tô Vĩnh Diện tôi thể hiện giọng chậm rãi, sâu lắng, nhấn giọng khi nhắc đến tình huống hi sinh dũng cảm của các anh. Đối với các sự kiện lịch sử, tôi lại trình bày với giọng nói rõ ràng, mang tính chất tường thuật, lưu ý những mốc thời gian gắn với sự kiện diễn ra tại thời điểm nào, kết hợp phương tiện trực quan để làm rõ ý cần minh hoạ. Trong từng tiết dạy tôi thường dành ít phút thời gian để có những cuộc trao đổi nhỏ với các em, từ đó sẽ giúp bản thân định hướng thêm trong bài dạy của mình. Sau mỗi tiết tôi thường đặt ra các câu hỏi dạng như: Sau bài học hôm nay, em có suy nghĩ gì? Bài học hôm nay, em tâm đắc nhất điều gì? Ý kiến của em về vấn đề này như thế nào? 12
  16. Ngoài ra, tôi luôn quan tâm phát huy vai trò chủ động trong hoạt động dạy học của học sinh qua việc yêu cầu các em sưu tầm những tư liệu, thu thập thông tin liên quan đến môn học. Khai thác môi trường học tập của các em đối với môn lịch sử quả thật là rộng lớn, nơi các em ở, vui chơi học tập, một cái tên đường, một áp phích tuyên truyền, một di vật, một địa danh lịch sử cũng đủ làm gợi ý tò mò của các em. Chính vì vậy các em cần có thói quen quan sát cuộc sống xung quanh mình. Vì đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá không chỉ đối với môn lịch sử nói riêng, mà của tất cả các môn học khác. Bởi vậy, tôi luôn giúp các em hình thành thói quen sưu tầm tư liệu lịch sử thông qua việc giao nhiệm vụ cụ thể, phù hợp qua từng tiết dạy, chủ điểm tháng, tuần. Dạy học là một công việc không hề dễ dàng và phương pháp truyền cảm hứng cho học sinh lại càng khó khăn hơn. Người giáo viên có thể tạo một môi trường học tập thân thiện, tích cực với học sinh; tạo ấn tượng tích cực nhằm tạo động lực cho người học thì phải chứng minh được rằng người thầy chính là người đáng để người học lắng nghe, biết nghe lời. Người giáo viên cần đưa những bài tập, nhiệm vụ bắt buộc người học phải tư duy, sáng tạo. Hãy tạo ra một dự án độc đáo và thú vị cho học sinh để thấy được người thầy là người có năng lực, những nội dung người thầy nói là có giá trị. Tôi thấy học sinh nếu cả thầy và trò cùng làm thì các em sẽ hào hứng hơn. Qua công việc giảng dạy hàng ngày, tôi phát hiện ra các em có rất nhiều ý tưởng hay. Bản thân các học sinh mang lại nguồn năng lượng để sau mỗi giờ dạy mình thấy vui hơn. 3.2. Giải pháp tạo sự mới lạ trong giờ dạy lịch sử Học lịch sử là tìm hiểu về những gì đã diễn ra trong quá khứ nếu đơn thuần trong giờ học lịch sử giáo viên cố gắng truyền đạt cho học sinh những kiến thức cơ bản mà sá ch giá o khoa đã trình bày chi tiết thì giờ học sẽ trở nên nhàm chán, khô khan. Vì vậy để tăng tính hấp dẫn thu hút học sinh thì giáo viên phải cung cấp cái mới cho học sinh, giúp cho các em thấy được những điều nghe, hiểu ở trên lớp, hôm nay khác với những điều đã hiểu biết hôm qua, ở bài trước hay ở cấp học trước. Cái mới đó được khai thác trong sách giáo khoa, do vốn hiểu biết của các giáo viên tích lũy qua sách vở và cuộc sống. Mang cái mới tới cho học sinh, khơi dậy lòng ham hiểu biết, sẽ tạo nên sự thích thú, tập trung phấn khởi học tập. Tất nhiên cái mới đó phải được chọn lọc, tinh giản. Cái mới, cái hấp dẫn ở đâu cũng có thể là chiều sâu của vấn đề mà người giáo viên phải biết khai thác từ những điều tưởng chừng rất bình thường. Ví dụ 1: Khi dạy bài 16: ''Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng tám (1939-1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời''. Mục IV- Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (2-9-1945). Trong phần nói về Bản Tuyên ngôn độc lập Bác Hồ đọc tại quảng trường Ba Đình lịch sử vào ngày 2/9/1945, giáo viên cho biết Hồ Chủ Tịch có đưa 2 trích đoạn của tuyên ngôn độc lập của Mĩ và Tuyên ngôn độc lập của Pháp vào trong tuyên ngôn của ta. Điều này có thể tạo ra sự bất ngờ cho học sinh, vì học sinh sẽ suy nghĩ tại sao Bác lại 13
  17. đưa tuyên ngôn của kẻ thù xâm lược vào tuyên ngôn của mình? từ sự bất ngờ này giáo viên cùng học sinh phân tích dụng ý, sự khôn khéo của Bác. Ví dụ 2: Khi dạy mục I.1 của bài 22: ''Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược, nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973)'' Giáo viên cho học sinh xem trích đoạn bộ phim tài liệu "Việt Nam thiên lịch sử truyền hình'' (https://www.youtube.com/watch?v=fyKe6HoTuYc&ab_channel) nội dung đoạn phim là quang cảnh một đoàn xe tăng lội nước đang đi càn ở vùng đồng nước mênh mông, xe tăng của Mĩ bắn một loạt đạn về phía trước, bỗng nhiên từ dưới nước nổi lên một số bộ đội ta bị trúng đạn. Đoạn phim làm cho học sinh thấy có 2 sự bất ngờ: Thứ nhất, đó là chiếc xe tăng to lớn nặng nề vậy mà có thể di chuyển được dưới nước như một tàu chiến, từ đó học sinh có thể hình dung ra sự hiện đại của các vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại của Mĩ sử dụng ở Việt Nam. Thứ hai, học sinh sẽ bất ngờ với sự gian khổ của bộ đội ta trong chiến đấu ở vùng sông nước Đồng bằng Sông Cửu Long vào mùa lũ đó là vào ban ngày các chiến sĩ, bộ đội phải ngâm mình tránh địch ở dưới nước và thở bằng ống sậy. Từ đây sẽ giúp học sinh nhận thức được sự hy sinh lớn lao của các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập tự do. Tạo sự mới lạ trong giảng dạy môn lịch sử còn có thể vận dụng thơ ca, câu đố vào giảng dạy lịch sử nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. Thơ ca, âm nhạc nói chung với ưu thế của nó là dễ thuộc, dễ đi vào lòng người sẽ là một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc dạy và học Lịch sử thông qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ cũng như anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm Lịch sử nước nhà. Ví dụ 3: Khi dạy bài 18: “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp(1945-1950” Mục III.1“Chiến dịch Việt Bắc thu- đông năm 1947”. Vừa chỉ vào bản đồ giáo viên vừa nói: “Đây đường quốc lộ số 3, bộ đội và du kích của ta đã bao vây quân địch nhảy dù xuống Việt Bắc như Bắc Cạn, Chợ Đồn...Còn trên đường thủy ta đánh hàng chục trận lớn nhỏ như chiến thắng Bình Ca - Đoan Hùng. Ngoài ra, trên đường bộ dọc theo quốc lộ số 4 ta đã phục kích đánh nhiều trận, điển hình là trận phục kích trên đèo Bông Lau...”. Kết thúc diễn biến trận đánh, giáo viên chỉ tay lên bản đồ hỏi: “Tại sao Pháp chọn đánh Việt Bắc?”. Nếu học sinh chần chừ, giáo viên gợi ý bằng thơ: Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. (Việt Bắc- Tố Hữu) Từ những câu thơ học sinh sẽ biết được: Việt Bắc là nơi các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ ta đang lấy làm căn cứ. Đánh vào Việt Bắc là đánh 14
  18. vào cơ quan đầu não của ta. Kết thúc tiết học, để mở rộng cho học sinh thấy được sự gian khổ của quân và dân ta trong kháng chiến giáo viên có thể hỏi “Em có biết những ngày tháng khó khăn nhưng đằm thắm nghĩa tình đồng chí, đồng bào ở Việt Bắc như thế nào không?”. Sau khi học sinh phát biểu giáo viên có thể sử dụng một đoạn thơ trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu để minh hoạ. Qua thực tế vận dụng thơ ca, câu đố vào dạy học lịch sử tôi thấy là rất có hiệu quả, các em không cần suy nghĩ, cố công học thuộc lòng mà vẫn nhớ được các sự kiện, nhân vật lịch sử …không những thế nó còn bồi dưỡng kĩ năng làm văn cho các em. Tuy nhiên giáo viên phải vận dụng sáng tạo, không nên lạm dụng, quá tải trong việc vận dụng kiến thức thơ ca, câu đố luôn luôn đảm bảo tính vừa sức của học sinh. Các kiến thức thơ văn vận dụng cần phải có nguồn gốc xuất xứ chính xác, rõ ràng. Khi đọc thơ văn giáo viên phải đọc có cảm xúc, truyền cảm, có khả năng đi vào lòng người. 3.3. Giải pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học lịch sử Để nâng cao hiệu quả, chất lượng dạy học môn lịch sử cần phải đổi mới phương pháp dạy học bằng việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật, phương tiện dạy học hiện đại vào trong từng tiết dạy. Tuy nhiên, đổi mới không có nghĩa là thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy học cũ bằng phương pháp dạy học mới. Bởi vì trong thực tế một số PPDH truyền thống vẫn phát huy tác dụng và có hiệu quả, quan trọng là người giáo viên phải biết cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống nhằm phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh như phương pháp thuyết trình. Đây là phương pháp cũ nhưng nếu ta vận dụng nó vào kể chuyện lịch sử thì hiệu quả sẽ rất lớn. Việc sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học lịch sử đã kích thích hứng thú tự chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Là công cụ của giáo viên trong việc giúp học sinh nhận thức được kiến thức lịch sử. Sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học lịch sử vào bài học sẽ giúp cho học sinh: - Chú tâm vào bài học. - Huy động được vốn kiến thức, những hiểu biết sẵn có của học sinh. - Thu hút học sinh hăng say tìm hiểu. Để giờ học có hiệu quả cao khi sử phương pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học lịch sử trong dạy học lịch sử, giáo viên yêu cầu các em về nhà tự tìm hiểu trước qua sách báo, qua những lời kể lại của ông bà, cha mẹ …cộng thêm sự cung cấp của giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn và cảm thấy thích học lịch sử hơn. Việc sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học trong dạy học lịch sử sẽ giúp các em hiểu vấn đề một cách tập trung nhất mà không rơi vào tình trạng chán nản khi phải học bộ môn lịch sử. Mỗi bài lịch sử có thể có rất nhiều những câu chuyện, kể cho học sinh nghe những câu chuyện nhỏ nhưng ý nghĩa lại vô cùng lớn. Song cái lớn nhất mà người thầy đạt được đó là lôi cuốn học sinh học môn lịch sử, tránh nhàm chán, tránh nặng 15
  19. nề làm cho học sinh ham thích môn Lịch sử hơn. Nhưng muốn đạt được điều đó, người giáo viên phải lập kế hoạch dạy học một cách chu đáo, làm sao vừa đạt được nội dung kiến thức bài học, vừa lồng ghép được những câu chuyện. Hơn nữa người giá o viên phải rèn luyện kỹ năng kể chuyện một cách hấp dẫn - đây là năng lực sư phạm để khẳng định vị trí người thầy trên bục giảng. Câu chuyện định kể phải có ý nghĩa nhất định, phù hợp nội dung bài, phù hợp tâm lý lứa tuổi, tránh phản cảm, phản giáo dục. Ví dụ: Ở mục II.2 của bài 20: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp kết thúc (1953-1954)”. Khi giảng về phần công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, giáo viên lồ ng ghép hình ảnh hy sinh của chiến sĩ Tô Vĩnh Diện khi đang làm nhiệm vụ bằng cách kể chuyện: Tô Vĩnh Diện (1924-1953), Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (Truy phong; 7/5/1955), khi hy sinh, anh là Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367. Huân chương Quân công hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng Nhất. Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo, ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở, anh phải chịu bao cảnh áp bức bất công. Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa phương. Năm 1949, đồng chí xung phong đi bộ đội. Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu làm mọi việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới đích an toàn. Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, anh xung phong lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo. Trong lúc kéo pháo cũng như lúc nghỉ dọc đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ đường dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng cái dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xảy ra. Kéo pháo vào đã gian khổ, hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt, anh đã đi sát từng người, động viên giải thích nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết tâm cùng nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi. Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp và cong rất nguy hiểm. Tô Vĩnh Diện cùng đồng đội Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo thẳng đường. Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, anh Ty bị hất xuống suối. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô đồng đội: “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo” và anh buông tay lái xông lên phía trước, lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ pháo dừng lại. Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. 16
  20. Khẩu pháo 37mm gắn với câu chuyện anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo hiện trưng bày tại bảo tàng Phòng không - Không quân. Qua kể chuyện một số nhân vật lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1946-1954 nói trên cho thấy việc áp dụng phương pháp sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử có thể giúp cho học sinh nhận thức được các sự kiện lịch sử một cách trực quan và sinh động. Đây là một phương pháp mà trong chương trình lịch sử THPT ít đề cập đến. Trong năm học 2021 - 2022 bản thân tôi đã áp dụng phương pháp dạy học này để giảng dạy lịch sử ở các lớp khối 12 thì nhận thấy rằng đa số học sinh tỏ ra rất thích thú, ham học đưa kết quả việc dạy và học ngày càng cao hơn. 3.4. Giải pháp sử dụng trò chơi trong dạy học lịch sử Trò chơi trong dạy học lịch sử làm sinh động giờ học biến những chiến dịch, chuỗi sự kiện khô khan, những mốc thời gian khó nhớ thành những trò chơi sôi động giúp học sinh tiếp cận tri thức một cách nhẹ nhàng, đầy thú vị tăng hứng thú học tập. Tổ chức tốt hoạt động trò chơi trong dạy học lịch sử sẽ biến những giờ học khô khan, nhàm chán trở thành những hành trình khám phá, tiếp nhận tri thức hết sức lí thú và đầy cuốn hút. Tổ chức tốt hoạt động trò chơi trong tiết dạy lịch sử sẽ làm tăng sự tham gia học tập của học sinh, học sinh hòa mình vào trò chơi có nghĩa là học sinh đang chủ động tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức. Bản chất của phương pháp sử dụng trò chơi học tập là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt động của học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động bằng cách tự chơi 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0