Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh giỏi THPT môn Ngữ văn
lượt xem 8
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là áp dụng sáng kiến trong bồi dưỡng học sinh giỏi, hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết, tạo sự chủ động sáng tạo và khơi dậy niềm đam mê với môn học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh giỏi THPT môn Ngữ văn
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Hiệu quả của quá trình dạy học môn Ngữ văn không chỉ nằm ở khâu dạy kiến thức mà còn ở bước rèn kĩ năng. Nếu dạy chỉ cung cấp kiến thức thì việc rèn là khâu cùng một lúc kiểm tra được nhiều phương diện của quá trình học: kiểm tra được việc tiếp thu kiến thức, vận dụng tri thức vào thực tế, khả năng giải quyết linh hoạt, nhạy bén các vấn đề v.v. Ngoài ra, việc rèn kĩ năng cho học sinh trong quá trình học Ngữ văn phần nào đáp ứng yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh theo 4 mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao. Nhận thức được tầm quan trọng của kĩ năng bởi vậy công cuộc vận động của Bộ giáo dục trong dạy học bộ môn: tránh “ đậm kiến thức, nhạt kĩ năng” cũng đã được triên khai. Thực tế, đề thi HSG trong những năm gần đây gồm hai câu: nghị luận xã hội và nghị luận văn học, đều đòi hỏi học sinh phải vận dụng các thao tác lập luận thật khéo léo, linh hoạt. Trong số các thao tác lập luận, thao tác giải thích vô cùng quan trọng , có tính định hướng, là kim chỉ nam cho toàn bộ bài văn. Giải thích đúng sẽ hiểu đúng, viết đúng, xây dựng hệ thống luận điểm tương ứng với luận đề. Tuy nhiên, qua chấm bài của học sinh, chúng tôi nhận thấy các em khá bối rối vì thế chất lượng bài chưa cao. Chọn chuyên đề Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh giỏi THPT môn Ngữ văn , chúng tôi mong các em học sinh có cho riêng mình kĩ năng cần thiết bước đầu để tiếp cận, giải quyết vấn đề nghị luận đúng hướng. 2. Tên sáng kiến: Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh giỏi THPT môn Ngữ văn
- 3. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Lê Thị Minh Tâm Địa chỉ: Trường THPT Nguyễn Thái Học, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc Số điện thoại: 0971389298 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Lê Thị Minh Tâm 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Mục đích: Áp dụng sáng kiến trong bồi dưỡng học sinh giỏi, hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết, tạo sự chủ động sáng tạo và khơi dậy niềm đam mê với môn học Đối tượng nghiên cứu: Phần giải thích trong bài văn nghị luận Phạm vi nghiên cứu: Đề thi học sinh giỏi 6. Ngày sáng kiến được áp dụng: 20/9/2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: A. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận 1.Văn nghị luận Văn nghị luận là thể loại văn viết về những vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau như chính trị, kinh tế, văn hoá, triết học…Mục đích của văn nghị luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, quan điểm nào đó … đặc trưng cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận thuyết khác với văn học nghệ thuật, văn chương nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ… (Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi Từ điển thuật ngữ văn học NXB Đại học quốc gia, 4 1999). Nhìn từ đề tài, đối tượng nghị luận, có thể chia văn nghị luận thành hai loại lớn: nghị luận xã hội và nghị luận văn học. 2
- Trong cả hai kiểu bài, thao tác lập luận giải thích có vị trí, vai trò quan trọng 2. Thao tác lập luận giải thích a. Khái niệm: Thao tác lập luận giải thích là một thao tác nghị luận dùng lí lẽ để giảng giải, cắt nghĩa giúp người đọc, người nghe hiểu rõ một hiện tượng, một vấn đề nào đó. b. Vị trí, vai trò : Thao tác lập luận giải thích có vai trò quan trọng trong bài văn nghị luận giúp người viết đi đúng vấn đề cần nghị luận, định hướng cho quá trình tạo dựng luận điểm, là một trong các yếu tố quyết định sự thành công của bài văn. c. Yêu cầu của thao tác lập luận giải thích: Khi giải thích ngắn gọn, rõ ý, hay, có tính nghệ thuật . 3. Rèn kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh giỏi THPT môn Ngữ văn 3.1. Rèn kĩ năng viết phần giải thích với dạng đề nghị luận xã hội a. Kĩ năng nhận diện dạng đề Nghị luận xã hội thường được chia thành ba dạng: + Nghị luận về một tư tưởng đạo lí. + Nghị luận về một hiện tượng đời sống + Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học Cách thức đề ra: Đề là một câu nói, một ý kiến : có một mệnh đề Đề là một câu nói, một ý kiến có 2 mệnh đề Đề có 2 ý kiến Đề là một câu chuyện, bài thơ, bản tin, bức tranh Đề là một chủ đề 3
- Đề là một hình ảnh v.v. Tùy vào dạng đề cụ thể để sử dụng cách giải thích phù hợp b. Kĩ năng tìm ý: Để làm được phần này học sinh cần căn cứ vào từ, câu, vế câu, hình ảnh v.v. Đặt câu hỏi lập ý : là gì? Nghĩa là như thế nào ? Nói như vậy có ý gì ? + Giải thích từ: Giải thích nghĩa từ theo từ điển tiếng Việt, tìm hiểu nghĩa gốc và nghĩa chuyển. Giải thích nghĩa từ theo đặc điểm của từ loại: danh từ, động từ, tính từ. + Giải thích câu, vế câu: căn cứ vào các từ , mối quan hệ các từ: nếu thì; hãy, đừng, nên, mà v.v. để xác định vế chính. Giải thích nghĩa của tập hợp từ và bối cảnh câu nói. + Giải thích hình ảnh: tìm ra ý nghĩa tả thực và biểu tượng của hình ảnh. + Ngoài ra cần chú ý tới các biện pháp tu từ được sử dụng trong đề. Cuối cùng rút ra ý nghĩa của vấn đề nghị luận c. Kĩ năng sắp xếp ý: tùy vào vấn đề nghị luận sắp xếp giải thích ý nào trước, ý nào sau. d. Kĩ năng diễn đạt: trong diễn đạt học sinh cần chọn lọc ý để trình bài, sử dụng từ, câu đúng ngữ pháp, diễn đạt uyển chuyển, hình ảnh, cảm xúc. đ. Kĩ năng tạo dựng đoạn văn: tùy vào vấn đề nghị luận và sở trường người viết để lựa chọn cách trình bày đoạn theo các cách: diễn dịch, quy nạp, song hành, tổngphânhợp, vấn đáp v.v. Diễn dịch: Diễn dịch là từ một chân lí chung, quy luật chung mà suy ra các hệ luận, các biểu hiện cụ thể. Ở cách viết này câu chủ đề đặt ở đầu đoạn. Quy nạp: 4
- Quy nạp là từ những chứng cớ cụ thể mà rút ra những nhận định tổng quát. Ở cách viết này, câu chủ đề đặt ở cuối đoạn. Phối hợp diễn dịch với quy nạp ( tổng phân –hợp) Tổng phân hợp là đi từ chân lí chung đến các biểu hiện cụ thể rồi đúc kết thành nhận định mới nâng cao, mở rộng. So sánh: So sánh tương đồng: là từ một chân lí đã biết suy ra một chân lí tương tự, có chung một lôgic bên trong So sánh tương phản là đối chiếu các mặt trái ngược nhau để làm nổi bật luận điểm Vấn đáp: Vấn đáp là nêu câu hỏi rồi trả lời hoặc để người đọc tự trả lời. 3.2. Rèn kĩ năng viết phần giải thích với dạng đề nghị luận văn học Nếu khi làm kiểu bài nghị luận xã hội đòi hỏi học sinh cần có những tri thức, sự hiểu biết về đời sống xã hội thì khi làm kiểu bài nghị luận văn học lại rất cần ở học sinh tri thức về văn học như : lí luận văn học, thuật ngữ văn học, kiến thức văn học sử về giai đoạn văn học, trào lưu văn học, tác gia, tác phẩm văn học v.v. a. Về đề thi Học sinh giỏi một số năm gần đây Qua tìm hiểu đề thi Học sinh giỏi chúng tôi nhận thấy chủ yếu các đề đều liên quan nhiều tới kiến thức lí luận văn học. Sau đây là một số đề thi Học sinh giỏi các năm: Đề thi năm 2010: Tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng tôn vinh con người thông qua những hình thức nghệ thuật độc đáo. Bằng việc phân tích một số tác phẩm văn học , anh/chị hãy làm sáng tỏ. Đề thi năm 2011: 5
- Mỗi hình tượng nhân vật phụ nữ thực sự thành công bao giờ cũng là kết quả của sự phát hiện sâu sắc về nữ tính. Bằng việc phân tích một số nhân vật phụ nữ tiêu biểu trong các tác phẩm đã học từ văn học dân gian đến văn học hiện đại, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên. Đề thi năm 2012: Các nhà văn nhà nhân đạo lớn thường gửi gắm vào sáng tác một cách nhìn sâu sắc về con người. Cách nhìn này hướng đến đời sống nội tâm và cảm xúc. Phân tích một vài tác phẩm trung đại và hiện đại để làm sáng tỏ ý kiến trên. Đề 2015 Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc. Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên. Đề 2016 Mácxen Prút nhà văn Pháp cho rằng : “ Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thế giới lại được tạo lập” Nhà văn Tô Hoài có ý kiến: “ Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại” Bằng sự trải nghiệm văn học của mình, anh/chị hãy bình luận các ý kiến. b. Một số nhận xét về đề thi Như đã nói, đề thi Học sinh giỏi các cấp, nhất là đề thi Học sinh giỏi Quốc gia phần lớn liên quan đến kiến thức lí luận văn học. Cái khó của dạng đề này là các vùng kiến thức lí luận không tách rời riêng rẽ, mà liên quan mật thiết với nhau, bởi vậy đòi hỏi người viết trong quá trình giải thích vấn đề cần sự linh hoạt, khéo léo trong khi xử lí kiến thức, biết lướt xoáy. c. Một số kĩ năng: 6
- + Kĩ năng nhận diện vấn đề cần nghị luận: Trước mỗi đề nghị luận văn học, người viết cần có cái nhìn tinh để nhận diện vấn đề nghị luận, vấn đề đó thực chất được gài một cách khéo léo trong câu chữ của đề, trong mối quan hệ giữa các vế câu, trong cách dùng hình ảnh v.v. + Kĩ năng tìm ý: cũng giống như ở dạng đề nghị luận xã hội để có thể viết tốt phần giải thích học sinh phải xác định được ý chính cần làm rõ, căn cứ để xác định ý chính là từ ngữ, vế câu, hình ảnh, biện pháp tu từ, các kiến thức liên quan đến lí luận văn học, văn học sử, tác gia, tác giả v.v.Cần cắt nghĩa, giải nghĩa các yếu tố đó. Trên cơ sở tập hợp các nét nghĩa tìm ra vấn đề cần nghị luận. + Kĩ năng sắp xếp ý: để người đọc hiểu, tin vào vấn đề đang nghị luận , cần đảm bảo tính hệ thống của lập luận. Nên cân nhắc, giải thích ý nào trước, ý nào sau để vừa đảm bảo tính lôgic vừa phù hợp tâm lí tiếp nhận. + Kĩ năng diễn đạt: Trong diễn đạt cần chuẩn xác và truyền cảm. Chuẩn xác trong việc dùng từ, đặt câu, chuyển ý, chuyển đoạn . Muốn sử dụng các từ biểu thị những khái niệm trừu tượng, các thuật ngữ chuyên môn, học sinh cần thường xuyên đọc sách báo, xây dựng thói quen tra từ điển, để hiểu nghĩa của chúng đến nơi, đến chốn. Không nắm chắc nghĩa của từ không nên dùng. Về câu, khi mở rộng các thành phần câu, người viết cần lưu ý sắp xếp trật tự các từ trong câu cho đúng quy tắc và không bỏ sót các thành phần chính. Ngoài ra, lời văn trong văn nghị luận không chỉ cần chuẩn xác mà còn cần sự truyền cảm, cần viết văn có hình ảnh và cảm xúc. Những hình ảnh so sánh trong bài sẽ tạo nên chất văn mượt mà cho bài viết, tạo nên “hồn cốt” cho bài, cảm xúc trong bài phải là cảm xúc chân thực, được thể hiện bằng sự rung cảm thực sự của người viết trước vấn đề đang nghị luận. + Kĩ năng viết đoạn văn: 7
- Tùy vào vấn đề nghị luận, mà người viết có thể sử dụng hợp lí các cách viết đoạn văn theo mô hình: diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, so sánh, vấn đáp v.v. như trong cách làm đề nghị luận xã hội II. Thực hành 1.Viết phần giải thích với dạng đề nghị luận xã hội a. Đề là một câu nói, một ý kiến : có một mệnh đề Ví dụ : “ Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm” Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí Để tìm ý , sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình ảnh để giải thích: + “ Bàn tay”: hình ảnh hoán dụ, chỉ người “ có hoa hồng”, người có lòng nhân ái, biết vì người khác. + “ hoa hồng” : hình ảnh ẩn dụ, biểu trưng cho tình yêu thương chân thành, vẻ đẹp của sự giúp đỡ. + “ tặng”: thái độ tự nguyện, vui vẻ Ý nghĩa câu : câu nói đề cập đến một thái độ sống đẹp của con người trong cuộc sống: cách sống biết cho đi, biết cho đi sự yêu thương là ta đang làm đẹp cho tâm hồn mình và cho cuộc sống. Biết cho thì sẽ được nhận. Viết đoạn văn: “ Cho” và “ nhận” – đó là quy luật muôn đời của cuộc sống, là sợi dây gắn kết yêu thương giữa con người với con người trong xã hội. Hạnh phúc biết bao khi được nhận tình yêu thương giữa con người với nhau. Chúng ta tìm thấy ý nghĩa đó trong câu nói giản dị:“ Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm”.“ Bàn tay” chính là một hình ảnh hoán dụ chỉ người có “hoa hồng”, người có lòng nhân ái biết sống vì người khác, “ hoa hồng” là hình ảnh ẩn dụ, biểu trưng cho tình yêu thương chân thành, vẻ đẹp của sự giúp đỡ. Tình yêu thương càng đẹp hơn, đáng trân trọng hơn khi xuất 8
- phát từ sự tự nguyện , vui vẻ. Câu nói đưa chúng ta đến một triết lí nhân sinh, một quan niệm sống đúng đắn : mỗi con người khi cho đi dù là chỉ một nụ cười, một lời yêu thương một cách chân thành, vui vẻ là chúng ta đang làm đẹp cho tâm hồn mình và cho cuộc sống. Biết cho thì sẽ được nhận. ( Bài làm của học sinh) b. Đề là một câu nói, một ý kiến có 2 mệnh đề : “ Không có cạnh tranh thì không phát triển, nhưng không nhường nhịn thì không ra con người” Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí Để tìm ý, sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình ảnh để giải thích: + Giải thích vế câu: “ cạnh tranh”: là sự ganh đua, hành động làm hết mình để đạt mục tiêu lợi ích. Cạnh tranh kích thích sự phát triển “ nhường nhịn”: là sự hi sinh lợi ích của mình cho người khác, một biểu hiện đẹp của phẩm chất làm người Câu nói đem tới suy ngẫm sâu sắc về cách sống làm người: làm người trong tất cả mọi việc phải giữ được đạo lí, đạo đức. Viết đoạn văn: Trong cuộc sống con người ai cũng mong muốn đạt được lợi ích cho mình và “ cạnh tranh” là hành động làm hết mình để đạt được mục tiêu , lợi ích cho bản thân, nó là yếu tố thúc đẩy sự phát triển. Trái ngược với “cạnh tranh” là “ nhường nhịn”, đó là sự hi sinh lợi ích của mình để sống vì người khác, cho người khác bước lên. Câu nói “ Không có cạnh tranh thì không phát triển, nhưng không nhường nhịn thì không ra con người” đã đề cập đến hai khía cạnh trái ngược nhau đem tới suy ngẫm sâu sắc về cách sống làm người: làm người trong tất cả mọi việc phải giữ được đạo lí, đạo đức. ( Bài làm của học sinh) c. Đề là một câu chuyện, bài thơ… 9
- Suy nghĩ về vấn đề đặt ra trong đoạn thơ sau: “ Người chìa tay và xin con một đồng Lần thứ nhất con hãy tặng người ấy hai đồng Lần thứ hai con hãy biếu họ một đồng Lần thứ ba con phải biết lắc đầu Và đến lần thứ tư con hãy im lặng bước đi” ( Gửi con – Bùi Nguyễn Trường Kiên) Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học. Để tìm ý , sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình ảnh để giải thích: *Giải thích nội dung ý nghĩa đoạn thơ qua việc tìm hiểu nghĩa các từ, hình ảnh. “ Người chìa tay và xin”: ai đó khó khăn cần sự giúp đỡ “ Lần thứ nhất con hãy tặng Lần thứ hai con hãy biếu” con hãy giúp đỡ họ thật chân thành “Lần thứ ba con phải biết lắc đầu Và đến lần thứ tư con hãy im lặng bước con hãy biết từ chối đi” Qua đoạn thơ, người cha nhắc nhở con về việc giúp đỡ người khác trong cuộc sống. Cần giúp đỡ người khác, song phải biết giới hạn và đôi khi từ chối cũng là một cách giúp đỡ. Viết đoạn văn: Chỉ với những câu thơ ngắn gọn , nhưng người cha đã gửi vào đó bài học về cách sống, cách làm người sâu sắc. Trước những bàn tay đang chìa ra và cần giúp đỡ, con phải biết cho họ nhiều hơn những gì họ muốn. “Tặng họ hai đồng” khi “ họ xin con một đồng” đó chính là biểu hiện của tình yêu thương, lòng rộng lượng. Người cha dặn con sẵn sàng “ tặng, biếu”, con hãy biết giúp họ một cách chân thành. Mặt khác, người cha khuyên con tỉnh táo, sáng suốt trong mọi trường hợp để biết tặng, biết cho đúng lúc, đúng chỗ. 10
- Bởi có những người chỉ biết lợi dụng lòng tốt của người khác sống lười biếng, ỷ lại. Hành động “im lặng” “lắc đầu bước đi” của con chính là hồi chuông cảnh tỉnh cho những người chỉ biết “ há miệng chờ sung” Ý thơ đã đề cập đến cách sống, cách ứng xử của con người trong cuộc đời: mỗi người cần có trái tim giàu lòng yêu thương để sẵn sàng giúp đỡ, cưu mang người khác nhưng đồng thời cũng cần biết giới hạn, có sự sáng suốt để không bị lợi dụng tiếp tay cho sự lười biếng. ( Bài làm của học sinh) d. Đề là một chủ đề: “ Biết lắng nghe – điều kì diệu của cuộc sống” Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Để tìm ý , sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình ảnh để giải thích: + Giải thích từ “ Nghe”: là sự tiếp nhận âm thanh bằng tai ( thính giác) “ lắng nghe”: chủ động tiếp nhận âm thanh, nghe bằng tâm hồn Viết đoạn văn: “ Lắng nghe” điều đó có gì khác với “ nghe” ? Cùng là sự tiếp nhận âm thanh nhưng nếu “nghe” là sự tiếp nhận âm thanh bằng thính giác thì “ lắng nghe” là sự tiếp nhận những vang vọng từ con người, từ cuộc đời một cách chủ động, là nghe nhưng nghe bằng cả tâm hồn để cùng thiết tha rung cảm với những âm thanh ấy. “ Biết lắng nghe” – điều đó sẽ làm nên điều kì diệu , giúp cho bản thân mỗi người ngày càng hoàn thiện. ( Bài làm của học sinh) đ. Đề có 2 ý kiến: 11
- Có người cho : “Ta hãy học theo cách của dòng sông nhìn thấy núi thì đi đường vòng”, nhưng người khác lại cho rằng “Trong rừng có rất nhiều lối di, ta chọn lối đi chưa có dấu chân người”. Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về những ý kiến trên. Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu nghị luận về một tư tưởng đạo lí và hiện tượng đời sống Để tìm ý , sắp xếp ý, học sinh cần chú ý bám sát các từ, hình ảnh trong từng ý kiến để giải thích: + “ Dòng sông thấy núi đi đường vòng”: khi gặp khó khăn không mạo hiểm + “Trong rừng có rất nhiều lối di, ta chọn lối đi chưa có dấu chân người”: tìm cho mình con đường mới dù có gian nan Viết đoạn văn: Hai ý kiến đã gợi nhiều suy nghĩ trong ta. “ Núi” biểu tượng cho những trở ngại, khó khăn, thử thách mà con người gặp phải trên đường đời. “ Dòng sông nhìn thấy núi” ẩn dụ chỉ con người gặp phải những khó khăn, gian nan, khi ấy họ đi đường vòng, “ đi đường vòng” nghĩa là không mạo hiểm đối mặt với khó khăn mà tìm cách giải quyết khắc phục khác dù có mất nhiều thời gian. Ý kiến đã khuyên ta trong cuộc sống sẽ có lúc ta gặp những trắc trở, thử thách như dòng sông gặp dãy núi cao kia, nếu khó có thể vượt qua hãy tìm cách tránh nó bằng cách “đi đường vòng” để an toàn hơn dù thời gian đến đích có thể sẽ lâu hơn. Thế nhưng có người lại cho rằng “Trong rừng có rất nhiều lối di, ta chọn lối đi chưa có dấu chân người” , trong rừng có nhiều lối đi cũng giống như trên con đường đời có nhiều ngã rẽ buộc ta phải lựa chọn cho mình một lối đi. Có người sẽ chọn cho mình con đường quen thuộc mà có rất nhiều người đã đi qua, có người lại tự tìm cho mình con đường mới đặt bước chân đầu tiên trên con đường ấy con đường “ chưa có dấu chân người” . Ý kiến 12
- đã khuyên ta trong cuộc sống nên khám phá, thử sức với cái mới, chọn cho mình con đường riêng mới lạ. Bằng cách nói hình ảnh hai câu nói nêu lên những bài học về cách sống: một cách sống linh hoạt, khôn khéo, một cách sống dũng cảm, mạo hiểm. ( Bài làm của học sinh) 2. Viết phần giải thích với dạng đề nghị luận văn học: Đề nghị luận văn học rất đa dạng , trong phạm vi bài viết chúng tôi không đi vào tìm hiểu các dạng đề mà chỉ tập trung vào những đề bài có liên quan nhiều đến lí luận văn học, bởi đây là dạng đề thường có trong các kì thi Học sinh giỏi . a. Đề là một ý kiến: Đề 1: “ Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú” Hãy làm rõ ý kiến qua một tác phẩm tự chọn. Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu làm rõ nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của nhà văn ưu tú. Nét độc đáo ấy thể hiện ở tư tưởng và nghệ thuật. Để tìm ý và sắp xếp ý, học sinh cần chú ý từ thuật ngữ “ phong cách”, “ độc đáo về tư tưởng và phẩm chất thẩm mĩ”; “ nhà văn ưu tú” Viết đoạn văn giải thích: Không giống như các loại hình nghệ thuật khác, văn học đòi hỏi cao ở sự sáng tạo. Và nhà văn muốn khẳng định được tên tuổi của mình thì phải đem đến “ một cách nhìn mới về thế giới” tức là phải có phong cách nghệ thuật độc đáo. Bởi “ phong cách” chính là “chỗ độc đáo về tư tưởng” – là cái nhìn có tính khám phá, một cách nhìn mới về thế giới, đó là giá trị nội dung của tác phẩm. Trong một truyện ngắn, hay một bài thơ, “ tư tưởng” chính là linh hồn, là kết tinh những cảm nhận, suy nghĩ về cuộc đời mà nhà văn gửi 13
- gắm. Tư tưởng thấm nhuần trong tác phẩm giống như máu trong huyết quản thấm đến từng tế bào của cơ thể. Sự độc đáo của tư tưởng là biểu hiện của một phong cách nghệ thuật chân chính. Song, nếu chỉ độc đáo về tư tưởng thì tác phẩm chưa thể đạt được thành công cũng như vị thế của nhà văn chưa được khẳng định. Dưới ngòi bút tài năng của người nghệ sĩ, “ tư tưởng độc đáo” sẽ được thể hiện bằng “ Nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ”. “Nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ” là sự thể hiện tài năng của nhà văn trong việc sử dụng những phương thức nghệ thuật để xây dựng hình tượng. Nhà văn sẽ gửi đến bạn đọc những suy nghĩ, quan niệm của mình về thế giới, về con người qua cách dùng từ, đặt câu, cách sử dụng hình ảnh đặc sắc, hấp dẫn. Song không phải nhà văn nào cũng có thể có được cho mình tư tưởng độc đáo và nghệ thuật có tính thẩm mĩ. Thực tế cho thấy chỉ những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được điều đó. Vì những nét riêng trong cái nhìn, trong nghệ thuật của nhà văn là kết tinh cả một quá trình khổ luyện, sáng tạo không ngừng nghỉ của người nghệ sĩ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp nội dung và vẻ đẹp hình thức sẽ tạo nên một tác phẩm nghệ thuật đích thực, tạo nên “dấu ấn riêng” tôn vinh tài năng của người nghệ sĩ ưu tú đã sáng tạo ra nó, góp phần tạo nên vị trí của người nghệ sĩ trong lịch sử văn học dân tộc. ( Bài làm của học sinh) Đề 2: Có ý kiến cho rằng : “ Cái đẹp mà văn học đem lại không phải cái gì khác hơn là cái đẹp của sự thật đời sống được khám phá một cách nghệ thuật” Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu làm rõ tầm quan trọng của hiện thực đời sống và tài năng nhà văn đối với việc sáng tạo cái đẹp. Để tìm ý và sắp xếp ý, học sinh cần chú ý từ “ cái đẹp của sự thật đời sống”; “ cái đẹp được khám phá một cách nghệ thuật” 14
- Viết đoạn văn giải thích: Chẳng biết từ bao giờ cuộc sống đã trở thành mạch nguồn và cũng là điểm đến của văn học. Ai đó đã từng ví văn học và cuộc sống giống như thần Ăngtê và Đất Mẹ. Thần Ăngtê chỉ có được sức mạnh phi thường khi đặt chân trên Đất Mẹ. Cũng như vậy, văn học chỉ có sức sống khi nó gắn bó với cuộc sống. Quay lưng lại với “ sự thật đời sống” văn học chỉ là một thứ kĩ xảo vờn vẽ. Cũng từ cuộc đời đầy nắng gió, cát bụi ấy nhà văn là người khám phá, tìm kiếm lấy cái đẹp bởi “ cái đẹp là cuộc sống”. Giống như người thợ luyện những vỉa quặng thành thứ kim loại óng ánh, như chú ong chuyên cần hút nhụy hoa tạo nên mật ngọt, nhà văn là người kết tinh những tinh chất cuộc đời trong tác phẩm của mình thành điều mang tên gọi: CÁI ĐẸP. Vẻ đẹp ấy có khi được khám phá trong con người, trong thiên nhiên, nhưng tất cả đều phải bắt nguồn từ “ sự thật đời sống” Nhưng văn học đâu chỉ là cuộc sống, văn học còn là nghệ thuật nữa. Nếu thiếu nghệ thuật thì vẻ đẹp của đời sống giống như hòn ngọc thô không được mài giũa, không thể phát ra thứ ánh sáng lung linh nhất, vẻ đẹp diệu kì nhất làm mê đắm lòng người. Và “ sự thật đời sống” khi đó đi vào văn học chỉ là hiện thực nằm đơ trên trang giấy. Bởi vậy , “ cái đẹp được khám phá một cách nghệ thuật” sẽ tạo nên sự hài hòa giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật đem lại những giá trị thẩm mĩ cao . Thế mới hay, trở thành người dẫn đường đến với cái đẹp đâu phải dễ, dù cho “bản chất con người là nghệ sĩ”, phải là người biết dùng nghệ thuật để khám phá cái đẹp của đời sống đó mới là nhà văn thực sự. Và ta hiểu rằng cái đẹp mà văn học đem lại là sự hòa trộn của tinh chất cuộc đời và tinh luyện của nghệ thuật. ( Bài làm của học sinh) 15
- b. Đề có 2 ý kiến: Ở dạng đề này, học sinh lần lượt giải thích từng ý kiến rút ra vấn đề cần nghị luận Đề 1: Bàn về truyện ngắn, nhà văn Tô hoài nói : “ Dựng nhân vật là khâu hết sức quyết định” Còn Nguyễn Minh Châu lại cho rằng “ Tạo được tình huống đặc sắc là vấn đề sống còn của truyện ngắn”. Làm sáng tỏ các ý kiến trên qua một tác phẩm tự chọn. Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu làm rõ đặc trưng của truyện ngắn qua 2 ý kiến . Để tìm ý và sắp xếp ý, học sinh cần chú ý từ “ truyện ngắn” “ dựng nhân vật, khâu quyết định” “ tình huống đặc sắc, vấn đề sống còn” Viết đoạn văn giải thích: Đều là những nhà văn đã có nhiều thành công ở thể loại truyện ngắn, hai cây bút Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu đều đúc kết được những quan điểm của mình về truyện ngắn. Truyện ngắn là tác phẩm tự sự dùng lời kể, tả để thông báo về thời gian, địa điểm, con người. Tô Hoài cho rằng “ Dựng nhân vật là khâu hết sức quyết định”. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội , ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Nhân vật là linh hồn của truyện ngắn mà thông qua nhân vật nhà văn gửi gắm những tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Nhân vật được xây dựng qua các chi tiết như: ngoại hình, tính cách, nội tâm. Qua nhân vật, những thông điệp của nhà văn gửi gắm đến bạn đọc không khô cứng mà sinh động, hấp dẫn. Vì vậy đây là khâu rất quan trọng trong xây dựng tác phẩm. Trở lại với ý kiến của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhà văn cho rằng “ Tạo được tình huống đặc sắc là vấn đề sống còn của truyện ngắn”. Tình huống là hoàn cảnh đặc biệt của đời sống được tái hiện trong tác phẩm, là 16
- thứ thuốc thử màu nhiệm làm nổi bật tính cách con người. Qua tình huống, phẩm chất, tính cách nhân vật thực sự bộc lộ. Nhà văn xây dựng tình huống để soi sáng nhân vật, đó là vấn đề sống còn của truyện ngắn. ( Bài làm của học sinh) Đề 2: Marcel Proust nói : “ Phong cách là vấn đề cái nhìn” Còn Thanh Thảo lại cho rằng “ Phong cách thực chất là vấn đề hình thức. Hình thức là sự hiện diện độc đáo của người nghệ sĩ. Không có hình thức ấy không có nghệ thuật” Làm sáng tỏ các ý kiến trên qua một tác phẩm tự chọn. Nhận diện vấn đề cần nghị luận: đề bài yêu cầu làm rõ nét độc đáo của phong cách nghệ thuật qua 2 ý kiến . Để tìm ý và sắp xếp ý, học sinh cần chú ý từ “ phong cách” “ cái nhìn” “ hình thức” Viết đoạn văn giải thích: Ý kiến của Marcel Proust và Thanh Thảo đề cập đến vấn đề phong cách nghệ thuật trong sáng tạo văn chương. Phong cách là nét riêng, nét độc đáo là đặc điểm bền vững không mất đi của các nhà văn trong tác phẩm văn học của mình. Đó là nét riêng không trộ lẫn giữa các tác giả văn học. Đối với Marcel Proust thì“ Phong cách chính là cái nhìn”, “ cái nhìn” là sự quan sát về đời sống, cái nhìn riêng về mọi khía cạnh của đời sống, đó là vấn đề tư tưởng trong tác phẩm, tạo nên nội dung độc đáo của sáng tác nghệ thuật. Đòi hỏi nhà văn phải có đôi mắt mới trước những đề tài tưởng như vốn rất quen thuộc. Còn nhà thơ Thanh Thảo lại cho rằng “ Phong cách thực chất là vấn đề hình thức. Hình thức là sự hiện diện độc đáo của người nghệ sĩ. Không có hình thức ấy không có nghệ thuật”. Thanh Thảo đề cập đến vấn đề “hình thức”, hình thức là những sáng tạo của người nghệ sĩ về nghệ thuật. Hình thức thể hiện ở giọng điệu, cách tổ chức ngôn từ, sử dụng các biện pháp nghệ thuật. ( Bài làm của học sinh) 17
- 18
- B. PHẦN KẾT LUẬN I .Kết luận: Rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh là một phần không thể thiếu của bộ môn Ngữ văn ở trường THPT. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn của giáo viên. Tùy thuộc vào từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, giáo viên cần có mục tiêu, phương pháp và mức độ kiến thức phù hợp. Chuyên đề này của chúng tôi đóng góp một hướng đi trong việc rèn luyện kĩ năng viết phần giải thích trong đề thi Học sinh giỏi môn Ngữ văn cho học sinh . Trên cơ sở lí thuyết về văn nghị luận, văn nghị luận xã hội, chúng tôi xây dựng các bước rèn luyện kĩ năng từ nhận diện vấn đề nghị luận, tìm ý, sắp xếp ý, kĩ năng viết đoạn v.v. Chuyên đề đã có sự cụ thể hóa lí thuyết trong các dạng bài tập thực hành ở dạng đề nghị luận xã hội và nghị luận văn học. II. Đề xuất: Qua thực tế các năm ôn luyện, chúng tôi nhận thấy, các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận không riêng rẽ, tách rời mà lồng ghép, trong giải thích có bàn luận, trong bàn luận có chứng minh, phân tích. Bởi vậy trong quá trình hướng dẫn học sinh kĩ năng viết bài, giáo viên cần sáng tạo, linh hoạt. Việc rèn kĩ năng làm văn là khâu quan trọng của quá trình dạy học, cần kết hợp thường xuyên hoạt động này với ra đề, kiểm tra, đánh giá. Trước mỗi đề bài có nhiều hướng giải quyết khác nhau, cần khuyến khích, trân trọng những sáng tạo của học sinh khi giải quyết vấn đề nghị luận, tránh áp đặt một chiều máy móc. Bên cạnh đó, theo chúng tôi năm đầu của quá trình ôn luyện chúng ta cần chú ý tới khâu làm mẫu để giúp học sinh có sự định hình từ ban đầu về cách triển khai ý của một bài nghị luận. 19
- C. PHỤ LỤC ( Một số đoạn văn viết phần giải thích minh họa của học sinh) Đề 1: Anh chị hãy phát biểu châm ngôn sống của mình Đoạn văn: Sống đó đâu chỉ là sự tồn tại trên cõi đời rồi tan biến đi như một hạt cát. Sống chính là sự tồn tại trong nhiều mối quan hệ của con người.Sẽ như thế nào đây nếu con người ai cũng đóng khép trái tim mình? Tôi tin rằng“cho đi” cũng là một cách khẳng định sự tồn tại. “Sống là cho…”, điều đó đâu có gì là quá xa xôi, quá vĩ đại bởi lẽ nó cũng chính là quy luật của tình cảm, của trái tim con người. Đề 2: Ngày tử thần gõ cửa nhà anh Anh sẽ có món chi làm tặng vật ? Trước vị khách đến thăm tôi sẽ đặt Cái li tràn đầy cuộc sống tôi dâng ( Thơ Tago, Xuân Diệu dịch) Đoạn văn: Có lẽ chẳng ai muốn nhắc đến hai chữ “ tử thần”, theo quan niệm dân gian đó là danh từ chỉ một vị thần có thể cướp đi sinh mạng của con người. Và ‘Ngày tử thần đến gõ cửa nhà anh” chính là ngày anh sắp phải rời xa thế giới này, ngày sự sống chỉ còn được tính bằng giây, bằng phút. Trước cái chết cận kề, ta sẽ để lại “ tặng vật” gì ?, sẽ còn lại dấu vết gì trong cuộc đời ? Nhà thơ bộc bạch “ tôi sẽ đặt cái li tràn đầy cuộc sống” đó là biểu hiện của 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng Atlat và thực hành biểu đồ Địa lí lớp 12
26 p | 157 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 38 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng phát âm thông qua hoạt động lồng tiếng phim tiếng Anh cho học sinh lớp 10A4 trường THPT Yên Mô B
32 p | 19 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống hiệu quả khi dạy phần đạo đức môn Giáo dục công dân lớp 10
11 p | 117 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức thực tiễn cho học sinh qua nội dung Hàng hóa - Giáo dục công dân 11
31 p | 43 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 14 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng làm bài đọc hiểu văn bản trong đề thi trung học phổ thông Quốc gia
61 p | 16 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng giải toán bằng phương pháp lượng giác hóa
39 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT
60 p | 43 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng làm bài một số loại câu giao tiếp trong đề thi THPT Quốc gia được lồng vào tiết dạy phụ đạo cho học sinh lớp 12 trường THPT Lý Tự Trọng
24 p | 56 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ đề dạy học: Giáo dục địa phương để rèn luyện kỹ năng thuyết trình, đọc hiểu văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ cho học sinh lớp 11 THPT
81 p | 63 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp giải bài tập Nhị thức Newtơn
40 p | 40 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng làm văn thuyết minh qua hoạt động tìm hiểu làng nghề truyền thống và di tích lịch sử tại địa phương
12 p | 65 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng giải các bài toán cực trị hàm số cho học sinh lớp 12 THPT
49 p | 34 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện năng lực độc lập của học sinh qua việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chương nhóm Halogen lớp 10 trung học phổ thông
39 p | 30 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn