intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng đọc mở rộng trong chương trình Ngữ văn 10 (2018)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:65

23
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài Rèn luyện kĩ năng đọc mở rộng trong chương trình Ngữ văn 10 (2018) với mục đích định hướng, xây dựng những biện pháp giúp giáo viên và học sinh thực hiện có hiệu quả hoạt động đọc mở rộng trong quá trình đọc hiểu văn bản.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng đọc mở rộng trong chương trình Ngữ văn 10 (2018)

  1. SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO NGHỆ AN SỞ TRƢỜNG THPT NGHI LỘC 2 AN GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO NGHỆ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: RÈN KĨ NĂNG ĐỌC MỞ RỘNG Tên đề tài:TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 (2018) RÈN KĨ NĂNG ĐỌC MỞ RỘNG TRONG CHƢƠNG TRÌNHNgữ văn Thuộc bộ môn: NGỮ VĂN 10 (2018) Thuộc bộ môn: Ngữ văn Tác giả: Th.s ĐẶNG QUỐC CHI Th.s NGUYỄN THỊ LƢU Tổ: Ngữ văn Tháng 12/2022 Số điện thoại liên hệ: 0986790655 – 0977911233 Tháng 12/2022
  2. SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƢỜNG THPT NGHI LỘC 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: RÈN KĨ NĂNG ĐỌC MỞ RỘNG TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 (2018) Thuộc bộ môn: Ngữ văn Tác giả: Th.s ĐẶNG QUỐC CHI Th.s NGUYỄN THỊ LƢU Tổ: Ngữ văn Tháng 12/2022 Số điện thoại liên hệ: 0986790655 – 0977911233
  3. MỤC LỤC NỘI DUNG Trang PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tƣợng nghiên cứu 2 4. Phạm vi nghiên cứu 2 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 2 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 2 PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 3 1. Cơ sở lí luận 3 1.1. Mục tiêu dạy học phát triển phẩm chất năng lực trong công cuộc 3 đổi mới giáo dục 1.2. Chương trình dạy học Ngữ văn 2018 theo hướng phát triển phẩm 3 chất năng lực học sinh 1.2.1. Quan điểm xây dựng chương trình 3 1.2.2. Nội dung của chương trình 2018 4 1.3. Kĩ năng đọc mở rộng 5 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 6 2.1. Thực trạng rèn luyện kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh 6 2.2. Nhận thức của giáo viên trong việc rèn kĩ năng đọc mở rộng cho 8 học sinh II. RÈN KĨ NĂNG ĐỌC MỞ RỘNG TRONG CHƢƠNG TRÌNH 9 NGỮ VĂN 10 (2018) 1. Nguyên tắc dạy đọc mở rộng 9 1.1. Bám sát mục tiêu chương trình 9 1.2. Bám sát đặc trưng thể loại 9 1.3. Bám sát yêu cầu cần đạt về dạy đọc văn bản 11 1.4. Bám sát những yêu cầu về kĩ năng đọc mở rộng trong chương 12 trình Ngữ văn 10 (2018) 1.5. Lựa chọn văn bản phù hợp 13 1.6. Đảm bảo sự phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh ở từng cấp 14 học 2. Biện pháp dạy đọc mở rộng 15 2.1. Đa dạng hóa các hình thức, cách thức, phương pháp, kĩ thuật đọc 15 mở rộng 2.1.1. Mô hình dạy học đảo ngược 15 2.1.2. Mô hình dạy học dự án 16
  4. 2.1.3. Dạy học trên lớp 17 2.2. Sử dụng chiến thuật đọc – hiểu 18 2.3. Hướng dẫn học sinh tạo lập và sử dụng hiệu quả hồ sơ đọc 21 2.4. Biện pháp xây dựng ngữ liệu cho hoạt động đọc mở rộng 22 2.5. Biện pháp kiểm tra, đánh giá 23 2.6. Tổ chức các diễn đàn lan tỏa kĩ năng đọc mở rộng 24 III. THỰC NGHIỆM 26 IV. KHẢO SÁT 35 1. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất 35 1.1. Mục đích khảo sát 35 1.2. Nội dung và phương pháp khảo sát 36 1.2.1. Nội dung khảo sát 36 1.2.2. Phương pháp khảo sát và thang đánh giá 36 1.3. Đối tượng khảo sát 36 1.4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp 36 đề xuất 1.4.1. Sự cấp thiết của các giải pháp đã đề xuất 36 1.4.2. Tính khả thi của các giải pháp đề xuất 37 2. Khảo sát tính hiệu quả của đề tài 38 2.1. Mục đích khảo sát 38 2.2. Nội dung và phương pháp khảo sát 38 2.2.1. Nội dung khảo sát: 38 2.2.2. Phương pháp khảo sát 39 2.3. Đối tượng khảo sát 39 PHẦN III: KẾT LUẬN 42 1. Kết luận 42 2. Đóng góp của đề tài 42 2.1. Tính mới 42 2.2. Tính khoa học 42 2.3. Tính hiệu quả 43 3. Khả năng ứng dụng và phát triển của đề tài 43 4. Khuyến nghị 43 4.1. Với các cấp quản lí giáo dục 43 4.2. Với giáo viên 43 4.3. Với học sinh 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO 45 PHỤ LỤC
  5. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội đã chỉ rõ mục tiêu của việc đổi mới Chương trình, sách giáo khoa như sau: “Đổi mới Chương trình, Sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả GDPT; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”. Nằm trong mục tiêu chung ấy, Chương trình Ngữ văn 2018 đã đặt ra mục tiêu cụ thể về phát triển phẩm chất, năng lực học sinh phù hợp với đặc trưng bộ môn đó là: Hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính. Góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung như năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, Chương trình Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe; phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hóa: có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống. Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể nói chung và chương trình Ngữ văn 2018 nói riêng có nhiều sự thay đổi so với chương trình 2006. Thay đổi lớn nhất là chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh, đặc biệt là các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe, trong đó kĩ năng đọc – hiểu đóng một vai trò quan trọng. Cùng bàn về vấn đề này, chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới (OECD) đã nhấn mạnh “Đọc hiểu không chỉ là một yêu cầu của suốt thời kì tuổi thơ trong nhà trường phổ thông mà nó còn là một nhân tố quan trọng trong việc xây dựng mở rộng những kiến thức, kĩ năng và chiến lược của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời khi họ tham gia vào các hoạt động ở những tình huống khác nhau, trong mối quan hệ với người xung quanh, cũng như trong cộng đồng”. Năng lực đọc hiểu là một trong những năng lực cốt lõi, cần có của một công dân dùng để chiếm lĩnh tri thức, làm giàu trí tuệ và nuôi dưỡng tâm hồn. Chương trình môn Ngữ văn 2018 lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói, nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học. Lần đầu tiên việc xây dựng chương trình môn học này đã được thống nhất cùng một hệ thống là kĩ năng giao tiếp. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về văn học, tiếng Việt được tích hợp vào hoạt động dạy đọc, viết, nói và nghe. Quan điểm này vừa bảo đảm tính chất thống nhất trong toàn chương trình vừa giúp cho việc tích hợp tốt hơn, thể hiện rõ đặc điểm của chương trình phát triển năng lực.
  6. Trong cấu trúc sách giáo khoa mới, kĩ năng đọc đóng một vai trò quan trọng và được bố trí với một tỉ lệ tương đối lớn. Cụ thể: Đọc chiếm khoảng 60 – 65 % ; Viết: 20 – 25%; Nói – Nghe: 10%; Kiểm tra, đánh giá: 5%. Trong giờ đọc – hiểu mỗi kiểu văn bản cần đạt các yêu cầu: Đọc hiểu nội dung, đọc hiểu hình thức, liên hệ, so sánh giữa các văn bản và đọc mở rộng. Trong đó phần đọc mở rộng có vị trí quan trọng trong việc phát triển năng lực đọc cho học sinh, giúp các em làm giàu vốn từ, cải thiện kĩ năng viết, nói, nghe. Ngoài ra, nó còn hình thành, nuôi dưỡng thói quen đọc sách, phát triển kĩ năng cảm thụ, giúp học sinh tự ý thức về bản thân và hiểu hơn về thế giới xung quanh. Mặc dù, nó đóng vai trò quan trọng như vậy nhưng lại còn rất mới và chưa được chú trọng trong chương trình 2006. Vì thế giáo viên và học sinh đều chưa biết cách dạy học hiệu quả nội dung này. Tuy nhiên, trong chương trình Ngữ văn 2018, mỗi năm học sinh phải đọc mở rộng ít nhất 35 văn bản (bao gồm cả văn bản được hướng dẫn đọc trên mạng Internet) có thể loại và độ dài, độ khó tương đương với các văn bản đã học. Vì vậy, việc rèn kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh là một yêu cầu cần thiết. Chính vì những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài Rèn luyện kĩ năng đọc mở rộng trong chương trình Ngữ văn 10 (2018) làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình với mục đích định hướng, xây dựng những biện pháp giúp giáo viên và học sinh thực hiện có hiệu quả hoạt động đọc mở rộng trong quá trình đọc hiểu văn bản. 2. Mục đích nghiên cứu Rèn luyện kĩ năng đọc mở rộng trong chương trình Ngữ văn 10 (2018) 3. Đối tƣợng nghiên cứu Kĩ năng đọc mở rộng trong chương trình Ngữ văn 10 (2018) 4. Phạm vi nghiên cứu: Văn bản trong chương trình Ngữ văn 10 (2018) 5. Nhiệm vụ nghiên cứu – Xây dựng các nguyên tắc đọc mở rộng. – Đề xuất biện pháp dạy đọc mở rộng các văn bản hiệu quả. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu – Phương pháp thực nghiệm – Phương pháp đối chứng. – Phương pháp thống kê.
  7. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận 1.1. Mục tiêu dạy học phát triển phẩm chất năng lực trong công cuộc đổi mới giáo dục Như chúng ta đã biết chương trình Ngữ văn 2006 quy định mục tiêu chung và mục tiêu mỗi cấp học gồm có ba nội dung: Mục tiêu trang bị kiến thức phổ thông cơ bản, hiện đại có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học; Mục tiêu phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, phương pháp học tập; Mục tiêu giáo dục tư tưởng tình cảm, ý thức và thái độ. Nói một cách ngắn gọn là chương trình đặt ra ba mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Lấy kiến thức làm mục tiêu chính của hoạt động dạy học. Dựa trên yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông của Đảng và nhà nước, đặc trưng và thế mạnh riêng của môn học, chương trình Ngữ văn 2018 đã có sự đột phá chuyển từ kiến thức, kĩ năng, thái độ sang dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học. Mục tiêu cụ thể được quy định như sau: Hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính. Chương trình môn Ngữ văn giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung như năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, chương trình môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe; phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hóa; có hệ thống kiến thức nền tảng về tiếng Việt và văn học, biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết đánh giá các văn bản văn học và các sản phẩm giao tiếp trong cuộc sống. 1.2. Chương trình dạy học Ngữ văn 2018 theo hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh 1.2.1. Quan điểm xây dựng chương trình Chương trình Ngữ văn 2018 được xây dựng theo 5 quan điểm sau: Thứ nhất, tuân thủ các quy định cơ bản được nêu trong chương trình tổng thể, xây dựng một chương trình chung cho cả 3 cấp học. Quan điểm này giúp cho việc xây dựng chương trình môn học Ngữ văn thống nhất với chương trình tổng thể, nhất quán với các môn học khác.
  8. Thứ hai, chương trình được xây dựng dựa trên các cơ sở khoa học như: Kết quả nghiên cứu về giáo dục học, tâm lí học và phương pháp dạy học Ngữ văn hiện đại; Thành tựu nghiên cứu về văn học và ngôn ngữ học; thành tựu văn học Việt Nam; Kinh nghiệm xây dựng chương trình môn Ngữ văn của Việt Nam và cập nhật xu thế quốc tế trong phát triển chương trình nói chung và chương trình môn Ngữ văn nói riêng. Cơ sở cuối cùng là phải căn cứ vào thực tiễn xã hội, giáo dục, điều kiện kinh tế và truyền thống văn hóa Việt Nam. Thứ ba, lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học. Lần đầu tiên việc xây dựng chương trình môn học này được thống nhất cùng một hệ thống là kĩ năng giao tiếp. Trước đây chương trình được xây dựng tách rời ở ba cấp học, mỗi cấp học được xây dựng theo một tiêu chí riêng. Chương trình tiểu học xây dựng theo chủ đề, chủ điểm; chương trình trung học cơ sở xây dựng theo sáu kiểu văn bản còn chương trình trung học phổ thông xây dựng theo thể loại. Việc xây dựng chương trình thống nhất theo trục rèn luyện kĩ năng giao tiếp sẽ đảm bảo được việc tích hợp tốt hơn, thể hiện rõ đặc điểm của chương trình phát triển năng lực, không lấy việc trang bị kiến thức làm mục tiêu giáo dục. Thứ tư, chương trình được xây dựng theo hướng mở. Tính chất mở của chương trình được thể hiện: Một là không quy định chi tiết về nội dung dạy học, các văn bản cụ thể mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói, nghe cho mỗi lớp, quy định khối kiến thức cơ bản, cốt lõi về tiếng Việt, văn học và một số văn bản, tác phẩm có vị trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân tộc. Hai là những văn bản, tác phẩm được chương trình nêu lên trong phần cuối văn bản chỉ là sự gợi ý về ngữ liệu, minh họa về thể loại, kiểu loại văn bản. Ba là cho phép các tác giả sách giáo khoa chủ động, sáng tạo trong việc triển khai các nội dung dạy học cụ thể theo yêu cầu phát triển chương trình. Bốn là cho phép giáo viên được lựa chọn sách giáo khoa. Năm là việc đánh giá kết quả học tập cuối năm, cuối cấp không dựa vào các ngữ liệu đã học mà lấy yêu cầu cần đạt làm căn cứ để biên soạn đề kiểm tra, đánh giá. Thứ năm, chương trình cần đáp ứng yêu cầu kế thừa và đổi mới, phát triển. Chương trình nào cũng được xây dựng trên cơ sở kế thừa từ chương trình truyền thống tuy nhiên cũng cần đổi mới để đáp ứng sự thay đổi của khoa học và thực tiễn cuộc sống. 1.2.2. Nội dung của chương trình 2018 Chương trình Ngữ văn 2006 về cơ bản vẫn tiếp cận theo hướng dạy học nội dung, xuất phát từ các vấn đề chính của khoa học văn học và ngữ học để gọt bớt, thu nhỏ cho các cấp học phổ thông. Vì thế, nhiều nội dung vẫn nặng nề, hàn lâm thiếu thiết thực. Hơn nữa chương trình lại được xây dựng với các trục khác nhau. Tiểu học lấy nội dung chủ đề làm trục tích hợp dạy các kĩ năng ngôn ngữ; trung học cơ sở lấy các kiểu văn bản trong tạo lập và các thể loại văn học tương ứng để làm trục tích hợp; còn cấp trung học phổ thông lại dựa vào thể loại và lịch sử văn học để tổ chức chương trình.
  9. Chương trình Ngữ văn 2018 xuất phát từ các yêu cầu cần có cho học sinh về năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học để lựa chọn các nội dung văn học và ngữ học cần dạy. Như thế các kiến thức chỉ có ý nghĩa lọt vào chương trình mới khi chúng phục vụ đắc lực, trực tiếp cho yêu cầu phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Hơn nữa, chương trình còn được xây dựng dựa trên 1 trục tích hợp duy nhất là các kĩ năng giao tiếp đọc, viết, nói và nghe. Đây là trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp, lớp. 1.3. Kĩ năng đọc mở rộng Trong bài viết “Đọc hiểu văn bản như một khâu đột phá dạy học văn học trong nhà trường”, Giáo sư Trần Đình Sử đã nhấn mạnh: “Dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc, kĩ năng đọc để học sinh có thể đọc – hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc – hiểu mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn ngữ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mĩ. Do đó hiểu bản chất môn văn và môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực là chủ thể học sinh”. Phát biểu của giáo sư đã cho thấy tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh. Mà thực tế thời lượng dạy trên lớp cộng với số lượng văn bản hạn chế được quy định trong sách giáo khoa mới chỉ phần nào giúp học sinh có những hiểu biết, kĩ năng ban đầu cho việc đọc một kiểu loại văn bản còn việc rèn luyện kĩ năng, kĩ thuật đọc phải cần đến hoạt động đọc mở rộng. Vậy đọc mở rộng là gì? Đọc mở rộng (Extensive reading) là một thuật ngữ dùng để chỉ sở thích đọc sách trong thời gian rảnh. Thuật ngữ này thường được dùng trong việc dạy ngôn ngữ thứ hai cho học sinh, người đọc sẽ không quá bận tâm nhiều đến việc thiếu vốn từ vựng, nghiên cứu tri thức hay rèn luyện kĩ năng. Nó được dùng để phân biệt với khái niệm đọc chuyên sâu (Intensive reading) là phương pháp đọc thật kĩ các văn bản khó với mục đích hiểu được càng nhiều chi tiết càng tốt. Nếu đọc chuyên sâu là “đọc để học” thì đọc mở rộng là “học để đọc”, để thực hành kĩ năng đọc. Nếu như trước đây, khái niệm này tương đối xa lạ với cả giáo viên và học sinh thì khi chương trình Ngữ văn 2018 được ban hành, đọc mở rộng trở thành một phần bắt buộc trong việc rèn luyện kĩ năng đọc. Phần đọc mở rộng trong chương trình Ngữ văn 2018, ta có thể hiểu là hoạt động nhằm rèn luyện kĩ năng đọc hiểu các kiểu văn bản nói chung cho người học thông qua việc đọc các văn bản tương đương ngoài những tác phẩm trong sách giáo khoa. Qua hoạt động đọc này, học sinh được tự rèn luyện và nâng cao kĩ năng đọc của mình, đồng thời bồi dưỡng nhân cách và nuôi dưỡng niềm đam mê đọc sách. So với việc đọc hiểu trên lớp, đọc mở rộng có những ưu thế vượt trội đó là không hạn chế thời gian, không gian đọc, phong phú về mặt văn bản từ đó kích thích hứng thú, niềm say mê khám phá, nghiên cứu tự học của học sinh.
  10. Nhận thức được điều đó, khác với chương trình Ngữ văn 2006, chương trình Ngữ văn 2018 quy định cụ thể yêu cầu đọc mở rộng đối với kiểu các loại văn bản nói chung và văn bản văn học nói riêng. Nếu như trước đây, học sinh chỉ cần đọc những văn bản được quy định cứng trong chương trình, một vài văn bản đọc thêm, còn việc tìm đọc các văn bản tham khảo ngoài sách giáo khoa là tùy thuộc vào nhu cầu và sở thích của từng người thì chương trình Ngữ văn 2018 đã đặt ra yêu cầu bắt buộc cho người học mỗi năm phải đọc 35 văn bản văn học ngoài chương trình. Điều này một lần nữa đã cho thấy sự nhất quán trong việc thực hiện mục tiêu của chương trình là tập trung phát triển phẩm chất, năng lực cho người học. Từ việc đọc các văn bản trong chương trình, học sinh phải hình thành cho mình kĩ năng đọc và có khả năng đọc được các văn bản tương đương về thể loại, dung lượng và độ khó ngoài chương trình. 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 2.1. Thực trạng rèn luyện kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh Đọc mở rộng là một yêu cầu rất mới, nó không được quy định cứng trong chương trình 2006. Từ lâu nay, chương trình vẫn quy định những ngữ liệu cứng. Việc dạy, học và thi luôn phải bám theo những ngữ liệu đó với tinh thần “học gì, thi nấy”. Cụ thể, chúng tôi đã tiến hành thống kê các văn bản thuộc thể loại truyện ngắn trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 và 12 thu được số liệu như sau: Khối Văn bản học chính Văn bản đọc thêm Số Tên tác phẩm Số Tên tác phẩm lƣợng lƣợng Hai đứa trẻ - Thạch Lam Vi hành – Nguyễn Ái 2 2 Quốc 11 Chữ người tử tù – Nguyễn Tinh thần thể dục – Tuân Nguyễn Công Hoan Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài Bắt sấu rừng U Minh Hạ - Sơn Nam 12 4 Vợ nhặt – Kim Lân 2 Một người Hà Nội – Nguyễn Khải Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi Qua bảng thống kê, ta thấy được mặc dù là một thể loại quan trọng của văn bản văn học nhưng số lượng tác phẩm được học rất ít, chỉ có 6 văn bản chính thức ở cả hai khối lớp 11 và 12. Bên cạnh đó, thời gian được bố trí để học các văn bản này cũng là một điều khiến ta phải quan tâm. Theo đó, ngoài số tiết được quy định cứng cho các văn bản học chính là 3 – 4 tiết/ văn bản (tùy thuộc vào việc xây dựng
  11. phân phối chương trình của mỗi trường) thì chỉ có thêm khoảng 1 – 2 tiết dành cho cụm các văn bản đọc thêm, nên hiệu quả chưa cao. Bởi chương trình hiện hành chưa chú trọng đúng mức yêu cầu rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh, cộng thêm các văn bản này không nằm trong nội dung thi. Hơn nữa có thể thấy rằng những văn bản này hơi “cứng nhắc” lặp đi lặp lại qua các năm học gây sự nhàm chán, cộng thêm việc nội dung có phần không phù hợp với tâm lí, hứng thú học sinh và sự phát triển của nền văn học đương đại hiện nay nên cả giáo viên và học sinh đều không mấy quan tâm. Để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài và đánh giá chính xác hơn thực trạng của vấn đề, trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã làm khảo sát nhỏ: Mục đích khảo sát: Tìm hiểu thực trạng và mong muốn của học sinh đối với việc đọc mở rộng. Đối tượng khảo sát: HS khối 10 trường THPT Nghi Lộc 2 Nội dung khảo sát: Để thấy được sự quan tâm, hứng thú của học sinh đối với việc đọc mở rộng, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 216 học sinh khối 10 (Nội dung khảo sát PHỤ LỤC 1) Kết quả khảo sát về mức độ quan tâm, hứng thú của HS đối với việc đọc mở rộng Tổng Kết quả điều tra số học sinh Câu hỏi 1 Câu hỏi 2 Câu hỏi 3 điều Không Thường Rất Không Hứng Rất Không Cần Rất tra thường xuyên thường hứng thú hứng cần thiết cần xuyên xuyên thú thú thiết thiết 216 110 81 25 31 65 120 20 71 125 Tỉ lệ % 50,9 37,5 11,6 14,4 30,1 55,5 9,2 32,9 57,9 Câu hỏi 1 Câu hỏi 2 Câu hỏi 3 Không Không Không thường hưng cần thiết Xuyên thú Cần thiết Thường Hứng xuyên thú Rất cần thiết Rất Rất thường hứng xuyên thú Qua kết quả khảo sát, chúng tôi thấy việc rèn kĩ năng đọc mở rộng cho HS là một việc làm hết sức cần thiết nhưng hiện nay lại chưa được chú trọng đúng mức.
  12. Học sinh hiện nay nhiều em có niềm đam mê, yêu thích văn chương, có ý thức tự học, tự đọc song lại thiếu đi những kĩ năng cần thiết của hoạt động đọc, các em chưa được dạy cách đọc thực sự hiệu quả và bài bản do đó kết quả của hoạt động này chưa cao. Chính vì vậy việc rèn kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh là một vấn đề có tính cấp thiết. 2.2. Nhận thức của giáo viên trong việc rèn kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh Giáo viên là nhân tố đóng vai trò cực kì quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động dạy học ở trường phổ thông. Vì vậy nhận thức của giáo viên cũng là một vấn đề cần quan tâm. Để thấy rõ nhận thức của giáo viên trong việc rèn luyện kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh, chúng tôi đã tiến hành khảo sát giáo viên Ngữ văn THPT của trường THPT Nghi Lộc 2, trường THPT Nghi Lộc 5 và thu được kết quả như sau: Phiếu khảo sát: Xem PHỤ LỤC 2 Kết quả: Tổng Kết quả điều tra số giáo Câu hỏi 1 Câu hỏi 2 Câu hỏi 3 Câu hỏi 4 viên Đã Chưa Không Cần Rất Không Quan Rất Thời Ngữ Phương điều dạy dạy cần thiết cần quan tâm quan lượng liệu pháp dạy tra thiết thiết tâm tâm dạy đọc học học 14 5 9 3 6 5 7 5 2 5 3 6 Tỉ lệ 35,7 64,3 21,4 42,9 35,7 50 35,7 14,3 35,7 21,4 42,9 % Qua kết quả khảo sát, ta thấy thực tế vẫn có một số giáo viên nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh và có tổ chức rèn luyện kĩ năng này cho các em trong các giờ học. Tuy nhiên, số lượng này không nhiều và chỉ tập trung ở một số trường chuyên, lớp chọn. Còn lại, đại đa số nhà trường, tổ chuyên môn, giáo viên đều chỉ dạy học gói gọn trong các văn bản được quy định. Sở dĩ như vậy là do thời lượng dạy học quy định cho mỗi kì, mỗi lớp, mỗi đơn vị bài học chỉ đáp ứng được từng ấy nội dung quy định. Ngoài ra, cũng phải thừa nhận một thực tế là việc nâng cao năng lực đọc hiểu cho giáo viên chưa được chú trọng, chủ yếu họ đang tự mày mò, rút kinh nghiệm. Giáo viên chưa thực sự nhận thức được tầm quan trọng của việc đọc hiểu mở rộng nên trong quá trình dạy học nhiều khi còn có tâm lí buông lỏng, chưa thật sự sát sao trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng trong những năm gần đây, nội dung thi cũng đã có một số thay đổi tích cực. Cụ thể, trong cấu trúc đề thi Ngữ văn đã xuất hiện phần thi Đọc hiểu và yêu cầu đối với ngữ liệu là các văn bản ngoài sách giáo khoa. Bộ giáo dục ban hành ma trận, bảng đặc tả quy định nội dung các bài thi
  13. giữa kì, cuối kì cho cả ba khối 10,11,12 đều có phần đọc hiểu. Riêng khối 10, phần này chiếm 6/10 điểm của toàn bài. Và chương trình tuyển sinh đại học những năm gần đây, nhiều trường đã tổ chức kì thi đánh giá năng lực, Ngữ văn là môn học có số lượng điểm tương đối bên cạnh toán và tiếng Anh. Cụ thể đề thi đánh giá năng lực của Đại học Quốc gia Hà Nội môn văn có 50/150 câu, chiếm tỉ lệ 1/3 trong các môn Toán, Lịch sử, Địa lí, Hóa học, Sinh học. Bài thi đánh giá năng lực của trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh môn văn có 20/150 câu…. Có thể nói, đây là một luồng gió mới, một thay đổi tích cực góp phần thay đổi cách dạy và học của giáo viên, học sinh hiện nay ở trường phổ thông, từ đó góp phần nâng cao kĩ năng đọc mở rộng cho người học. Vậy nên, vấn đề rèn kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh hiện nay vẫn cần được chú trọng nhiều hơn. II. RÈN KĨ NĂNG ĐỌC MỞ RỘNG TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 (2018) 1. Nguyên tắc dạy đọc mở rộng 1.1. Bám sát mục tiêu chương trình Như trên đã nói, mục tiêu của chương trình Ngữ văn 2018 là dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Mỗi cấp học đặt ra những yêu cầu, mục tiêu khác nhau dựa trên tâm lí và trình độ tiếp nhận của người học. Mục tiêu của cấp học sau tiếp tục phát triển phẩm chất, năng lực của cấp học trước nhưng có thêm một số yêu cầu cao hơn cấp trước. Chẳng hạn, ở cấp Trung học phổ thông bên cạnh việc phát triển những phẩm chất đã được hình thành ở trung học cơ sở; mở rộng và nâng cao yêu cầu phát triển phẩm chất với các biểu hiện cụ thể: có bản lĩnh, cá tính, có lí tưởng và hoài bão, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam; có tinh thần hội nhập và có ý thức công dân toàn cầu. Tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: đọc hiểu được cả nội dung tường minh và hàm ẩn của các loại văn bản với mức độ khó hơn thể hiện qua dung lượng, nội dung và yêu cầu đọc; đọc hiểu với yêu cầu phát triển tư duy phản biện; vận dụng được các kiến thức về đặc điểm ngôn từ văn học, các xu hướng – trào lưu văn học, phong cách tác giả, tác phẩm, các yếu tố bên trong và bên ngoài văn bản để hình thành năng lực đọc độc lập. Phát triển năng lực văn học với yêu cầu: phân biệt được tác phẩm văn học và các tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật khác; phân tích và nhận xét được đặc điểm của ngôn ngữ văn học; phân biệt được cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong văn học; phân tích được tính hình tượng, nội dung và hình thức của tác phẩm văn học; có thể tạo lập được một số sản phẩm viết, nói có tính văn học. Bên cạnh mục tiêu chung về phẩm chất và năng lực của chương trình, mục tiêu cốt lõi của việc dạy đọc mở rộng là giúp học sinh trở thành những người đọc độc lập, có khả năng làm chủ, khai thác giá trị các văn bản phục vụ cho cuộc sống của mình. 1.2. Bám sát đặc trưng thể loại
  14. Theo tinh thần đổi mới, dạy học văn không chỉ đơn thuần cung cấp tri thức cho học sinh mà quan trọng hơn là giúp các em biết cách giải mã, khám phá tác phẩm. Để làm được điều đó, việc cung cấp kiến thức thể loại hay nói cách khác việc dạy học bám sát đặc trưng thể loại phải là một nguyên tắc trong dạy đọc hiểu văn bản. Đặc trưng thể loại chính là chìa khóa quan trọng giúp giải mã văn bản. Văn bản văn học được chia thành ba loại lớn: trữ tình (lấy cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng con người làm đối tượng thể hiện chủ yếu), tự sự (dùng lời kể, lời miêu tả để xây dựng cốt truyện, khắc họa tính cách nhân vật, dựng lên những bức tranh về đời sống), kịch (thông qua lời thoại và hành động của các nhân vật mà tái hiện những xung đột xã hội). Mỗi thể loại lại có cách đọc, cách tiếp cận khác nhau dựa trên đặc trưng của thể loại đó. Vì vậy trong quá trình dạy đọc hiểu văn bản, giáo viên cần phải cung cấp cho học sinh những tri thức công cụ về lí luận văn học. Chẳng hạn, tri thức về thể loại văn học như truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kịch, kí…; tri thức về các thành tố văn học như nhân vật, cốt truyện, hành động, tình huống, chi tiết, hình ảnh, giọng điệu, nhạc điệu, xung đột… Những tri thức này được sắp xếp thành một trục công cụ theo mức độ tăng dần của độ khó, độ phức tạp để nâng cao kĩ năng đọc hiểu cho các em. Đầu tiên, giáo viên sẽ cung cấp cho học sinh những tri thức cần thiết để đọc các văn bản trong sách giáo khoa từ đó các em tự vận dụng những tri thức này để khám phá các văn bản mở rộng ngoài chương trình. Hoạt động này được lặp lại lâu dần sẽ trở thành một quy trình tư duy của các em trong việc tiếp cận văn bản. Chẳng hạn đối với văn bản truyện ngắn, khi đọc hiểu bên cạnh việc tìm hiểu những tri thức nền về thể loại thì người học còn cần căn cứ vào các yêu cầu sau: - Tìm hiểu bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác để có cơ sở cảm nhận các tầng lớp nội dung, ý nghĩa của câu chuyện. - Phân tích diễn biến cốt truyện qua các phần mở đầu, vận động, kết thúc với các tình tiết, sự kiện, biến cố cụ thể. Làm rõ giá trị của các yếu tố trong việc phản ánh hiện thức cuộc sống và khắc họa bản chất, tính cách các nhân vật. Chú ý tới nghệ thuật tự sự: người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, cách sắp xếp các tình tiết, sự kiện; thủ pháp kể chuyện, giọng điệu lời văn… - Phân tích các nhân vật trong dòng lưu chuyển của cốt truyện. Chú ý tới nghệ thuật xây dựng nhân vật: - Giá trị, ý nghĩa tư tưởng của truyện. Sách giáo khoa ngữ văn 2018 đã tuân thủ nguyên tắc này trong việc thiết kế nội dung tiến trình dạy học của các đơn vị bài học. Cụ thể, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống có cách tổ chức bài học như sau: Tên bài học; Yêu cầu cần đạt; Tri thức ngữ văn; Đọc (khoảng 3 văn bản); Kết nối đọc - viết; Thực hành Tiếng Việt; Viết; Nói – nghe; Củng cố mở rộng; Thực hành đọc. Bộ sách Cánh Diều cấu trúc bài học như sau: Yêu cầu cần đạt; Kiến thức ngữ văn; Đọc hiểu văn bản; Thực hành rèn luyện Tiếng Việt; Viết – Thuyết trình; Tự đánh giá, hướng dẫn tự học. Dễ dàng nhận thấy cả hai bộ sách đều có phần Tri thức ngữ văn hay Kiến thức ngữ
  15. văn đây được xem là tri thức nền, định hướng cho việc đọc hiểu các văn bản theo đặc trưng thể loại. 1.3. Bám sát yêu cầu cần đạt về dạy đọc văn bản Như chúng ta đã biết, dưới mỗi tên bài học trong sách giáo khoa Ngữ văn 2018 đều có mục yêu cầu cần đạt. Yêu cầu cần đạt cho biết mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất của bài học, quy định rõ điều phải đạt được đối với các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. Yêu cầu cần đạt của từng bài học có vai trò rất quan trọng: - Định hướng kết quả mà người biên soạn sách cần bám vào để giúp học sinh đạt được yêu cầu cần đạt sau khi học xong mỗi bài học. - Là căn cứ đánh giá kết quả học tập của học sinh. - Là căn cứ để giáo viên thực hiện các phương pháp dạy học, tổ chức các hoạt động học sao cho giúp học sinh đạt được các yêu cầu. Mọi hoạt động hcọ phải được thiết kế dựa trên yêu cầu cần đạt của bài học. Yêu cầu đó là chuẩn tối thiểu mà học sinh mọi vùng miền cần đạt. Nếu học sinh yếu, thay vì dạy một tiết thì có thể dạy 2 tiết, thay vì một câu hỏi, có thể thiết kế nhiều câu hỏi để hướng dẫn học sinh từng bước đạt được yêu cầu chuẩn tối thiểu đã đặt ra. Chính vì những vai trò đó nên dạy học bám sát yêu cầu cần đạt là một nguyên tắc cần đảm bảo trong quá trình dạy đọc văn bản. Cụ thể, khi dạy đọc mở rộng các văn bản truyện ngắn trong chương trình ngữ văn 10 (2018) cần tuân thủ các yêu cầu cần đạt của việc đọc hiểu văn bản văn học nói chung như sau: * Đọc hiểu nội dung: - Biết nhận xét nội dung bao quát của văn bản; biết phân tích các chi tiết tiêu biểu, đề tài, câu chuyện, nhân vật và mối quan hệ của chúng trong tính chỉnh thể của tác phẩm. - Phân tích và đánh giá được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản; phân tích được một số căn cứ để xác định chủ đề. - Phân tích và đánh giá được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo mà người viết thể hiện qua văn bản. Phát hiện được các giá trị đạo đức, văn hóa từ văn bản. * Đọc hiểu hình thức: - Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của sử thi, truyện thần thoại như: không gian, thời gian,cốt truyện, nhân vật, lời người kể chuyện và lời nhân vật… - Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của truyện như: nhân vật, câu chuyện, người kể chuyện ngôi thứ ba (người kể hcuyện toàn tri) và người kể
  16. chuyện ngôi thứ nhất (người kể chuyện hạn tri) diểm nhìn, lời người kể chuyện, lời nhân vật… - Phân tích và đánh giá được giá trị thẩm mĩ của một số yếu tố trong thơ như từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, đối, chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình. - Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của văn bản chèo hoặc tuồng như: đề tài, tính vô danh, tích truyện, nhân vật, lời thoại, phương thức lưu truyền… * Liên hệ, so sánh, kết nối: - Vận dụng được những hiểu biết về tác giả Nguyễn Trãi để đọc hiểu một số tác phẩm của tác giả này. - Nhận biết và phân tích được bối cảnh lịch sử - văn hóa được thể hiện trong văn bản văn học. - Liên hệ để thấy được một số điểm gần gũi về nội dung giữa các tác phẩm văn học thuộc hai nền văn hóa khác nhau. - Nêu được ý nghĩa hay tác động của tác phẩm văn học đối với quan niệm, cách nhìn, cách nghĩ và tình cảm của người đọc; thể hiện được cảm xúc và sự đánh giá của cá nhân về tác phẩm. * Đọc mở rộng: - Trong một năm học, đọc tối thiểu 35 văn bản văn học (bao gồm cả văn bản được hướng dẫn đọc trên mạng internet) có thể loại và độ dài tương đương với các văn bản đã học. - Học thuộc lòng một số đoạn thơ, bài thơ yêu thích trong chương trình. Những yêu cầu cần đạt này chính là cơ sở, căn cứ để từ đó giáo viên thiết kế, tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh nhằm đạt được những mục tiêu đặt ra về phẩm chất và năng lực. 1.4. Bám sát những yêu cầu về kĩ năng đọc mở rộng trong chương trình Ngữ văn 10 (2018) Như trên đã nói, chương trình Ngữ văn 10 (2018) quy định cụ thể trong một năm học người học phải đọc ít nhất 35 văn bản văn học bao gồm tất cả các văn bản truyện, thơ, sử thi, chèo, tuồng… Đọc mở rộng chính là bước thứ hai, tiếp nối với hoạt động đọc hiểu các văn bản trước đó nhằm mục đích rèn kĩ năng đọc cho học sinh, từ đó giúp các em có thể chủ động khám phá, đọc bất cứ văn bản nào ngoài chương trình, trên sách báo, internet… cùng thể loại và độ dài, độ khó với văn bản đã được học. Quy trình đọc mở rộng văn bản diễn ra theo các bước như sau: - Bƣớc 1: Chia sẻ: Giáo viên nhắc lại cho học sinh những tri thức công cụ phục vụ cho hoạt động đọc đã được cung cấp trong phần Tri thức ngữ văn và cũng đã được vận dụng vào đọc hiểu các văn bản trong sách giáo khoa từ đó tiến hành giao nhiệm vụ đọc mở rộng cụ thể cho các em.
  17. - Bƣớc 2: Khám phá: Học sinh sẽ vận dụng những tri thức, kĩ năng đã được cung cấp để khám phá, giải mã những tác phẩm khác cùng thể loại, chủ đề. - Bƣớc 3: Vận dụng: Học sinh chia sẻ nội dung, ý nghĩa của bài đọc. - Bƣớc 4: Đánh giá việc sử dụng công cụ đó vào hoạt động đọc hiểu độc lập của học sinh.Giáo viên có thể đặt ra những câu hỏi mở rộng, so sánh, kết nối để đánh giá kĩ năng đọc của học sinh. - Bƣớc 5: Giáo viên có thể đề xuất một danh mục các văn bản cần đọc cho học sinh hoặc cho phép các em tự đề xuất theo sở thích, yêu cầu các em tự đọc các văn bản đó theo các hình thức và có cách thức phù hợp để kiểm tra hoạt động này. Qua quy trình trên, ta thấy được đọc mở rộng tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích cực chủ động, tự lực, sáng tạo và hợp tác trong các hoạt động học và sử dụng ngôn ngữ, tăng cơ hội hiểu về bản thân, biết bảo vệ quan điểm cá nhân. Đây chính là đích đến của việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh hướng đến mục tiêu tự học, học tập suốt đời. 1.5. Lựa chọn văn bản phù hợp Một trong những quan điểm xây dựng chương trình môn Ngữ văn 2018 là xây dựng theo hướng mở. Đây là điểm đổi mới thực sự so với chương trình Ngữ văn hiện hành. Tính chất mở của chương trình được thể hiện ở những điểm sau: Một là không quy định chi tiết về nội dung dạy học, nhất là những văn bản, tác phẩm cụ thể mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói, nghe cho mỗi lớp; Hai là những văn bản – tác phẩm được chương trình nêu lên chỉ là những gợi ý về ngữ liệu. Ba là cho phép tác giả sách giáo khoa chủ động sáng tạo trong việc triển khai nội dung dạy học theo yêu cầu cần đạt. Bốn là cho phép giáo viên được lựa chọn sách giáo khoa, sử dụng một hay kết hợp nhiều sách, nhiều nguồn tư liệu khác nhau để dạy học trên cơ sở bám sát mục tiêu và yêu cầu cần đạt của chương trình. Năm là việc đánh giá kết quả học tập của học sinh cuối năm, cuối cấp không dựa vào các ngữ liệu đã học trong một cuốn sách giáo khoa cụ thể mà dựa trên yêu cầu cần đạt của chương trình. Chính những điểm mới này đã tạo ra cơ hội cho giáo viên thoải mái trong việc lựa chọn các văn bản đọc mở rộng cho học sinh. Tuy nhiên, việc lựa chọn văn bản đọc cũng cần lưu ý một số điểm sau: Thứ nhất, văn bản được chọn phải phục vụ trực tiếp cho việc phát triển các phẩm chất và năng lực theo mục tiêu, yêu cầu cần đạt của bài học. Thứ hai, văn bản có giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu cho thể loại và kiểu văn bản, có tính chuẩn mực và sáng tạo về ngôn ngữ. Thứ ba, văn bản được lựa chọn phải phản ánh được thành tựu về tư tưởng, văn học, văn hóa dân tộc; có tính nhân văn, giáo dục lòng nhân ái, khoan dung, tình yêu chân thiện mĩ, tình yêu thiên nhiên, tinh thần hội nhập quốc tế, hướng đến những giá trị phổ quát của nhân loại.
  18. Thứ tư, cần đảm bảo tính kết nối giữa văn bản đọc mở rộng với văn bản được đưa vào sách giáo khoa. Mặc dù chương trình trao cho giáo viên quyền được lựa chọn văn bản đọc mở rộng nhưng khi lựa chọn văn bản, giáo viên cần lưu ý văn bản được chọn cần có sự phù hợp, không quá xa lạ với các văn bản trong sách giáo khoa khiến học sinh khó tiếp nhận. Chẳng hạn chúng ta có thể lựa chọn các văn bản cùng thể loại, cùng chủ đề, cùng thời kì để học sinh không bỡ ngỡ, không gặp khó khăn khi tiếp nhận. Hoặc có thể lấy văn bản khác thời kì nhưng phải đảm bảo các văn bản đó thể hiện được sự vận động, kết nối nội dung, cảm hứng, phong cách qua các giai đoạn. Thứ năm, việc lựa chọn văn bản đọc mở rộng cần phù hợp với điều kiện từng vùng miền như cơ sở vật chất, trang thiêt bị học liệu của nhà trường và học sinh. Chẳng hạn, với những trường ở đồng bằng, thành phố cơ sở vật chất hiện đại, học sinh có đầy đủ phương tiện, máy móc thì giáo viên có thể thoải mái lựa chọn các văn bản trên internet, chỉ cần cung cấp địa chỉ, đường link, học sinh sẽ tự truy cập và đọc. Nhưng với những trường ở nông thôn, miền núi điều kiện khó khăn, học sinh không có phương tiện học tập thì việc lựa chọn văn bản đọc mở rộng giáo viên không thể thực hiện theo cách này mà phải dựa trên điều kiện thực tế. Đó là giáo viên phải chọn những văn bản vừa đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình những vừa có mặt trong các tủ sách, thư viện của trường, lớp để đảm bảo các em có thể tiếp cận được với văn bản. Như vậy, mặc dù chương trình đã cho giáo viên “tự do” trong việc lựa chọn văn bản đọc mở rộng nhưng bên cạnh đó thì cũng cần phải lưu ý một số điều trên để việc dạy học có thể đạt hiệu quả cao nhất. 1.6. Đảm bảo sự phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh ở từng cấp học Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học, giáo viên phải biết lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá phù hợp với trình độ tiếp nhận của học sinh hay nói cách khác là đảm bảo tính vừa sức. Mỗi lứa tuổi sẽ có sự khác nhau về sự trưởng thành của các cơ quan trong cơ thể cũng như trình độ nhận thức, tích lũy kinh nghiệm. Đảm bảo tính vừa sức cũng có nghĩa là nội dung dạy học ở các lứa tuổi, cấp học phải khác nhau, mức độ khó của vấn đề ở cấp học sau phải được nâng cao hơn so với cấp học trước để phát triển tư duy, nhận thức của các em. Bám sát nguyên tắc này, chương trình Ngữ văn 2018 đã quy định mạch kiến thức văn học cho các cấp học như sau: - Cấp tiểu học: một số hiểu biết sơ giản về truyện và thơ, văn bản hư cấu và văn bản phi hư cấu; nhân vật trong văn bản văn học, cốt truyện, thời gian, không gian, từ ngữ, vần thơ, nhịp thơ, hình ảnh, lời nhân vật, đối thoại. - Cấp trung học sơ sở: những hiểu biết về các thể loại (truyện dân gian, truyện ngắn, thơ trữ tình và thơ tự sự; kí trữ tình, kí tự sự; tiểu thuyết, truyện thơ Nôm; thơ cách luật, thơ tự do; bi kịch, hài kịch); chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình; một số yếu tố hình thức và biện pháp nghệ thuật thuộc mỗi thể loại văn học.
  19. - Cấp trung học phổ thông: những hiểu biết về một số thể loại, tiểu loại ít thông dụng, đòi hỏi kĩ năng đọc cao hơn (thần thoại, sử thi, chèo, tuồng, truyện và thơ hiện đại; tiểu thuyết hiện đại và hậu hiện đại); một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết văn bản văn học; một số chuyên đề học tập tập trung vào kiến thức về các giai đoạn, trào lưu và phong cách sáng tác văn học. Trên cơ sở nội dung quy định của từng cấp học đó của chương trình, khi chọn ngữ liệu đọc mở rộng giáo viên cần lưu ý: phải phù hợp với kinh nghiệm, năng lực nhận thức, đặc điểm tâm – sinh lí của học sinh ở từng lớp học, cấp học. Một mặt nó phải phù hợp với thể loại được học, mặt khác nội dung cũng phải có tính vừa sức, tính giáo dục và kích thích được hứng thú học tập của các em. Các hình thức dạy học trên lớp, hoạt động nhóm, tự học ở nhà, tìm kiếm xử lí tư liệu`cũng cần được tổ chức phù hợp với trình độ, năng lực của các em tránh đặt ra những yêu cầu quá sức. 2. Biện pháp dạy đọc mở rộng 2.1. Đa dạng hóa các hình thức, cách thức, phương pháp, kĩ thuật đọc mở rộng Đọc mở rộng là một nội dung được quy định cứng trong chương trình nhưng thực tế thực hiện lại cho phép linh hoạt. Giáo viên có thể tiến hành hoạt động dạy học nội dung này bằng nhiều hình thức, cách thức, phương pháp khác nhau. Với kinh nghiệm bản thân, chúng tôi lựa chọn các mô hình sau: 2.1.1. Mô hình dạy học đảo ngược Lớp học đảo ngược (Flipped Clasroom) là một phương pháp đào tạo mới ra đời ở Mĩ cách đây từ 10 – 15 năm và đã được áp dụng trong các cấp học từ tiểu học đến đại học. Đây là mô hình dạy học đảo ngược hoàn toàn so với lớp học truyền thống. Giáo viên cung cấp nội dung bài học Elearning trước cho học sinh trên các phần mềm dạy học như Zalo, padlet... Người học sẽ học tập ở hai không gian trong và ngoài phạm vi lớp học làm tăng thời lượng và hiệu quả học tập. Ở mô hình lớp học truyền thống, học sinh sẽ học bài trên lớp và làm bài tập ở nhà thì ở mô hình lớp học đảo ngược lại khác hoàn toàn. Nội dung bài học sẽ được chuyển thành video bài giảng và gửi trước cho học sinh học ở nhà. Học sinh nghiên cứu, tìm hiểu bài học qua internet, tài liệu tham khảo và ghi lại những vấn đề còn băn khoăn, thắc mắc. Toàn bộ thời gian trên lớp sẽ dành cho sự định hướng, tổ chức của giáo viên cho học sinh báo cáo kết quả làm việc và trao đổi thảo luận những vấn đề còn băn khoăn. Giáo viên giải đáp và chốt kiến thức nội dung bài học. Để thực hiện mô hình dạy học này trong việc rèn kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh, giáo viên có thể sử dụng hệ thống các phiếu học tập (Xem PHỤ LỤC 3) để học sinh tự tiến hành cuộc giao tiếp với văn bản ở nhà, phát huy sự tích cực, chủ động và những cảm nhận, đánh giá của bản thân. Mô hình dạy học này có nhiều ưu điểm như phát huy được vai trò chủ động, tích cực trong học tập của học sinh. Nội dung dạy học dễ dàng tiếp nhận, phụ huynh cũng có thể truy cập và hướng dẫn thêm cho con em mình. Mở rộng môi
  20. trường học tập cả về không gian và thời gian… Xuất phát từ những ưu điểm trên, hiện nay đây vẫn là một phương pháp học tập được nhiều giáo viên lựa chọn. 2.1.2. Mô hình dạy học dự án Phương pháp dạy học dự án là hình thức dạy học trong đó người học thực hiện nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành nhằm tạo ra sản phẩm và giới thiệu chúng. Trong quá trình dạy đọc các văn bản truyện trong bài 7 “Quyền năng của người kể chuyện”, chúng tôi đã cho học sinh thực hiện dự án: Cuộc sống ý nghĩa. Học sinh vận dụng kiến thức từ các bài đọc hiểu văn bản truyện ngắn; làm văn nghị luận xã hội để thể hiện quan điểm của mình về một vấn đề có ý nghĩa xã hội đặt ra trong tác phẩm. Lĩnh vực bài dự án - Phần đọc hiểu văn bản: Đọc truyện “Làm bạn với bầu trời” – Nguyễn Nhật Ánh - Phần viết: Viết bài nghị luận về một thông điệp rút ra từ tác phẩm. - Phần nói và nghe tập trung vào việc giới thiệu truyện Làm bạn với bầu trời, thuyết trình một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ với các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Mục tiêu dự án - Phẩm chất: Hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất nhân ái, bao dung, lạc quan, ý chí và nghị lực sống… - Năng lực đặc thù: + Đọc hiểu văn bản văn học (thể loại truyện ngắn) + Viết được một văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội + Thuyết trình đa phương tiện về một tác phẩm, một vấn đề xã hội. - Năng lực chung: Năng lực tự chủ, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo. Sản phẩm dự án - GV cho HS các nhóm thực hiện các sản phẩm: + Nhóm 1: 01 bài thuyết trình đa phương tiện về tác phẩm. + Nhóm 2: 01 bài nghị luận xã hội về một thông điệp rút ra từ tác phẩm + Nhóm 3: Hoàn thành hồ sơ đọc, nhật kí đọc sách. + Nhóm 4: Vẽ Poster về một nhân vật do nhóm tự chọn. Thời gian thực hiện: 1 tuần. Kế hoạch đánh giá
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0