intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh giỏi THPT môn Ngữ văn

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

37
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là áp dụng sáng kiến trong bồi dưỡng học sinh giỏi, hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết, tạo sự chủ động sáng tạo và khơi dậy niềm đam mê với môn học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh giỏi THPT môn Ngữ văn

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu  Hiệu quả  của quá trình dạy học môn Ngữ  văn không chỉ  nằm  ở  khâu   dạy kiến thức mà còn ở bước rèn kĩ năng. Nếu dạy chỉ cung cấp kiến thức thì  việc rèn là khâu cùng một lúc kiểm tra được nhiều phương diện của quá trình  học: kiểm tra được việc tiếp thu kiến thức, vận dụng tri thức vào thực tế,  khả năng giải quyết linh hoạt, nhạy bén các vấn đề v.v. Ngoài ra, việc rèn kĩ  năng cho học sinh trong quá trình học Ngữ văn phần nào đáp ứng yêu cầu đổi  mới kiểm tra đánh giá học sinh theo 4 mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận  dụng, vận dụng cao. Nhận thức được tầm quan trọng của kĩ năng  bởi vậy  công cuộc vận động của Bộ  giáo dục trong dạy học bộ  môn: tránh “ đậm  kiến thức, nhạt kĩ năng” cũng đã được triên khai.   Thực tế, đề thi HSG trong những năm gần  đây gồm hai câu: nghị luận   xã hội và nghị luận văn học, đều đòi hỏi học sinh phải vận dụng các thao tác   lập luận thật khéo léo, linh hoạt. Trong số các thao tác lập luận, thao tác giải  thích vô cùng quan trọng , có tính định hướng, là kim chỉ nam cho toàn bộ bài  văn. Giải thích đúng sẽ  hiểu đúng, viết đúng, xây dựng hệ  thống luận điểm  tương ứng với luận đề. Tuy nhiên, qua chấm bài của học sinh, chúng tôi nhận   thấy các em khá bối rối vì thế chất lượng bài chưa cao. Chọn chuyên đề  Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh   giỏi THPT  môn Ngữ văn , chúng tôi mong các em học sinh có cho riêng mình  kĩ năng cần thiết bước đầu để  tiếp cận, giải quyết vấn đề  nghị  luận đúng  hướng. 2. Tên sáng kiến:  Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề  thi Học   sinh giỏi THPT môn Ngữ văn
  2. 3. Tác giả sáng kiến:  ­ Họ và tên: Lê Thị Minh Tâm ­ Địa chỉ: Trường THPT Nguyễn Thái Học, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc ­Số điện thoại: 0971389298 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Lê Thị Minh Tâm 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: ­  Mục đích: Áp dụng sáng kiến trong bồi dưỡng học sinh giỏi, hình  thành cho học sinh những năng lực cần thiết, tạo sự  chủ  động sáng tạo và  khơi dậy niềm đam mê với môn học ­ Đối tượng nghiên cứu: Phần giải thích trong bài văn nghị luận ­ Phạm vi nghiên cứu: Đề thi học sinh giỏi 6. Ngày sáng kiến được áp dụng: 20/9/2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: A. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận 1.Văn nghị luận Văn nghị  luận là thể  loại văn viết về  những vấn đề  thuộc nhiều lĩnh   vực đời sống khác nhau như  chính trị, kinh tế, văn hoá, triết học…Mục đích   của văn nghị luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một   tư  tưởng, quan điểm nào đó … đặc trưng cơ  bản của văn nghị  luận là tính   chất luận thuyết­ khác với văn học nghệ  thuật, văn chương nghị  luận trình   bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ… (Theo  Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi­ Từ  điển thuật ngữ  văn học­  NXB Đại học quốc gia, 4­ 1999). Nhìn từ đề tài, đối tượng nghị luận, có thể chia văn nghị luận thành hai  loại lớn: nghị luận xã hội và nghị luận văn học.  2
  3. Trong cả  hai kiểu bài, thao tác lập luận giải thích có vị  trí, vai trò quan  trọng 2. Thao tác lập luận giải thích  a. Khái niệm: Thao tác lập luận giải thích là một thao tác nghị  luận dùng lí lẽ  để  giảng giải, cắt nghĩa giúp người đọc, người nghe hiểu rõ một hiện tượng,  một vấn đề nào đó. b. Vị trí, vai trò : Thao tác lập luận giải thích có vai trò quan trọng trong bài văn nghị luận  giúp người viết đi đúng vấn đề  cần nghị  luận, định hướng cho quá trình tạo   dựng luận điểm, là một trong các yếu tố  quyết định sự  thành công của bài   văn. c. Yêu cầu của thao tác lập luận giải thích:  Khi giải thích ngắn gọn, rõ ý, hay, có tính nghệ thuật . 3. Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh giỏi THPT   môn Ngữ văn 3.1.  Rèn kĩ năng viết phần giải thích với dạng đề nghị luận xã hội a. Kĩ năng nhận diện dạng đề  Nghị luận xã hội thường được chia thành ba dạng:  + Nghị luận về một tư tưởng đạo lí. + Nghị luận về một hiện tượng đời sống + Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học            Cách thức đề ra: ­ Đề là một câu nói, một ý kiến : có một mệnh đề ­ Đề là một câu nói, một ý kiến có 2 mệnh đề ­ Đề có 2 ý kiến ­ Đề là một câu chuyện, bài thơ, bản tin, bức tranh ­ Đề là một chủ đề  3
  4. ­ Đề là một hình ảnh v.v. Tùy vào dạng đề cụ thể để sử dụng cách giải thích phù hợp b. Kĩ năng tìm ý: ­  Để làm được phần này học sinh cần căn cứ vào từ, câu, vế câu, hình  ảnh v.v. Đặt câu hỏi lập ý : là gì? Nghĩa là như  thế  nào ? Nói như  vậy có ý  gì ? + Giải thích từ:  ­ Giải thích nghĩa từ  theo từ  điển tiếng Việt, tìm hiểu nghĩa gốc và  nghĩa chuyển. ­ Giải thích nghĩa từ theo đặc điểm của từ loại: danh từ, động từ, tính từ. + Giải thích câu, vế  câu: căn cứ  vào các từ  , mối quan hệ  các từ: nếu­ thì; hãy, đừng, nên, mà v.v. để xác định vế chính. Giải thích nghĩa của tập hợp  từ và bối cảnh câu nói. + Giải thích hình  ảnh: tìm ra ý nghĩa tả  thực và biểu tượng của hình   ảnh. + Ngoài ra cần chú ý tới các biện pháp tu từ  được sử  dụng trong đề.  Cuối cùng rút ra ý nghĩa của vấn đề nghị luận c. Kĩ năng sắp xếp ý: tùy vào vấn đề nghị luận sắp xếp giải thích ý  nào trước, ý nào sau. d. Kĩ năng diễn đạt: trong diễn đạt học sinh cần chọn lọc ý để trình  bài, sử dụng từ, câu đúng ngữ pháp, diễn đạt uyển chuyển, hình ảnh, cảm  xúc. đ. Kĩ năng tạo dựng đoạn văn: tùy vào vấn đề  nghị  luận và sở  trường  người viết để lựa chọn cách trình bày đoạn theo các cách: diễn dịch, quy nạp,   song hành, tổng­phân­hợp, vấn đáp v.v. ­ Diễn dịch: Diễn dịch là từ  một chân lí chung, quy luật chung mà suy ra các hệ  luận, các biểu hiện cụ thể. Ở cách viết này câu chủ đề đặt ở đầu đoạn. ­ Quy nạp: 4
  5. Quy nạp là từ  những chứng cớ cụ thể mà rút ra những nhận định tổng  quát. Ở cách viết này, câu chủ đề đặt ở cuối đoạn. ­ Phối hợp diễn dịch với quy nạp ( tổng­ phân –hợp) Tổng­ phân­ hợp là đi từ chân lí chung đến các biểu hiện cụ thể rồi đúc  kết thành nhận định mới nâng cao, mở rộng.  ­ So sánh: So sánh tương đồng: là từ một chân lí đã biết suy ra một chân lí tương   tự, có chung một lôgic bên trong So sánh tương phản là đối chiếu các mặt trái ngược nhau để  làm nổi  bật luận điểm ­ Vấn đáp: Vấn đáp là nêu câu hỏi rồi trả lời hoặc để người đọc tự trả lời. 3.2. Rèn kĩ năng viết phần giải thích với dạng đề  nghị  luận văn  học Nếu khi làm kiểu bài nghị luận xã hội đòi hỏi học sinh cần có những tri   thức, sự hiểu biết về đời sống xã hội thì khi làm kiểu bài nghị  luận văn học  lại rất cần ở học sinh tri thức về văn học như : lí luận văn học, thuật ngữ văn  học, kiến thức văn học sử về giai đoạn văn học, trào lưu văn học, tác gia, tác  phẩm văn học v.v. a. Về đề thi Học sinh giỏi một số năm gần đây  Qua tìm hiểu đề  thi Học sinh giỏi  chúng tôi nhận thấy chủ yếu các đề  đều liên quan nhiều tới kiến thức lí luận văn học. Sau đây là một số đề thi Học sinh giỏi các năm: Đề thi  năm 2010: Tác phẩm văn học chân chính bao giờ  cũng tôn vinh con người thông  qua những hình thức nghệ thuật độc đáo. Bằng việc phân tích một số tác phẩm văn học , anh/chị hãy làm sáng tỏ. Đề thi năm 2011: 5
  6. Mỗi hình tượng nhân vật phụ  nữ  thực sự  thành công bao giờ  cũng là   kết quả của sự phát hiện sâu sắc về nữ tính. Bằng việc phân tích một số  nhân vật phụ  nữ  tiêu biểu trong các tác  phẩm đã học từ văn học dân gian đến văn học hiện đại, anh/chị hãy làm sáng   tỏ nhận định trên. Đề thi  năm 2012: Các nhà văn nhà nhân đạo lớn thường gửi gắm vào sáng tác một cách  nhìn sâu sắc về  con người. Cách nhìn này hướng đến đời sống nội tâm và  cảm xúc. Phân tích một vài tác phẩm trung đại và hiện đại để làm sáng tỏ ý kiến trên. Đề 2015 Hình tượng nhân vật được sinh ra từ  tâm trí của nhà văn nhưng chỉ   thực sự sống bằng tâm trí của người đọc. Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến  trên. Đề 2016 Mác­xen Prút nhà văn Pháp cho rằng : “ Thế  giới được tạo lập không  phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thế giới lại được  tạo lập” Nhà văn Tô Hoài có ý kiến: “ Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại” Bằng sự  trải nghiệm văn học của mình, anh/chị  hãy bình luận các ý  kiến. b. Một số nhận xét về đề thi Như  đã nói, đề  thi Học sinh giỏi các cấp, nhất là đề  thi Học sinh giỏi  Quốc gia phần lớn liên quan đến kiến thức lí luận văn học. Cái khó của dạng  đề này là các vùng kiến thức lí luận không tách rời riêng rẽ, mà liên quan mật  thiết với nhau, bởi vậy đòi hỏi người viết trong quá trình giải thích vấn đề  cần sự linh hoạt, khéo léo trong khi xử lí kiến thức, biết lướt xoáy. c. Một số kĩ năng: 6
  7. + Kĩ năng nhận diện vấn đề cần nghị luận: Trước mỗi đề  nghị  luận văn học, người viết cần có cái nhìn tinh để  nhận diện vấn đề nghị luận, vấn đề đó thực chất được gài một cách khéo léo  trong câu chữ  của đề, trong mối quan hệ  giữa các vế  câu, trong cách dùng  hình ảnh v.v. + Kĩ năng tìm ý: cũng giống như  ở dạng đề  nghị luận xã hội để  có thể  viết tốt phần giải thích học sinh phải xác định được ý chính cần làm rõ, căn cứ  để xác định ý chính là từ ngữ, vế câu, hình ảnh, biện pháp tu từ, các kiến thức   liên quan đến lí luận văn học, văn học sử, tác gia, tác giả  v.v.Cần cắt nghĩa,   giải nghĩa các yếu tố đó. Trên cơ  sở  tập hợp các nét nghĩa tìm ra vấn đề  cần   nghị luận. + Kĩ năng sắp xếp ý: để  người đọc hiểu, tin vào vấn đề  đang nghị  luận , cần đảm bảo tính hệ  thống của lập luận. Nên cân nhắc, giải thích ý  nào trước, ý nào sau để vừa đảm bảo tính lôgic vừa phù hợp tâm lí tiếp nhận. + Kĩ năng diễn đạt:  Trong diễn đạt cần chuẩn xác và truyền cảm. Chuẩn xác trong việc  dùng từ, đặt câu, chuyển ý, chuyển đoạn . Muốn sử  dụng các từ  biểu thị  những khái niệm trừu tượng, các thuật ngữ chuyên môn, học sinh cần thường  xuyên đọc sách báo, xây dựng thói quen tra từ điển, để  hiểu nghĩa của chúng   đến nơi, đến chốn. Không nắm chắc nghĩa của từ  không nên dùng. Về  câu,  khi mở rộng các thành phần câu, người viết cần lưu ý sắp xếp trật tự các từ  trong câu cho đúng quy tắc và không bỏ sót các thành phần chính. Ngoài ra, lời  văn trong văn nghị luận không chỉ cần chuẩn xác mà còn cần sự  truyền cảm,  cần viết văn có hình  ảnh và cảm xúc. Những hình  ảnh so sánh trong bài sẽ  tạo nên chất văn mượt mà cho bài viết, tạo nên “hồn cốt” cho bài, cảm xúc   trong bài phải là cảm xúc chân thực, được thể hiện bằng sự rung cảm thực sự  của người viết trước vấn đề đang nghị luận. + Kĩ năng viết đoạn văn: 7
  8. Tùy vào vấn đề  nghị  luận, mà người viết có thể  sử  dụng hợp lí các  cách viết đoạn văn theo mô hình: diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, so   sánh, vấn đáp v.v. như trong cách làm đề nghị luận xã hội II. Thực hành 1.Viết phần giải thích với dạng đề nghị luận xã hội a. Đề là một câu nói, một ý kiến : có một mệnh đề  Ví dụ : “ Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm” ­ Nhận diện vấn đề  cần nghị  luận: đề  bài yêu cầu nghị  luận về  một  vấn đề tư tưởng, đạo lí ­ Để tìm ý , sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình ảnh để  giải thích: + “ Bàn tay”: hình  ảnh hoán dụ, chỉ  người “ có hoa hồng”, người có  lòng nhân ái, biết vì người khác. + “ hoa hồng” : hình  ảnh  ẩn dụ, biểu trưng cho tình yêu thương chân  thành, vẻ đẹp của sự giúp đỡ. + “ tặng”: thái độ tự nguyện, vui vẻ Ý nghĩa câu : câu nói đề  cập đến một thái độ  sống đẹp của con  người trong cuộc sống: cách sống biết cho đi, biết cho đi sự yêu thương là ta   đang làm đẹp cho tâm hồn mình và cho cuộc sống. Biết cho thì sẽ được nhận. Viết đoạn văn: “ Cho” và “ nhận” – đó là quy luật muôn đời của cuộc sống, là sợi dây   gắn kết yêu thương giữa con người với con người trong xã hội. Hạnh phúc  biết bao khi được nhận tình yêu thương giữa con người với nhau. Chúng ta  tìm thấy ý nghĩa đó trong câu nói giản dị:“ Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ  cũng phảng phất hương thơm”.“ Bàn tay” chính là một hình ảnh hoán dụ  chỉ  người có “hoa hồng”, người có lòng nhân ái biết sống vì người khác, “ hoa  hồng” là hình ảnh ẩn dụ, biểu trưng cho tình yêu thương chân thành, vẻ  đẹp   của sự giúp đỡ. Tình yêu thương càng đẹp hơn, đáng trân trọng hơn khi xuất   8
  9. phát từ sự tự nguyện , vui vẻ. Câu nói đưa chúng ta đến một triết lí nhân sinh,  một quan niệm sống đúng đắn : mỗi con người khi cho đi dù là chỉ  một nụ  cười, một lời yêu thương một cách chân thành, vui vẻ  là chúng ta đang làm   đẹp cho tâm hồn mình và cho cuộc sống. Biết cho thì sẽ được nhận.                                                               ( Bài làm của học sinh) b.  Đề là một câu nói, một ý kiến có 2 mệnh đề : “ Không có cạnh tranh thì không phát triển, nhưng không nhường nhịn  thì không ra con người” ­ Nhận diện vấn đề  cần nghị  luận: đề  bài yêu cầu nghị  luận về  một  vấn đề tư tưởng, đạo lí ­ Để tìm ý, sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình ảnh để giải  thích: + Giải thích vế câu: “ cạnh tranh”: là sự ganh đua, hành động làm hết mình để đạt mục tiêu  lợi ích. Cạnh tranh kích thích sự phát triển “ nhường nhịn”: là sự hi sinh lợi ích của mình cho người khác, một biểu   hiện đẹp của phẩm chất làm người        Câu nói đem tới suy ngẫm sâu sắc về  cách sống làm người: làm   người trong tất cả mọi việc phải giữ được đạo lí, đạo đức. Viết đoạn văn: Trong cuộc sống con người ai cũng mong muốn đạt được lợi ích cho  mình và “ cạnh tranh” là hành động làm hết mình để  đạt được mục tiêu , lợi   ích cho bản thân, nó là yếu tố  thúc đẩy sự  phát triển. Trái ngược với “cạnh   tranh” là “ nhường nhịn”, đó là sự  hi sinh lợi ích của mình để  sống vì người   khác, cho người khác bước lên. Câu nói “ Không có cạnh tranh thì không phát  triển, nhưng không nhường nhịn thì không ra con người” đã đề  cập đến hai   khía cạnh trái ngược nhau đem tới suy ngẫm sâu sắc về cách sống làm người:   làm người trong tất cả mọi việc phải giữ được đạo lí, đạo đức.                                                                    ( Bài làm của học sinh) c. Đề là một câu chuyện, bài thơ… 9
  10. Suy nghĩ về vấn đề đặt ra trong đoạn thơ sau: “ Người chìa tay và xin con một đồng Lần thứ nhất con hãy tặng người ấy hai đồng Lần thứ hai con hãy biếu họ một đồng Lần thứ ba con phải biết lắc đầu Và đến lần thứ tư con hãy im lặng bước đi”  ( Gửi con – Bùi Nguyễn Trường Kiên) ­ Nhận diện vấn đề  cần nghị  luận: đề  bài yêu cầu nghị  luận về  một  vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học. ­ Để tìm ý , sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình ảnh để  giải thích: *Giải thích nội dung ý nghĩa đoạn thơ qua việc tìm hiểu nghĩa các từ, hình  ảnh. “ Người chìa tay và xin”: ai đó khó khăn cần sự giúp đỡ “ Lần thứ nhất con hãy tặng Lần thứ hai con hãy biếu” con hãy giúp đỡ họ thật chân thành “Lần thứ ba con phải biết lắc đầu Và đến lần thứ  tư  con hãy im lặng bước      con hãy biết từ chối đi” Qua đoạn thơ, người cha nhắc nhở con về việc giúp đỡ  người khác  trong cuộc sống. Cần giúp đỡ  người khác, song phải biết giới hạn và đôi  khi từ chối cũng là một cách giúp đỡ. Viết đoạn văn: Chỉ  với những câu thơ  ngắn gọn , nhưng người cha đã gửi vào đó bài   học về cách sống, cách làm người sâu sắc. Trước những bàn tay đang chìa ra   và cần giúp đỡ, con phải biết cho họ nhiều hơn những gì họ muốn. “Tặng họ  hai đồng” khi “ họ  xin con một đồng”­ đó chính là biểu hiện của tình yêu  thương, lòng rộng lượng. Người cha dặn con sẵn sàng “ tặng, biếu”, con hãy   biết giúp họ  một cách chân thành. Mặt khác, người cha khuyên con tỉnh táo,  sáng suốt trong mọi trường hợp để  biết tặng, biết cho đúng lúc, đúng chỗ.  10
  11. Bởi có những người chỉ  biết lợi dụng lòng tốt của người khác sống lười  biếng,  ỷ  lại. Hành động “im lặng” “lắc đầu bước đi” của con chính là hồi  chuông cảnh tỉnh cho những người chỉ biết “ há miệng chờ sung” Ý thơ đã đề cập đến cách sống, cách ứng xử của con người trong cuộc  đời: mỗi người cần có trái tim giàu lòng yêu thương để sẵn sàng giúp đỡ, cưu  mang người khác nhưng đồng thời cũng cần biết giới hạn, có sự sáng suốt để  không bị lợi dụng tiếp tay cho sự lười biếng.                                                                      ( Bài làm của học sinh) d. Đề là một chủ đề:  “ Biết lắng nghe – điều kì diệu của cuộc sống” ­ Nhận diện vấn đề  cần nghị  luận: đề  bài yêu cầu nghị  luận về  một  tư tưởng đạo lí. ­ Để tìm ý , sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình ảnh để  giải thích: + Giải thích từ “ Nghe”: là sự tiếp nhận âm thanh bằng tai ( thính giác) “ lắng nghe”: chủ động tiếp nhận âm thanh, nghe bằng tâm hồn Viết đoạn văn: “ Lắng nghe”­ điều đó có gì khác với “ nghe” ? Cùng là sự tiếp nhận âm  thanh nhưng nếu “nghe” là sự  tiếp nhận âm thanh bằng thính giác thì “ lắng  nghe” là sự  tiếp nhận những vang vọng từ con người, từ cuộc đời một cách   chủ  động, là nghe nhưng nghe bằng cả  tâm hồn để  cùng thiết tha rung cảm  với những âm thanh ấy. “ Biết lắng nghe” – điều đó sẽ làm nên điều kì diệu ,  giúp cho bản thân mỗi người ngày càng hoàn thiện.                                                                 ( Bài làm của học sinh) đ. Đề có 2 ý kiến:  11
  12. Có  người cho : “Ta hãy học theo cách của dòng sông nhìn thấy núi thì   đi đường vòng”, nhưng người khác lại cho rằng “Trong rừng có rất nhiều lối   di, ta chọn lối đi chưa có dấu chân người”. Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về những ý kiến trên. ­ Nhận diện vấn đề  cần nghị  luận: đề  bài yêu cầu nghị  luận về  một  tư tưởng đạo lí và hiện tượng đời sống ­ Để  tìm ý , sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình  ảnh   trong từng ý kiến để giải thích: + “  Dòng sông thấy núi đi đường vòng”: khi gặp khó khăn không mạo  hiểm + “Trong rừng có rất nhiều lối di, ta chọn lối đi chưa có dấu chân   người”: tìm cho mình con đường mới dù có gian nan Viết đoạn văn: Hai ý kiến đã gợi nhiều suy nghĩ trong ta. “ Núi” biểu tượng cho những  trở  ngại, khó khăn, thử  thách mà con người gặp phải trên đường đời. “ Dòng  sông nhìn thấy núi” ẩn dụ chỉ con người gặp phải những khó khăn, gian nan,  khi ấy họ đi đường vòng, “ đi đường vòng” nghĩa là không mạo hiểm đối mặt   với khó khăn mà tìm cách giải quyết khắc phục khác dù có mất nhiều thời   gian. Ý kiến đã khuyên ta trong cuộc sống sẽ có lúc ta gặp những trắc trở, thử  thách như dòng sông gặp dãy núi cao kia, nếu khó có thể vượt qua hãy tìm cách   tránh nó bằng cách “đi đường vòng” để  an toàn hơn dù thời gian đến đích có  thể sẽ lâu hơn. Thế  nhưng có người lại cho rằng “Trong rừng có rất nhiều lối di, ta   chọn lối đi chưa có dấu chân người” , trong rừng có nhiều lối đi cũng giống  như trên con đường đời có nhiều ngã rẽ buộc ta phải lựa chọn cho mình một  lối đi. Có người sẽ  chọn cho mình con đường quen thuộc mà có rất nhiều   người đã đi qua, có người lại tự tìm cho mình con đường mới đặt bước chân  đầu tiên trên con đường  ấy­ con đường “ chưa có dấu chân người” . Ý kiến  12
  13. đã khuyên ta trong cuộc sống nên khám phá, thử  sức với cái mới, chọn cho  mình con đường riêng mới lạ. Bằng cách nói hình  ảnh hai câu nói nêu lên  những bài học về  cách sống: một cách sống linh hoạt, khôn khéo, một cách  sống dũng cảm, mạo hiểm.                                                                            ( Bài làm của học sinh) 2. Viết phần giải thích với dạng đề nghị luận văn học: Đề nghị luận văn học rất đa dạng , trong phạm vi bài viết chúng tôi không  đi vào tìm hiểu các dạng đề  mà chỉ  tập trung vào những đề  bài có liên quan  nhiều đến lí luận văn học, bởi đây là dạng đề  thường có trong các kì thi Học  sinh giỏi . a. Đề là một ý kiến: Đề 1: “ Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm   chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú” Hãy làm rõ ý kiến qua một tác phẩm tự chọn. ­ Nhận diện vấn đề  cần nghị  luận: đề  bài yêu cầu làm rõ nét độc đáo  trong phong cách nghệ thuật của nhà văn ưu tú. Nét độc đáo ấy thể hiện ở tư  tưởng và nghệ thuật. ­ Để  tìm ý và sắp xếp ý, học sinh cần chú ý từ  thuật ngữ  “ phong   cách”, “ độc đáo về tư tưởng và phẩm chất thẩm mĩ”; “ nhà văn ưu tú” Viết đoạn văn giải thích: Không giống như các loại hình nghệ thuật khác, văn học đòi hỏi cao ở  sự  sáng tạo. Và nhà văn muốn khẳng định được tên tuổi của mình thì phải   đem đến “ một cách nhìn mới về  thế  giới” tức là phải có phong cách nghệ  thuật độc đáo. Bởi “ phong cách” chính là “chỗ độc đáo về tư tưởng” – là cái  nhìn có tính khám phá, một cách nhìn mới về  thế  giới, đó là giá trị  nội dung  của tác phẩm. Trong một truyện ngắn, hay một bài thơ, “ tư  tưởng” chính là  linh hồn, là kết tinh những cảm nhận, suy nghĩ về  cuộc đời mà nhà văn gửi  13
  14. gắm. Tư tưởng thấm nhuần trong tác phẩm giống như máu trong huyết quản  thấm đến từng tế bào của cơ thể. Sự độc đáo của tư tưởng là biểu hiện của   một phong cách nghệ thuật chân chính.  Song, nếu chỉ  độc đáo về  tư  tưởng thì tác phẩm chưa thể  đạt được  thành công cũng như vị thế của nhà văn chưa được khẳng định. Dưới ngòi bút  tài năng của người nghệ  sĩ, “ tư  tưởng độc đáo” sẽ  được thể  hiện bằng “  Nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ”. “Nghệ  thuật có phẩm chất thẩm mĩ” là   sự thể hiện tài năng của nhà văn trong việc sử dụng những phương thức nghệ  thuật để  xây dựng hình tượng. Nhà văn sẽ  gửi đến bạn đọc những suy nghĩ,  quan niệm của mình về  thế  giới, về  con người qua cách dùng từ, đặt câu,   cách sử dụng hình ảnh đặc sắc, hấp dẫn. Song không phải nhà văn nào cũng  có thể  có được cho mình tư  tưởng độc đáo và nghệ  thuật có tính thẩm mĩ.  Thực tế cho thấy chỉ những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được điều   đó. Vì những nét riêng trong cái nhìn, trong nghệ thuật của nhà văn là kết tinh  cả một quá trình khổ luyện, sáng tạo không ngừng nghỉ của người nghệ sĩ. Sự  kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp nội dung và vẻ  đẹp hình thức  sẽ  tạo nên một tác phẩm nghệ  thuật đích thực, tạo nên “dấu  ấn riêng” tôn  vinh tài năng của người nghệ sĩ ưu tú đã sáng tạo ra nó, góp phần tạo nên vị  trí của người nghệ sĩ trong lịch sử văn học dân tộc.                                                                            ( Bài làm của học sinh) Đề 2: Có ý kiến cho rằng : “ Cái đẹp mà văn học đem lại không phải cái gì khác hơn là cái đẹp của  sự thật đời sống được khám phá một cách nghệ thuật” ­ Nhận diện vấn đề  cần nghị  luận: đề  bài yêu cầu làm rõ tầm quan  trọng của hiện thực đời sống và tài năng nhà văn đối với việc sáng tạo cái  đẹp. ­ Để tìm ý và sắp xếp ý, học sinh cần chú ý từ   “ cái đẹp của sự thật  đời sống”; “ cái đẹp được khám phá một cách nghệ thuật” 14
  15. Viết đoạn văn giải thích: Chẳng biết từ  bao giờ  cuộc sống đã trở  thành mạch nguồn và cũng là  điểm đến của văn học. Ai đó đã từng ví văn học và cuộc sống giống như thần   Ăng­tê và Đất Mẹ. Thần Ăng­tê chỉ  có được sức mạnh phi thường khi đặt  chân trên Đất Mẹ. Cũng như vậy, văn học chỉ có sức sống khi nó gắn bó với   cuộc sống. Quay lưng lại với “ sự  thật đời sống” văn học chỉ  là một thứ  kĩ  xảo vờn vẽ. Cũng từ cuộc đời đầy nắng gió, cát bụi ấy nhà văn là người khám phá,  tìm kiếm lấy cái đẹp bởi “ cái đẹp là cuộc sống”. Giống như người thợ luyện   những vỉa quặng thành thứ  kim loại óng ánh, như  chú ong chuyên cần hút  nhụy hoa tạo nên mật ngọt, nhà văn là người kết tinh những tinh chất cuộc   đời trong tác phẩm của mình thành điều mang tên gọi: CÁI ĐẸP. Vẻ đẹp ấy   có khi được khám phá trong con người, trong thiên nhiên, nhưng tất cả  đều  phải bắt nguồn từ “ sự thật đời sống” Nhưng văn học đâu chỉ  là cuộc sống, văn học còn là nghệ  thuật nữa.   Nếu thiếu nghệ thuật thì vẻ đẹp của đời sống giống như hòn ngọc thô không   được mài giũa, không thể phát ra thứ ánh sáng lung linh nhất, vẻ đẹp diệu kì  nhất làm mê đắm lòng người. Và “ sự  thật đời sống” khi đó đi vào văn học  chỉ là hiện thực nằm đơ trên trang giấy. Bởi vậy ,  “ cái đẹp được khám phá một cách nghệ  thuật” sẽ  tạo nên sự  hài hòa   giữa nội dung tư  tưởng và hình thức nghệ  thuật đem lại những giá trị  thẩm  mĩ cao . Thế mới hay, trở thành người dẫn đường đến với cái đẹp đâu phải dễ,   dù cho “bản chất con người là nghệ sĩ”, phải là người biết dùng nghệ thuật để  khám phá cái đẹp của đời sống đó mới là nhà văn thực sự. Và ta hiểu rằng cái  đẹp mà văn học đem lại là sự hòa trộn của tinh chất cuộc đời và tinh luyện của  nghệ thuật.                                                                ( Bài làm của học sinh) 15
  16. b. Đề có 2 ý kiến: Ở dạng đề này, học sinh lần lượt giải thích từng ý kiến rút ra vấn đề  cần nghị luận Đề 1:  Bàn về truyện ngắn, nhà văn Tô hoài nói : “ Dựng nhân vật là khâu hết sức quyết định” Còn Nguyễn Minh Châu lại cho rằng “ Tạo được tình huống đặc sắc là  vấn đề sống còn của truyện ngắn”. Làm sáng tỏ các ý kiến trên qua một tác phẩm tự chọn. ­ Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu làm rõ đặc trưng của   truyện ngắn qua 2 ý kiến . ­ Để tìm ý và sắp xếp ý, học sinh cần chú ý từ   “ truyện ngắn” “ dựng   nhân vật, khâu quyết định” “ tình huống đặc sắc, vấn đề sống còn” Viết đoạn văn giải thích: Đều là những nhà văn đã có nhiều thành công  ở  thể  loại truyện ngắn,   hai cây bút Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu đều đúc kết được những quan   điểm của mình về truyện ngắn. Truyện ngắn là tác phẩm tự  sự  dùng lời kể,  tả để thông báo về thời gian, địa điểm, con người. Tô Hoài cho rằng “ Dựng  nhân vật là khâu hết sức quyết định”. Nhân vật của truyện ngắn thường là  hiện thân cho một trạng thái quan hệ  xã hội , ý thức xã hội hoặc trạng thái  tồn tại của con người. Nhân vật là linh hồn của truyện ngắn mà thông qua   nhân vật nhà văn gửi gắm những tư  tưởng, chủ  đề  của tác phẩm. Nhân vật   được xây dựng qua các chi tiết như: ngoại hình, tính cách, nội tâm. Qua nhân  vật, những thông điệp của nhà văn gửi gắm đến bạn đọc không khô cứng mà   sinh động, hấp dẫn. Vì vậy đây là khâu rất quan trọng trong xây dựng tác   phẩm.  Trở lại với ý kiến của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhà văn cho rằng “   Tạo được tình huống đặc sắc là vấn đề  sống còn của truyện ngắn”. Tình  huống là hoàn cảnh đặc biệt của đời sống được tái hiện trong tác phẩm, là  16
  17. thứ  thuốc thử  màu nhiệm làm nổi bật tính cách con người. Qua tình huống,  phẩm chất, tính cách nhân vật thực sự  bộc lộ. Nhà văn xây dựng tình huống  để soi sáng nhân vật, đó là vấn đề sống còn của truyện ngắn.                                                                    ( Bài làm của học sinh) Đề 2: Marcel Proust nói : “ Phong cách là vấn đề cái nhìn” Còn Thanh Thảo lại cho rằng “ Phong cách thực chất là vấn đề  hình  thức. Hình thức là sự  hiện diện độc đáo của người nghệ  sĩ. Không có hình  thức ấy không có nghệ thuật” Làm sáng tỏ các ý kiến trên qua một tác phẩm tự chọn. ­ Nhận diện vấn đề  cần nghị  luận: đề  bài yêu cầu làm rõ nét độc đáo  của phong cách nghệ thuật qua 2 ý kiến . ­ Để  tìm ý và sắp xếp ý, học sinh cần chú ý từ    “ phong cách” “ cái   nhìn” “ hình thức” Viết đoạn văn giải thích: Ý kiến của Marcel Proust và Thanh Thảo đề  cập đến vấn đề  phong   cách nghệ  thuật trong sáng tạo văn chương. Phong cách là nét riêng, nét độc  đáo là đặc điểm bền vững không mất đi của các nhà văn trong tác phẩm văn   học của mình. Đó là nét riêng không trộ lẫn giữa các tác giả văn học. Đối với  Marcel Proust thì“ Phong cách chính là cái nhìn”, “ cái nhìn” là sự quan sát về  đời sống, cái nhìn riêng về  mọi khía cạnh của đời sống, đó là vấn đề  tư  tưởng trong tác phẩm, tạo nên nội dung độc đáo của sáng tác nghệ thuật. Đòi  hỏi nhà văn phải có đôi mắt mới trước những đề tài tưởng như vốn rất quen  thuộc. Còn nhà thơ Thanh Thảo lại cho rằng “ Phong cách thực chất là vấn đề  hình thức. Hình thức là sự  hiện diện độc đáo của người nghệ  sĩ. Không có  hình thức  ấy không có nghệ  thuật”. Thanh Thảo đề  cập đến vấn đề  “hình  thức”, hình thức là những sáng tạo của người nghệ  sĩ về  nghệ  thuật. Hình  thức thể  hiện  ở  giọng điệu, cách tổ  chức ngôn từ, sử  dụng các biện pháp   nghệ thuật.                                                       ( Bài làm của học sinh) 17
  18. 18
  19. B. PHẦN KẾT LUẬN I .Kết luận: Rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh là một phần không thể  thiếu  của bộ môn Ngữ văn ở trường THPT. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng   và khó khăn của giáo viên. Tùy thuộc vào từng kiểu bài, từng đối tượng học   sinh, giáo viên cần có mục tiêu, phương pháp và mức độ  kiến thức phù hợp.  Chuyên đề  này của chúng tôi đóng góp một hướng đi trong việc rèn luyện kĩ  năng viết phần giải thích trong đề  thi Học sinh giỏi môn Ngữ  văn cho học  sinh . Trên cơ  sở  lí thuyết về  văn nghị  luận, văn nghị  luận xã hội, chúng tôi   xây dựng các bước rèn luyện kĩ năng từ  nhận diện vấn đề  nghị  luận, tìm ý,  sắp xếp ý, kĩ năng viết đoạn v.v. Chuyên đề  đã có sự  cụ  thể  hóa lí thuyết   trong các dạng bài tập thực hành ở dạng đề nghị luận xã hội và nghị luận văn   học. II. Đề xuất: ­ Qua thực tế các năm ôn luyện, chúng tôi nhận thấy, các thao tác lập   luận trong bài văn nghị luận không riêng rẽ, tách rời mà lồng ghép, trong giải   thích có bàn luận, trong bàn luận có chứng minh, phân tích. Bởi vậy trong quá  trình hướng dẫn học sinh kĩ năng viết bài, giáo viên cần sáng tạo, linh hoạt. ­ Việc rèn kĩ năng làm văn là khâu quan trọng của quá trình dạy học,   cần kết hợp thường xuyên hoạt động này với ra đề, kiểm tra, đánh giá. ­ Trước mỗi đề bài có nhiều hướng giải quyết khác nhau, cần khuyến  khích, trân trọng những sáng tạo của học sinh khi giải quyết vấn đề  nghị  luận, tránh áp đặt một chiều máy móc. Bên cạnh đó, theo chúng tôi năm đầu   của quá trình ôn luyện chúng ta cần chú ý tới khâu làm mẫu để giúp học sinh  có sự định hình từ ban đầu về cách triển khai ý của một bài nghị luận. 19
  20. C. PHỤ LỤC              (  Một số đoạn văn viết phần giải thích minh họa của học sinh) Đề 1: Anh chị hãy phát biểu châm ngôn sống của mình  Đoạn văn: Sống ­ đó đâu chỉ là sự tồn tại trên cõi đời rồi tan biến đi như một hạt  cát. Sống­ chính là sự tồn tại trong nhiều mối quan hệ của con người.Sẽ như  thế nào đây nếu con người ai cũng đóng khép trái tim mình? Tôi tin rằng“cho   đi” cũng là một cách khẳng định sự tồn tại. “Sống là cho…”, điều đó đâu có gì là quá xa xôi, quá vĩ đại bởi lẽ  nó  cũng chính là quy luật của tình cảm, của trái tim con người. Đề 2:  Ngày tử thần gõ cửa nhà anh Anh sẽ có món chi làm tặng vật ? Trước vị khách đến thăm tôi sẽ đặt  Cái li tràn đầy cuộc sống tôi dâng                                        ( Thơ Ta­go, Xuân Diệu dịch) Đoạn văn: Có lẽ chẳng ai muốn nhắc đến hai chữ “ tử thần”, theo quan niệm dân   gian đó là danh từ chỉ  một vị thần có thể  cướp đi sinh mạng của con người.   Và ‘Ngày tử thần đến gõ cửa nhà anh” chính là ngày anh sắp phải rời xa thế  giới này, ngày sự sống chỉ còn được tính bằng giây, bằng phút. Trước cái chết   cận kề, ta sẽ  để  lại “ tặng vật” gì ?, sẽ  còn lại dấu vết gì trong cuộc đời ?   Nhà thơ bộc bạch “ tôi sẽ đặt­ cái li tràn đầy cuộc sống” đó là biểu hiện của   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2