Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng làm văn dạng đề phân tích nhân vật qua một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi (chương trình Ngữ văn 12) theo cấu trúc đề tham khảo
lượt xem 7
download
Mục tiêu của sáng kiến "Rèn kĩ năng làm văn dạng đề phân tích nhân vật qua một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi (chương trình Ngữ văn 12) theo cấu trúc đề tham khảo" giúp cho HS chủ động tự tin hơn trong học tập, các em đã phần nào hình dung ra các dạng đề bài, cách thức làm bài từ đó áp lực thi cử đối với cả HS và phụ huynh HS cũng giảm bớt, tâm lý học tập và thi cử không còn nặng nề, tình trạng trông chờ ỷ lại, đối phó cũng giảm đi đáng kể.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng làm văn dạng đề phân tích nhân vật qua một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi (chương trình Ngữ văn 12) theo cấu trúc đề tham khảo
- S SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NINH BÌNH TRƯỜNG THPT GIA VIỄN A () SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG PHÂN TÍCH NHÂN VẬT QUA MỘT ĐOẠN TRÍCH TRONG TÁC PHẦM VĂN XUÔI (CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12) THEO CẤU TRÚC ĐỀ THAM KHẢO Năm học 2020 2021
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập Tự do Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến trường THPT Gia Viễn A Chúng tôi là TT Họ và tên Ngày Nơi công Chức Trình độ Tỷ lệ tháng năm tác vụ chuyên đóng góp sinh môn vào việc tạo ra SK 1. Lê Thành 01/ 1/1971 THPT Hiệu Thạc sỹ 40% Dương Gia Viễn A trưởng 2. Trần Thị Cúc 27/2/1982 THPT Giáo Thạc sỹ 25% Gia Viễn A viên 3. Đinh Thị Lệ 04/1/1986 THPT Giáo Thạc sỹ 20% Gia Viễn A viên 4. Đinh Thị 22/10/1982 THPT Giáo Cử nhân 15% Nguyệt Gia Viễn A viên Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN DẠNG ĐỀ PHÂN TÍCH NHÂN VẬT QUA MỘT ĐOẠN TRÍCH TRONG TÁC PHẨM VĂN XUÔI (CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12) THEO CẤU TRÚC ĐỀ THAM KHẢO. Lĩnh vực áp dụng cho hoạt động giáo dục đối với học sinh THPT
- MỤC LỤC Nội dung Trang TÊN SÁNG KIẾN 4 1. GIẢI PHÁP CŨ THƯỜNG LÀM 5 2. 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP MỚI 5 3.1. Áp dụng hiệu quả những cách ôn tập truyền thống 6 3.2 Rèn kĩ năng ôn tập dạng đề phân tích nhân vật qua một đoạn 6 trích trong tác phẩm văn xuôi theo cấu trúc đề minh họa năm 2021 2022. 3.2.1 Phân loại nhân vật trong TP văn xuôi trong chương trình 7 Ngữ văn 12. 3.2.2 Những lưu ý khi làm bài phân tích nhân vật trong một đoạn 8 trích văn xuôi. 3.2.3 Các dạng đề và dàn ý chi tiết cho kiểu bài phân tích nhân 9 vật trong đoạn trích thuộc tác phẩm văn xuôi (chương trình Ngữ văn 12) Phân tích nhân vật bà cụ Tứ qua đoạn trích (TP Vợ nhặt Kim Lân) Phân tích nhân vật Tràng qua đoạn trích (TP Vợ nhặt Kim Lân) Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích (Tp Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu) Phân tích nhân vật Trương Ba trong qua trích (TP Hồn Trương Ba da hàng thịt Lưu Quang Vũ) Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà qua đoạn trích (tùy bút
- Người lái đò Sông Đà Nguyễn Tuân) IV. KẾT QUẢ 35 V. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG 36 VI. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 36 1. Tên sáng kiến. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đặc biệt là Nghị quyết Trung ương số 29NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, giáo dục phổ thông trong phạm vi cả nước đang thực hiện đổi mới đồng bộ các yếu tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục. Để phù hợp với định hướng đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh, thì yêu cầu đổi mới nội dung đề thi của các môn thi trong các kì thi là điều tất yếu. Kì thi THPTQG năm nay – năm học 2020 2021 Bộ GD&ĐT đã công bố đề thi minh họa. Nhìn vào cấu trúc đề thi có thể thấy không có nhiều thay đổi giữa các phần, số câu, số điểm giành cho các kĩ năng đọc hiểu, nghị luận xã hội, nghị luận văn học. Tuy nhiên, sự thay đổi trong đề minh họa năm nay nằm ở hướng ra đề phần nghị luận văn học, phần thi chiếm 50% số điểm trong bài thi. Đó là yêu cầu phân tích, cảm nhận về hình tượng nhân vật Sông Hương trong một đoạn văn thuộc bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Từ đó chúng tôi nhận thấy kiểu bài phân tích, cảm nhận về một nhân vật, một đoạn văn trong tác phẩm truyện ngắn và kí rất quan trọng. Mặt khác việc tuyên truyền, tập huấn của Sở GD&ĐT, cũng như của các nhà trường phổ thông nhấn mạnh vào việc ôn tập bám sát đề minh họa. Từ đây
- vấn đề đặt ra: làm thế nào để giúp cho việc dạy và học, ôn luyện và thi cử đạt kết quả? Điều này khiến cho nhiều giáo viên trăn trở. Là những giáo viên dạy môn Ngữ văn trong nhà trường THPT đặc biệt là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 12 và đang ôn luyện cho các em bước vào kì thi THPTQG, trước sự thay đổi về đề thi, chúng tôi đã gặp phải những khó khăn nhất định: Về phía HS: do tâm lí “ngại như văn” cho nên phần lớn những HS không chọn môn văn để xét tổ hợp tuyển sinh Đại học và những HS học lực yếu đều ngại và lười học văn; việc phân tích tác phẩm văn học vốn đã khó, đặc biệt là yêu cầu phân tích một. Bên cạnh đó, nhiều HS chọn tổ hợp xét tuyển Đại học có môn văn và có lực học khá, nhưng trước sự thay đổi đề thi của năm học này thì quá trình ôn tập và thực hành vẫn gặp phải nhiều khó khăn. Về phía GV: Mặc dù đã lĩnh hội chủ trương của Bộ GD&ĐT về việc thay đổi đề thi, nhưng do việc tiếp cận với đề thi tham khảo diễn ra gần đây, cho nên quá trình giảng dạy và ôn luyện cho HS vẫn còn gặp lúng túng như: việc ôn tập tác phẩm kí, truyện chưa chuyển hẳn sang dạy kĩ năng phân tích đoạn, việc ra đề và làm đáp án còn hạn chế; thời gian dành cho ôn tập bộ môn không nhiều nên việc rèn kĩ năng lphân tích một đoạn văn hay một vấn đề trong đoạn văn thuộc tác phẩm kí, truyện chưa thường xuyên, chưa thực sự có hiệu quả. Xuất phát từ thực trạng trên và dựa vào kết quả khảo sát, tìm tòi nghiên cứu những giải pháp khắc phục khó khăn, chúng tôi đề xuất sáng kiến: RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN DẠNG ĐỀ PHÂN TÍCH NHÂN VẬT QUA MỘT ĐOẠN TRÍCH TRONG TÁC PHẨM VĂN XUÔI (CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12) THEO CẤU TRÚC ĐỀ THAM KHẢO. 2. Giải pháp cũ thường làm. Giảng dạy ôn tập cho HS lớp 12 bước vào kì thi THPTQG là việc làm thường niên và là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với mỗi nhà trường. Cách thức ôn tập của GV bộ môn Ngữ Văn chúng tôi trong mấy năm gần đây như sau: Trước hết căn cứ vào kế hoạch chuyên môn, kế hoạch ôn tập chung của nhà trường, nhóm trưởng xây dựng kế hoạch ôn tập của bộ môn từ đó GV triển khai đến từng lớp, có thay đổi linh hoạt phù hợp với từng đối tượng HS, nhưng nhìn chung vẫn hướng tới: Thứ nhất: Củng cố lại nội dung kiến thức cơ bản đã được học trên lớp cho HS như kiến thức về tác giả, tác phẩm văn học, về giai đoạn tiến trình lịch sử văn
- học hay các kiến thức về lí luận văn học, về Tiếng việt và Phong cách ngôn ngữ v.v… Thứ hai : Rèn luyện các kĩ năng làm bài của từng phần trong đề thi THPTQG như: kĩ năng đọc hiểu văn bản, kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội, kĩ năng làm văn nghị luận văn học với các dạng đề (nghị luận về một đoạn thơ bài thơ, nghị luận về một tác phẩm một đoạn trích văn xuôi, nghị luận về một ý kiến bàn về văn học và dạng đề so sánh) Thứ ba: Luyện đề tổng hợp chung. Căn cứ vào cấu trúc các đề minh họa của Bộ GD, GV hướng dẫn làm các đề thi với cấu trúc và kiểu dạng tương tự. Như vậy theo như giải pháp cũ thường làm, tính hiệu quả và khoa học tương đối tốt so với năm học trước đây và một số năm trước đó. Nhưng nếu áp dụng với kế hoạch ôn tập bộ môn Ngữ văn đối với HS lớp 12 trong năm học này (2020 2021) thì tính hiệu quả sẽ không cao, biểu hiện ở chỗ: Phần rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học dạng đề phân tích đoạn văn trong tác phẩm văn xuôi chưa được chú ý đến, nếu có sẽ không có tính hệ thống, khoa học…Từ đây dẫn đến việc: HS hoang mang không biết học từ đâu, tâm lí của HS cho rằng việc học hành thi cử hiện nay là quá tải diễn ra rất nặng nề, vì thế có kiểu học đối phó, trông chờ, ỉ lại…; GV cũng rất lúng túng khi biên soạn đề đáp án theo form này đối với các tác phẩm kí, truyện trong quá trình ôn tập cho HS, các dạng đề minh họa đưa ra không phong phú, không có tính hệ thống. 3. Giải pháp mới cải tiến. Lĩnh hội tinh thần chung về việc đổi mới nội dung của đề thi THPTQG trong năm học này, tổ nhóm chuyên đã xây dựng kế hoạch ôn tập cho HS lớp 12, trong đó có đặc biệt chú ý đến việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học dạng đề phân tích nhân vật trong đoạn văn trong tác phẩm kí, truyện. Căn cứ vào kế hoạch chung của tổ nhóm chúng tôi triển khai nội dung này với những giải pháp cụ thể sau: 3.1. Tiếp tục triển khai những giải pháp cũ có hiệu quả: Thứ nhất: Củng cố nội dung kiến thức cơ bản cho HS như kiến thức về tác giả, tác phẩm văn học, về giai đoạn tiến trình lịch sử văn học hay các kiến thức về lí luận văn học, về Tiếng việt và Phong cách ngôn ngữ v.v… Thứ hai : Rèn luyện kĩ năng làm bài của từng phần trong đề thi Tốt nghiệp như: kĩ năng đọc hiểu văn bản, kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội, kĩ năng làm văn nghị luận văn học với các dạng đề (nghị luận về một đoạn thơ bài thơ, nghị luận
- về một tác phẩm, một nhân vật trong TP văn xuôi, nghị luận về một ý kiến bàn về văn học và dạng đề so sánh) Thứ ba: Luyện đề tổng hợp chung – theo cấu trúc và đề tham khảo của Bộ GD năm nay. 3.2. Chú trọng và triển khai những giải pháp mới: Rèn kĩ năng làm văn dạng đề phân tích nhân vật trong đoạn trích ở tác phẩm văn xuôi thuộc chương trình ngữ văn 12. 3.2.1 Phân loại nhân vật trong tác phẩm văn xuôi (trong chương trình Ngữ văn 12). Có rất nhiều tiêu chí phân loại nhân vật trong tác phẩm văn xuôi Căn cứ vào vai trò vị trí của nhân vật có thể chia: nhân vật chính, nhân vật phụ Căn cứ vào phẩm chất nhân vật: nhân vật chính diện, nhân vật phản diện Căn cứ vào đặc điểm của nhân vật: nhân vật thiên về hành động, nhân vật thiên về tâm lý, nhân vật thiên về nhận thức, nhân vật kết hợp. Trong phạm vi đề tài chúng tôi xin bàn sâu về tiêu chí phân loại này như sau: PHÂN LOẠI NHÂN VẬT CĂN CỨ VÀO ĐẶC ĐIỂM Kiểu Nhân vật thiên Nhân vật thiên Nhân vật thiên Nhân vật nhân về hành động, lời về tâm lý về nhận thức kết hợp vật nói Đặc Nhân vật được Không chú ý Chủ yếu Nhân vật điểm khắc họa rất chi tiết nhiều đến ngoại khắc họa nhân được miêu qua ngoại hình, cử hình hành động, vật thông qua tả qua cả chỉ, lời nói, hành chủ yếu khai hành trình quan hành động, động thác suy nghĩ sát, khám phá, lời nói, nội cảm xúc nội tâm nhận thức tâm, nhận của nhân vật thức… Nhận Hình tượng con sông Nhân vật Mị Nhân vật Nhân vật diện Đà (Người lái đò (Vợ chồng A Phùng (Chiếc Tràng (Vợ kiểu sông Đà Nguyễn Phủ) thuyền ngoài nhặt Kim nhân Tuân) Nhân vật bà cụ xa Nguyễn Lân) vật Nhân vật người lái tứ (Vợ nhặt Minh Châu) đò sông Đà (Người Kim Lân) trong TP lái đò sông Đà Ngữ văn Nguyễn Tuân) 12 Nhân vật người vợ
- nhặt (Vợ nhặt Kim Lân) Nhân vật Người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu) Chúng tôi đã căn cứ vào đặc điểm và việc nhận diện nhân vật trong bảng trên để hướng dẫn học sinh tìm kiếm, phân tích dẫn chứng, rút ra những nhận định chính xác về phẩm chất, tính cách của nhân vật. 3.2.2 Những lưu ý khi làm dạng bài phân tích nhân vật trong đoạn trích văn xuôi. Kiểu bài phân tích nhân vật trong đoạn trích thuộc tác phẩm văn xuôi vừa yêu cầu đặt nhân vật trong toàn bộ tiến trình tác phẩm, lại vừa làm bật những đặc điểm về số phận, tính cách, tâm lý, nhận thức…của nhân vật trong đoạn trích đề bài yêu cầu. Hơn nữa, phải cho thấy những thay đổi của nhân vật thể hiện trong đoạn văn trong tương quan với các nhân vật khác. Đồng thời cần chỉ ra vai trò của nhân vật trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề, tài năng miêu tả khắc họa của nhà văn. Về cơ bản, kiểu bài phân tích nhân vật trong đoạn văn cũng giống với phân tích nhân vật trong tác phẩm, tuy nhiên phạm vi hẹp hơn, yêu cầu cụ thể hơn, đòi hỏi người viết phải sâu sắc hơn. Về kiểu bài này, học sinh thường mắc các lỗi sau: Nhầm sang phân tích nhân vật ở cả tác phẩm, viết lan man, quá nhiều về nhân vật trong toàn tác phẩm mà ít chú ý đến đoạn trích. Phân tích nhân vật ở đoạn trích nhưng không biết vận dụng kiến thức của toàn tác phẩm như so sánh nhân vật với các giai đoạn trước và sau, không biết bám vào giá trị nội dung tư tưởng, nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật….nên bài viết sơ sài, chưa tạo được điểm nhấn. Dạng đề này, trong đề bài ngoài yêu cầu phân tích/cảm nhận nhân vật, thông thường sẽ xuất hiện một yêu cầu phụ như bình luận về quan điểm đất nước, bình luận về tư tưởng nhân đạo, làm rõ quan niệm về cái Đẹp, chỉ rõ những nhận thức về cuộc sống con người….của nhà văn. Học sinh thường mải mê phần trên mà quên mất hoặc không còn thời gian trả lời câu hỏi phụ khiến bài viết bị mất điểm; hoặc trái lại quá chú trọng về thời lượng cho phần này cũng khiến bài viết bị trừ điểm, kết quả không cao. Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn phân tích nhân vật trong đoạn trích văn xuôi cũng có 3 phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ
- thể của từng phần lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài phân tích nhân vật trong toàn bộ tác phẩm. Dàn ý khái quát của kiểu bài này như sau: MỞ BÀI: Dẫn dắt giới thiệu tác giả, tác phẩm Giới thiệu khái quát về nhân vật, đặc biệt nhấn mạnh nhân vật trong đoạn trích Giới thiệu yêu cầu phụ (nếu có) THÂN BÀI: 1. Bước 1: Khái quát ngắn gọn nội dung tác phẩm, nhận xét ngắn gọn về nhân vật trong phần truyện trước đó (bước này cần có kĩ năng tóm tắt tác phẩm, dẫn dắt nhận xét về nhân vật từ sự kiện trước đến đoạn cần phân tích). + Giới thiệu khái quát về nhân vật: lai lịch, đặc điểm về số phận tính cách + Tóm tắt sự kiện chính liên quan đến nhân vật từ đầu đến đoạn trích cần phân tích Giới thiệu vị trí, nội dung, vai trò đoạn trích + Nằm ở phần nào của tác phẩm, kể về sự việc gì 2. Bước 2 Phân tích nhân vật trong đoạn trích (bước này cần vận dụng kết hợp các thao tác phân tích, bình luận, chứng minh, so sánh). + Phân tích chi tiết về hoàn cảnh xuất thân, lai lịch ngoại hình + Phân tích chi tiết về bối cảnh nhân vật xuất hiện (không gian, thời gian), để ý đến những thay đổi về bối cảnh trong đoạn trích so với đoạn trước đó tác động hoặc biểu hiện gì về nhân vật. + Đặc biệt chú ý phân tích lời nói, cử chỉ điệu bộ, hành động, cảm xúc, suy nghĩ…của nhân vật trong đoạn trích, rút ra đặc điểm về số phận, tính cách. (Lưu ý khi phân tích cần đặt những yếu tố trên trong sự liên hệ đối chiếu với đoạn trước để thấy được sự thay đổi của nhân vật; đối chiếu với những nhân vật khác để tìm ra đặc điểm riêng của nhân vật cần phân tích) 3. Bước 3: Nhận xét chung Nhân vật trong đoạn trích góp phần thể hiện khắc sâu tư tưởng chủ đề của tác phẩm như thế nào? Nhân vật trong đoạn trích góp phần thể hiện tài năng nghệ thuật của tác giả ra sao? 4. Giải quyết yêu cầu phụ:
- Ghi rõ ra giấy nháp trong dàn ý từ đầu tránh quên, dành một thời lượng phù hợp, không quá ngắn gọn sơ lược nhưng cũng không quá dài dòng lan man Cần bám sát vào phần phân tích/cảm nhận nhân vật để triển khai yêu cầu này sâu sắc mạch lạc. KẾT BÀI Đánh giá chung về nhân vật. Nêu những tác động của nhân vật đối với thế giới quan và nhân sinh quan của bản thân. 3.2.3. Các dạng đề và dàn ý chi tiết cho kiểu bài phân tích nhân vật trong đoạn trích thuộc tác phẩm văn xuôi (chương trình Ngữ văn 12) TÁC PHẨM VỢ NHẶT – KIM LÂN Đề bài 1 Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân có đoạn: …Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không. Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được ? Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới” : Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng… Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời: Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có
- người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?... Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật: Kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá… Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. (Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2013,tr 2829) Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó, rút ra nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân. DÀN Ý CHI TIẾT 1. MỞ BÀI Giới thiệu tác giả, tác phẩm: đề tài cái đói khẳng định thành công của truyện ngắn Vợ nhặt trong mảng đề tài chung Tôi may mắn không phải sinh ra trong thời khắc đen tối nhất của lịch sử dân tộc, khi mà nạn đói tràn đến đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người dân trên đất nước. Tôi cũng may mắn không phải chân lấm tay bùn trong kiếp đời nông dân khổ cực. Nhưng mỗi lần đọc “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân tôi như thấy mình đang sống với biết bao nỗi sợ hãi, xót thương, nỗi buồn lo khắc khoải cùng những con người lao động đói khổ mà nặng tình nặng nghĩa. Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ , đặc biệt ấn tượng trong đoạn trích (nêu nội dung đoạn trích) Tôi vẫn luôn nhớ một anh cu Tràng ngờ nghệch mà tốt bụng, một chị con dâu đói rách nhiều khát khao và đặc biệt, tôi cứ ấn tượng mãi với hình ảnh bà cụ Tứ một người mẹ nghèo khổ mà nhân hậu vô cùng. Dường như, bao nhiêu tình cảm yêu thương, trân trọng, nhà văn đều gửi gắm vào nhân vật bà cụ Tứ qua những đoạn diễn tả tâm trạng đầy xúc động khi Tràng nhặt về một cô vợ trong những ngày đói rách tả tơi: “ Bà cụ cúi đầu nín lặng… nước mắt chảy xuống ròng ròng”
- 2. THÂN BÀI a. Giới thiệu về tác giả, xuất xứ, vị trí của tác phẩm b. Tóm lược sự việc chính dẫn đoạn trích nói về tâm trạng của bà cụ Tứ + Tràng nhặt được vợ trong nạn đói, dẫn người vợ nhặt về giới thiệu với mẹ: + Bà cụ tứ rất ngạc nhiên, sau đó mới hiểu ra cơ sự, tâm trạng hành động lời nói thể hiện rõ tấm lòng người mẹ nghèo nhân hậu yêu thương con. c. Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ qua đoạn trích Cử chỉ cúi đầu nín lặng: Một cử chỉ nói lên biết bao nỗi niềm đau đớn xót xa của người mẹ. “Cúi đầu” không chỉ thể hiện sự bế tắc trong tâm trạng, sự trốn tránh thực tại mà còn là giây phút bà tự vấn lòng mình, một nỗi niềm bà không thể thổ lộ hay chia sẻ cùng ai và cũng không muốn ai nhìn thấy, không muốn ai chứng kiến nỗi tủi hờn của mình. Giống như cái phút đứng lặng trong bóng tối của Mị (Vợ chồng A Phủ Tô Hoài), cái cúi đầu nín lặng của bà cụ Tứ là những giây phút nhận thức về sự sống và cái chết. Tâm trạng vừa ai oán xót xa, buồn tủi thương lo, vui mừng hạnh phúc + Thương con trai, tủi phận mình: Bà xót thương cho số kiếp đứa con mình.” Nhà văn đã dùng rất chính xác từ “ai oán”, xót thương” để diễn tả tâm trạng của bà cụ lúc này. Rất chân thật. Lòng bà lão nghèo khổ oán trách số phận hẩm hiu, tạo hóa trêu ngươi, để con bà có được vợ vào đúng lúc đói khổ quay quắt thế này. Oán trách bao nhiêu thì xót xa cho số kiếp của con mình bấy nhiêu. Nó thua thiệt đủ đường. “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi. Còn mình thì…” Lòng người cha người mẹ nào mà chẳng muốn sắm sanh cho con một đám cưới đàng hoàng, tươm tất để mở mày mở mặt với xóm làng? Bà trách cứ chính mình không lo nổi cho con “người ta dựng vợ gả chồng trong lúc ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão nghẹn ngào, trong kẽ mắt kèm nhèm rỉ xuống những giọt nước mắt xót xa. “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.” + Thương con dâu: bà lão “khẽ thở dài ngửng lên”, “đăm đăm nhìn người đàn bà”. Đó hoàn toàn không phải là cái nhìn soi mói, cái nhìn xét nét hành vi của người khác, trái lại, bà nhìn thấu suốt cả cuộc đời người đàn bà trước mặt với tấm lòng cảm thông chia sẻ đầy nhân hậu. “Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ
- được…” Đó là suy nghĩ của một con người nhận thức rõ may mắn của con trai mình, nhận thức rõ tình cảnh đáng thương của thị và hơn hết, đó là tấm lòng bao dung, thương người như thể thương thân của bà cụ. Cũng lo lắng lắm, nhưng cố gắng chắt chiu lấy niềm vui, niềm hi vọng dẫu mong manh để sống: “Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó”. Mỗi câu độc thoạt nội tâm của bà cụ đều chất chứa một nỗi chua xót đắng cay, một sự bế tắc nhưng vẫn luôn thấm đượm tình người. Xem cách bà cụ phản ứng với tin Tràng có vợ, độc giả càng thấm thía vẻ đẹp của nếp sống, nếp suy nghĩ nặng tình nặng nghĩa của những con người dân quê mộc mạc. Thế mới biết, chỉ có tấm lòng người mẹ thương con, chỉ có tình người ấm áp mới đủ bao dung mở lòng cưu mang những kiếp người bên bờ vực của tuyệt vọng như thị. Và có bị thử thách trong hoàn cảnh bĩ cực ấy, ta mới thấy cái nhìn đầy tin yêu của nhà văn dành cho những con người lao động lam lũ. Lời nói thể hiện thái độ với con trai và con dâu: + Đồng ý, chúc phúc: Bà lão nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”: “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Bà lão không chỉ chấp nhận nàng dâu ‘nhặt”, mà còn rưng rưng niềm hạnh phúc “U cũng mừng lòng”. Bà cụ khiến người con dâu ấy hiểu rằng sự xuất hiện của thị mang lại niềm vui, ni ềm hạnh phúc cho ngôi nhà rúm ró xiêu vẹo ấy của mẹ con bà, Câu chuyện nhặt vợ của Tràng vô cùng bẽ bàng qua tấm lòng người mẹ đã trở thành duyên kiếp trăm năm, rất đáng trân trọng. Một câu nói ngắn gọn mà giá trị vô cùng! Ngạn ngữ Nhật có câu: “ Một lời nói thiện ý có thể sưởi ấm cả ba tháng mùa đông”. Lời nói của bà cụ Tứ cũng vậy, đó không phải chỉ là lời nói chấp nhận nàng dâu mới giải tỏa tâm lí căng thẳng, thấp thỏm lo âu, đem đến niềm hạnh phúc ngập tràn cho Tràng mà còn hướng đên sự đồng cảm, bênh vực nàng dâu mới, khiến thị không còn thấy ngượng ngùng bởi hành động theo không tủi hổ của mình. + An ủi, phân trần về gia cảnh: Bà cụ phân trần về gia cảnh: “Nhà ta thì nghèo con ạ.” Khuyên bảo con tu chí làm ăn “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn.”, nhen nhóm trong các con niềm tin tưởng, lạc quan vào tương lai phía trước. “Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.
- + Chăm sóc ân cần với con dâu: Từ suy nghĩ, lời nói đến cử chỉ, hành động của bà cụ Tứ đều cho thấy sự nhân hậu bao dung. Bà lão đang cố gắng kéo gần khoảng cách giữa người con dâu tội nghiệp với mình: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.” Bà có thêm bổn phận phải lo lắng, yêu thương người đàn bà đói rách ấy, bởi “nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi.” Nghĩ về tương lai, nghẹn ngào xót thương “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”…Bà muốn nói thật nhiều, nhưng nghẹn ngào không nói được nữa, “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.” Lại một lần nữa bà khóc, đó là giọt nước mắt của tình yêu thương. d. Đánh giá chung về nhân vật + Cuộc sống khốn cùng bi thảm + Vẻ đẹp nhân cách ngời sáng tấm lòng nhân hậu, tình mẩu tử thiêng liêng e. Nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thể hiện tấm lòng nhân đạo của nhà văn: đồng cảm xót thương, trân trọng ngợi ca con người: tấm lòng nhân đạo của Kim Lân không chỉ thể hiện qua nỗi xót thương cho số phận người nông dân mà còn gửi gắm qua hình ảnh bà cụ Tứ một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình người. Nếu bát cháo hành của thị Nở có thể kéo Chí từ con quỷ dữ về với xã hội loài người thì chính sự cưu mang nhân từ của bà cụ Tứ đã cứu vớt cả cuộc đời thị. Quả thực, trong xã hội này, chỉ có tình người mới làm nên điều kì diệu trong cuộc sống. Thể hiện tài năng nghệ thuật của nhà văn qua nghệ thuật tạo tình huống, giọng kể chân tình mộc mạc mà duyên dáng, nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật 3. KẾT BÀI Đánh giá chung về nhân vật, tấm lòng nhân đạo của nhà văn Khẳng định sức sống của nhân vật Đề bài 2: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy
- cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch. Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu: Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Vâng. Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn. (Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 30) Cảm nhận của Anh/Chị về tâm trạng của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của nhà văn Kim Lân. 1. MỞ BÀI Giới thiệu tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt Giới thiệu vấn đề nghị luận: Nhân vật Tràng Giới hạn phạm vi dẫn chứng: Trích dẫn đoạn văn Nhà giáo Trần Đồng Minh từng có nhận xét rất tinh tế về tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân: “Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con
- người kê trong tình nhân ái. Câu chuyện nhặt vợ đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. Phải chăng “những tia sáng ấm lòng ấy là tình yêu thương, là sức sống mãnh liệt của các nhân vật bị đẩy tới ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết nhưng lại biết cách tỏa sáng để nâng tầm giá trị con người. Bằng khả năng quan sát tinh tế và tấm lòng nhân văn cao cả, Kim Lân đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng trong tình huống đầy éo le, bất ngờ, thú vị ở truyện ngắn Vợ nhặt. Đặc biệt, người đọc thực sự xúc động cùng những cảm xúc, tâm trạng của Tràng được thể hiện qua đoạn trích: “Buổi sáng … căn nhà.” 2. THÂN BÀI a. Khái quát chung về tác giả, tác phẩm b. Khái quát sự việc dẫn đến tâm trạng Tràng trong đoạn trích Giới thiệu ngắn gọn về nhân vật Tràng: anh nông dân nghèo hèn, xấu xí thô kệch, làm nghề kéo xe bò thuê nuôi mẹ già Sự việc xảy đến với nhân vật: + Sau vài câu nói bông đùa tầm phơ tầm phào, Tràng được người đàn bà theo không về nhà. + Tràng đắc ý dẫn vợ về qua xóm ngụ cư trong sự ngạc nhiên, vui mừng và cả nỗi lo của những người dân xóm ngụ cư. + Về nhà, Tràng trịnh trọng giới thiệu với mẹ về người vợ nhặt. Khi được bà cụ chấp nhận, Tràng thở phào nhẹ nhõm. + Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ diễn ra trong khung cảnh chết chóc ảm đạm nhưng khiến Tràng vô cùng hạnh phúc. Nội dung đoạn trích: Đoạn văn là những dòng miêu tả hết sức chân thực, xúc động những cảm xúc, tâm trạng của Tràng trong buổi sáng đầu tiên kể từ khi Tràng và người đàn bà nên vợ nên chồng. c. Cảm nhận về tâm trạng nhân vật Tràng qua đoạn trích (Các ý: Sự thay đổi của bối cảnh: thời gian Những cảm nhận bên trong của nhân vật Những cảm nhận của Tràng về sự thay đổi quang cảnh quanh nhà Những thay đổi trong cảm xúc, nhận thức và hành động của Tràng) Sự thay đổi về bối cảnh thời gian
- + Thời gian chiều chạng vạng đến buổi sáng hôm sau khi mặt trời tỏa chiếu ánh nắng rực rỡ. Đó là sự vận động từ thời gian u ám ảm đạm của buổi chiều cuối ngày đến sự khởi đầu tươi mới trong buổi sáng hôm sau, diễn tả một sự sinh khí mới trong tâm hồn Tràng. Những cảm giác bên trong của Tràng: Tràng tỉnh dậy vào buổi sáng hôm sau, một cảm giác lạ đang ngập tràn trong anh. Tràng thấy trong người êm ái lửng lơ như từ giấc mơ đi ra. Việc có vợ diễn ra qua nhanh chóng bất ngờ, khiến Tràng dù là người trong cuộc vẫn cảm giác như không phải. Hạnh phúc như một thứ men say làm anh lâng lâng. Những cảm nhận của Tràng về sự thay đổi quang cảnh quanh nhà + Sự thay đổi trong dáng vẻ của Tràng: Những bước đi mệt mỏi ngật ngưỡng hàng ngày giờ đây không còn nữa. Thay vào đó là dáng vẻ đàng hoàng, tỉnh táo, thư thái, khoan thai: hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng sáng lóa của buổi sáng mùa hè làm hắn “cay xè hai con mắt”. + Tràng nhận thấy xung quanh nhà mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Đống quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước khô cong dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm sắp. Đống rác mùn tung hoành ngay giữa lối đi đã được hót sạch… + Một cảnh tượng hết sức bình dị hiện ra trước mắt Tràng: “Ngoài vườn, người mẹ đang lúi húi dẫy những búi cỏ dại. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Những hình ảnh cụ thể đó là hình ảnh của sự sống, của luồng sinh khí mới mẻ của một gia đình thực sự mà lần đầu tiên Tràng cảm nhận được. Đặc biệt, đặt trong hoàn cảnh mà cái đói, cái chết đang bủa vây, rình rập khắp mọi nơi thì khung cảnh bình dị ấy chính là những tia sáng ấm áp thắp lên niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm tin vào tương lai tươi sáng. Thay đổi trong cảm xúc, nhận thức và hành động: + Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại thật thấm thía, cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. >Niềm vui, niềm hạnh phúc giản dị, đời thường nhưng vô cùng thiêng liêng đã đem đến sự đổi thay kì diệu trong cảm xúc, trong tâm hồn Tràng. Căn nhà không còn vắng teo, rúm ró mà đã mang sinh khí của sự sống với hơi ấm của một gia đình, là
- nơi chở che, bao bọc cho thành viên với sự ấm áp, yêu thương. Hạnh phúc gia đình với Tràng giờ đây không còn là giấc mơ nữa mà anh đã được chạm vào những cảm xúc thiêng liêng trần thế nhất của đời người. Hạnh phúc khiến anh cu Tràng cục mịch, vô tư ngờ nghệch thường ngày bỗng sâu sắc hơn trong cảm xúc. + Hạnh phúc khiến Tràng trưởng thành trong nhận thức. Tràng ý thức được bổn phận, trách nhiệm của người đàn ông với gia đình: bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này… Đây thực sự là những suy nghĩ, ý thức của một người đàn ông trưởng thành, là sự thay đổi quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất của nhân vật được nhà văn khám phá, thể hiện một cách tinh tế, chân thực. + Từ sự thay đổi cảm xúc, ý thức dẫn đến sự thay đổi trong hành động: “Hắn xăm xăm chạy ra sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” . Hai chữ “xăm xăm” chỉ một dáng đi mạnh mẽ, hào hứng của một con người vừa tìm được hạnh phúc. So với dáng đi “ngật ngưỡng” ở mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” của Tràng là một đột biến tạo bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng, từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Có thể nói Tràng đã phục sinh tâm hồn nhờ hạnh phúc. +Lần đầu tiên trong đời Tràng thấy mình nên người. Nên người là điều cực kì quan trọng đối với những ai bị cuộc sống đẩy vào tình cảnh không được làm người. d. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Kim Lân Đặt nhân vật trong những tình huống đặc biệt để thấy được tâm trạng, tính cách Tác giả đã phân tích cho ta thấy được sự vận động trong trạng thái cảm xúc, tâm lý nhân vật một cách tinh tế, sắc sảo. Ngôn ngữ để khắc họa tâm lý nhân vật giản dị, sinh động, tinh tế e. Đánh giá – Bình luận, mở rộng ( Đánh giá về đoạn trích, về nhân vật Tràng Đánh giá về giá trị của tác phẩm, tài năng và tấm lòng của tác giả) Đoạn văn trên là một trong những đoạn đặc sắc nhất của truyện ngắn Vợ nhặt, góp phần hoàn thiện một cách xuất sắc hình tượng nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, tính cách, hành động và đặc biệt là những diễn biến tâm lí logic của nhân vật bằng ngòi bút chân thực nhưng vô cùng sắc sảo; đồng thời khẳng định tài năng của nhà văn Kim Lân trong nghệ thuật viết truyện ngắn. Dù ngoại hình xấu xí, thô kệch, dù sự ám ảnh của cái đói in hằn cả ở dáng vẻ, ở bước chân đầy mỏi mệt lúc
- chiều về thì bên trong Tràng vẫn là một chàng trai tốt bụng, hào phóng, giàu lòng nhân hậu và đặc biệt là luôn có khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, có niềm tin mạnh mẽ vào tương lai. 3. KẾT BÀI Đánh giá chung về nhân vật, tấm lòng nhân đạo của nhà văn Khẳng định sức sống của nhân vật TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU ĐỀ 1: Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn văn sau Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân. Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy. Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới. Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một
- mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông. …Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Phác, con ơi! Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt… ( Trích “Chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu) Từ đó chỉ ra những nhận thức sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về cuộc sống, về con người và việc sáng tạo nghệ thuật. 1. MB Giới thiệu tác giả tác phẩm: + Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn đau đáu về số phận con người và sứ mệnh của người nghệ sỹ “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người” + Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ….cảm thông day dứt niềm tin vẻ đẹp con người. Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài ám ảnh day dứt khôn nguôi trong đoạn văn miêu tả chị bước xuống khi con thuyền đánh cá vào bờ. Giới thiệu nhân vật, đoạn trích 2. TB a. Giới thiệu thêm về tác giả, tác phẩm b. Dẫn dắt sự việc dẫn đến đoạn trích + Câu chuyện kể hành trình săn ảnh người nghệ sỹ Phùng cho bộ ảnh lịch năm mới. Sau nhiều ngày lăn lộn phục kích bất ngờ bắt gặp cảnh đắt trời cho: con thuyền lưới vó ngoài xa trong màn hòa phối tuyệt diệu của sương sớm và nắng mai trên mặt biển. Bức ảnh nghệ thuật tuyệt đẹp cảnh đắt trời cho thời khắc vàng của nghệ thuật điện ảnh đường nét ánh sáng hài hòa, toàn bích. Khoảnh khắc ấy đạt đến nghệ thuật chân chính, toàn thiện toàn mỹ, rung cảm đẹp đẽ thánh thiện. + Nhưng hình ảnh con người bước xuống chiếc thuyền gần bờ xóa nhòa, triệt tiêu tất cả những rung cảm lãng mạn đắm say trong trái tim người nghệ sỹ. Những gì
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng Atlat và thực hành biểu đồ Địa lí lớp 12
26 p | 159 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 42 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng phát âm thông qua hoạt động lồng tiếng phim tiếng Anh cho học sinh lớp 10A4 trường THPT Yên Mô B
32 p | 25 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống hiệu quả khi dạy phần đạo đức môn Giáo dục công dân lớp 10
11 p | 121 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức thực tiễn cho học sinh qua nội dung Hàng hóa - Giáo dục công dân 11
31 p | 43 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng làm bài đọc hiểu văn bản trong đề thi trung học phổ thông Quốc gia
61 p | 18 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng giải toán bằng phương pháp lượng giác hóa
39 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT
60 p | 43 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng làm bài một số loại câu giao tiếp trong đề thi THPT Quốc gia được lồng vào tiết dạy phụ đạo cho học sinh lớp 12 trường THPT Lý Tự Trọng
24 p | 56 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ đề dạy học: Giáo dục địa phương để rèn luyện kỹ năng thuyết trình, đọc hiểu văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ cho học sinh lớp 11 THPT
81 p | 64 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp giải bài tập Nhị thức Newtơn
40 p | 42 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng làm văn thuyết minh qua hoạt động tìm hiểu làng nghề truyền thống và di tích lịch sử tại địa phương
12 p | 65 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng giải các bài toán cực trị hàm số cho học sinh lớp 12 THPT
49 p | 34 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện năng lực độc lập của học sinh qua việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chương nhóm Halogen lớp 10 trung học phổ thông
39 p | 30 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn