intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh trường THPT Quỳ Hợp 3 qua tiết Nói và nghe (Chương trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

16
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp giúp học sinh: có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, có sức thuyết phục; nói và nghe linh hoạt; nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh trường THPT Quỳ Hợp 3 qua tiết Nói và nghe (Chương trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƢỜNG THPT QUỲ HỢP 3 =====  ===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh trƣờng THPT Quỳ Hợp 3 qua tiết Nói và nghe (Chƣơng trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) LĨNH VỰC : NGỮ VĂN Tác giả: 1. NGUYỄN THỊ THU 2. LÊ THỊ OANH Tổ bộ môn: Ngữ văn Năm thực hiện: 2022-2023 Số điện thoại : 0972.667.624 1
  2. DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Cụm từ đầy đủ Chữ cái viết tắt Trung học phổ thông THPT Giáo viên GV Học sinh HS Sách giáo khoa SGK Người dẫn chương trình MC Sáng kiến kinh nghiệm SKKN 2
  3. PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Như chúng ta đã biết, mục tiêu tổng quát giáo dục đã được xác định phù hợp với xu thế phát triển của thời đại bao gồm cả thái độ, năng lực, kỹ năng, kiến thức, cách học, cách làm, cách sống, nhằm đào tạo con người tự chủ, năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết thực tiễn. Nói cách khác, mục tiêu giáo dục nhằm đào tạo con người toàn diện. Vì thế, quá trình dạy học có hứng thú, tích cực hay không, có phát huy trí thông minh cho học sinh được hay không tất cả phụ thuộc vào khả năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt của học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã xác định mục tiêu dạy học của môn Ngữ văn: "Góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe". Như vậy, năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp là hai trong số những năng lực cơ bản cần phải hình thành cho học sinh trong quá trình dạy học môn Ngữ văn. Tiết Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10 có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh . Bởi tiết học đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng vốn ngôn ngữ của mình để trình bày, trao đổi, chia sẻ với nhau về một vấn đề nhất dịnh. Hiểu vấn đề cần trình bày là điều quan trọng, nhưng trình bày vấn đề như thế nào, thái độ ra sao cũng là điều cần lưu tâm. Để hình thành năng lực cho học sinh đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp dạy học phù hợp, tuân thủ định hướng đổi mới phương pháp dạy học của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018: phát huy tính tích cực của người học; dạy học tích hợp và phân hóa; đa dạng hóa hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học. Việc tổ chức hoạt động nói nghe cần phải linh hoạt để khuyến khích học sinh chủ động, tự tin hơn khi trình bày, trao đổi thông tin. Chính vì thế cần phải tăng cường các hoạt động tương tác khi nói, nghe và tạo cơ hội cho học sinh được trình bày, trao đổi trong nhóm và trước lớp. Việc đổi mới phương pháp dạy học là điều hết sức cần thiết khi tiến hành thực hiện tiết Nói và nghe. Thế nhưng, khi thực hiện tiết học này, giáo viên thường áp dụng phương pháp thuyết trình sau đó nhận xét, bổ sung. Với cách thức tiến hành đó, học sinh cảm thấy nhàm chán, không hứng thú và chưa có cơ hội để phát huy được năng lực của bản thân. Học sinh trường THPT Quỳ Hợp 3 có những đặc thù riêng: 90% là con em dân tộc thiểu số, có nhiều hạn chế về điều kiện sống cũng như nhận thức. Hằng ngày, các em có thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ (Thái, Thanh, Thổ) khi giao tiếp 3
  4. nhiều hơn cả tiếng Việt. Điều đó khiến cho khả năng giao tiếp và việc sử dụng tiếng Việt của học sinh còn có nhiều hạn chế: - Một số học sinh nói và viết tiếng Việt chưa thành thạo - Vốn từ vựng tiếng Việt còn ít ỏi - Thiếu tự tin khi giao tiếp - Chất lượng giáo dục môn Ngữ văn chưa cao Trong quá trình dạy học chương trình mới, chúng tôi luôn trăn trở, tìm tòi, học hỏi để thực hiện được mục tiêu cần đạt của mỗi bài dạy nhưng đồng thời phải phù hợp với đối tượng học sinh miền núi. Xuất phát từ những cơ sở trên chúng tôi lựa chọn giải pháp “Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh trƣờng THPT Quỳ Hợp 3 qua tiết Nói và nghe” (Chƣơng trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) để nghiên cứu và thực hiện. II. ĐỐI TƢỢNG TÁC ĐỘNG - Là HS khối 10 trường THPT Quỳ Hợp 3 III. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HIỆN - Học kì I năm học 2022-2023 đến nay chúng tôi bắt đầu nghiên cứu và áp dụng giải pháp. IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu lí thuyết - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp chuyên gia - Phương pháp thực nghiệm sư phạm - Phương pháp thống kê toán học - Phương pháp phân tích kết quả khảo sát V. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA GIẢI PHÁP - Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp giúp học sinh: có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, có sức thuyết phục; nói và nghe linh hoạt; nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận. - Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp: bồi đắp cho các em tình yêu tiếng Việt, khả năng chiếm lĩnh các tác phầm văn học; tự tin trong giao tiếp, biết cách ứng xử có văn hóa trong nói - nghe.... 4
  5. - Giải pháp còn giúp giáo viên vận dụng vào việc dạy học theo hướng phát huy năng lực và phẩm chất đúng như yêu cầu của chương trình mới - Giải pháp còn giúp giáo viên đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong việc dạy học tiết Nói và nghe, hình góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. 5
  6. PHẦN 2: NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Năng lực 1.1. Khái niệm năng lực Trong việc đổi mới căn bản, toàn diện chương trình giáo dục ở Việt Nam hiện nay, năng lực là một khái niệm then chốt. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đề cao việc phát triển phẩm chất và năng lực người học. Điều này đồng nghĩa với việc năng lực có vai trò vô cùng quan trọng đối với học sinh. Vậy năng lực là gì? Theo OECD(2005) định nghĩa: “Năng lực không chỉ là kiến thức và kỹ năng. Năng lực còn bao gồm khả năng đáp ứng các yêu cầu phức tạp bằng cách lựa chọn và kết hợp các nguồn lực tâm lý xã hội như kỹ năng và thái độ trong hoàn cảnh cụ thể”. Như khả năng giao tiếp hiệu quả là một dạng năng lực dựa vào kiến thức của mỗi cá nhân về ngôn ngữ, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và thái độ đối với những gì mà người đó đang giao tiếp.. Năng lực là “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” như năng lực tư duy, năng lực tài chính hoặc là “phẩm chất tâm sinh lý và trình độ chuyên môn tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” như năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo. 1.2. Năng lực ngôn ngữ Năng lực ngôn ngữ là khả năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp…) để đọc, viết, nói và nghe. Khả năng này được hình thành và phát triển vừa thông qua thực tiễn giao tiếp của học sinh với tư cách người bản ngữ vừa thông qua việc vận dụng các kiến thức cơ bản về tiếng Việt để giao tiếp hiệu quả trong các tình huống cụ thể. Năng lực ngôn ngữ chủ yếu thể hiện ở việc sử dụng tiếng Việt, sử dụng ngôn ngữ tự nhiên qua giao tiếp hàng ngày, thể hiện qua các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe các văn bản thông thường. Năng lực này được hình thành qua từng lớp và các khối lớp. Ban đầu học sinh học sử dụng ngôn ngữ một cách quán tính, sau đó tiến đến sử dụng một cách có ý thức. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) không chủ trương dạy sâu vào các nội dung mang tính hàn lâm nhằm nghiên cứu ngôn ngữ, mà chỉ cung cấp một số kiến thức ngôn ngữ nền tảng để người học có thể sử dụng trong việc thực hành đọc, hiểu, viết, nói và nghe các kiểu loại văn bản. Chương trình đưa ra yêu cầu cụ thể về năng lực ngôn ngữ cần hình thành cho học sinh trong dạy học Ngữ văn như sau: 6
  7. - Biết vận dụng kiến thức tiếng Việt và kiến thức về bối cảnh lịch sử, xã hội, tư tưởng, triết học và quan niệm thẩm mĩ của các thời kì để hiểu các văn bản khó hơn. - Biết phân tích, đánh giá nội dung và đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của văn bản, nhất là những tìm tòi sáng tạo về ngôn ngữ, cách viết và kiểu văn bản. Học sinh có cách nhìn, cách nghĩ về con người và cuộc sống theo cảm quan riêng; thấy được vai trò và tác dụng của việc đọc đối với bản thân. - Từ lớp 10 đến lớp 12: viết thành thạo kiểu văn bản nghị luận và thuyết minh về các đề tài gắn với đời sống và định hướng nghề nghiệp; viết đúng quy trình, có kết hợp các phương thức biểu đạt, kiểu lập luận và yếu tố nghệ thuật; có chủ kiến về một vấn đề xã hội. - Viết được văn bản nghị luận và văn bản thông tin có đề tài tương đối phức tạp; văn bản nghị luận yêu cầu phân tích, đánh giá, so sánh giá trị của tác phẩm văn học; bàn về những vấn đề phù hợp với đối tượng gần tuổi thành niên, đòi hỏi cấu trúc và kiểu lập luận tương đối phức tạp, bằng chứng cần phải tìm kiếm từ nhiều nguồn; văn bản thuyết minh viết về những vấn đề có tính khoa học dưới hình thức một báo cáo nghiên cứu đúng quy ước, tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ và tránh đạo văn. - Bài viết thể hiện được cảm xúc, thái độ, những trải nghiệm và ý tưởng của cá nhân đối với những vấn đề đặt ra trong văn bản; thể hiện được một cách nhìn, cách nghĩ, cách sống mang đậm cá tính. - Biết tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hóa tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, có sức thuyết phục. Trong Nói và nghe : học sinh biết tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, có sức thuyết phục; nói và nghe linh hoạt; nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận. 1.3. Năng lực giao tiếp Một trong những năng lực quan trọng cần hình thành cho học sinh trong quá trình dạy Ngữ văn là năng lực giao tiếp, đảm bảo khả năng xã hội hóa, thích ứng và tự thực hiện thành công trong điều kiện hiện đại của cuộc sống. Năng lực giao tiếp có nghĩa là sự sẵn sàng để thiết lập và đạt được các mục tiêu của giao tiếp bằng lời nói và bằng văn bản: để có được thông tin cần thiết, trình bày và bảo vệ một cách dân sự quan điểm của mình trong đối thoại và khi nói trước công chúng dựa trên sự 7
  8. công nhận về sự đa dạng của các vị trí và sự tôn trọng đối với giá trị (tôn giáo, dân tộc, nghề nghiệp, cá nhân, v.v.) người khác. Năng lực giao tiếp bao gồm kiến thức về các ngôn ngữ cần thiết, cách tương tác với những người và sự kiện xung quanh, kỹ năng làm việc nhóm và sở hữu các vai trò xã hội khác nhau trong nhóm. Một đặc điểm của giao tiếp con người là khi thông tin không chỉ được truyền đi mà còn được “hình thành, tinh chế, phát triển”. Chúng ta đang nói về sự tương tác của hai cá nhân, mỗi cá nhân là một chủ thể hoạt động. Theo sơ đồ, giao tiếp có thể được mô tả như một quá trình liên mục tiêu (S-S), hoặc "quan hệ chủ thể - chủ thể". Việc chuyển giao bất kỳ thông tin nào chỉ có thể thực hiện được thông qua các dấu hiệu, chính xác hơn là các hệ thống dấu hiệu. Giao tiếp hiệu quả được đặc trưng bởi: - Đạt được sự hiểu biết lẫn nhau về các đối tác; - Hiểu rõ hơn về tình huống và chủ đề giao tiếp. Năng lực giao tiếp bằng khả năng giao tiếp kết hợp kiến thức giao tiếp và kỹ năng giao tiếp, đủ cho các nhiệm vụ giao tiếp và đủ cho giải pháp. Vì vậy, việc áp dụng thành công phương pháp giảng dạy dựa trên năng lực có nghĩa là học sinh biết ngôn ngữ, thể hiện các kỹ năng giao tiếp và có thể hành động thành công bên ngoài trường học, tức là trong thế giới thực. Vì các thành phần của bất kỳ năng lực nào là: sở hữu kiến thức, nội dung của năng lực, sự biểu hiện của năng lực trong các tình huống khác nhau, thái độ đối với nội dung của năng lực và đối tượng áp dụng của nó, thì năng lực giao tiếp có thể được xem xét dưới góc độ ba thành phần: chủ thể - thông tin, hoạt động - giao tiếp, định hướng nhân cách, trong đó tất cả các thành phần cấu thành một hệ thống tích hợp các thuộc tính cá nhân của học sinh. Vì vậy, năng lực giao tiếp cần được coi là khả năng sẵn sàng giải quyết vấn đề của học sinh một cách độc lập dựa trên kiến thức, kỹ năng và đặc điểm nhân cách. 2. Tiết Nói và nghe * Thời lƣợng: Nói và nghe là 2 trong 4 kỹ năng giao tiếp cần rèn luyện cho học sinh (đọc, viết, nói, nghe). Với chương trình Ngữ văn 2018, số tiết dành cho kỹ năng nói và nghe rất ít, chỉ 10% tổng số thời lượng (9 tiết/năm). Có thể coi đó là nội dung rèn luyện nói và nghe tự do với kỹ năng giao tiếp thông thường. Số tiết 10% mà chương trình quy định được hiểu là dạy nói - nghe có nội dung theo đề tài, chủ đề bắt buộc. Hệ thống các tiết Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10 (Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống): 8
  9. Bài Tiết Nói và nghe Bài 1: Sức hấp dẫn của truyện kể Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện Bài 2: Vẻ đẹp của thơ ca. Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý trong văn nghị luận kiến khác nhau Bài 4. Sức sống của sử thi. Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu một vấn đề Bài 5. Tích trò sân khấu dân gian Lắng nghe và phản hồi về một bài thuyết trình kết quả nghiên cứu Bài 6. Nguyễn Trãi - "Dành còn Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý để trợ dân này" kiến khác nhau Bài 7. Quyền năng của người kể Thảo luận về một vấn đề văn học có ý chuyện kiến khác nhau Bài 8. Thế giới đa dạng của Thảo luận về một văn bản nội quy thông tin hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng Bài 9. Hành trang cuộc sống Thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ. * Yêu cầu cần đạt: Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 đã đưa ra những yêu cầu cần đạt về các kĩ năng nói và nghe ở cấp THPT như sau: - Kĩ năng nói: gồm các yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi nói,... - Kĩ năng nghe: gồm các yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,… - Kĩ năng nói và nghe có tính tương tác: gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy định trong thảo luận, phỏng vấn,… Cụ thể yêu cầu cần đạt với chương trình Ngữ văn lớp 10 là Kĩ năng Nói – Biết thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ 9
  10. với các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. – Trình bày được báo cáo về một kết quả nghiên cứu hay hoạt động trải nghiệm. – Biết giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học (theo lựa chọn cá nhân). Kĩ năng Nghe – Nghe và nắm bắt được nội dung truyết trình, quan điểm của người nói. Biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình. Nói nghe tương tác – Biết thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau; đưa ra được những căn cứ thuyết phục để bảo vệ hay bác bỏ một ý kiến nào đó; tôn trọng người đối thoại. * Vai trò của tiết Nói và nghe: Tiết Nói và nghe không chỉ rèn luyện kỹ năng nói, nghe, phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp mà còn cơ hội để rèn giũa phẩm chất, thái độ, tình cảm, lối sống có văn hóa cho học sinh. Ông cha ta đã dặn: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”... Vì thế, khi dạy nói - nghe, giáo viên không chỉ chú ý nội dung, mà quan trọng hơn là cần tập trung vào kỹ năng và thái độ khi nghe, nói. Karen Casey từng viết: “Không giao tiếp bằng mắt với người bạn nói chuyện hay đang được giới thiệu, không đáp lại khi ai đó cần bạn trả lời một câu hỏi, không đếm xỉa đến người đang nói trong cuộc thảo luận - tất cả những hành vi này đều gây tổn thương… Một trong những hình thức gây tổn thương phổ biến và rõ ràng nhất là không lắng nghe khi người khác đang cố nói điều gì đó với bạn. Một số người nói rằng, bị lờ đi như thế khiến họ cảm thấy đau đớn không kém gì bị xâm phạm thân thể”. Do đó, chúng ta cố gắng đừng làm tổn thương người khác trong giao tiếp. Nói và nghe là một trong những điểm khác biệt của SGK Ngữ văn 10 theo chương trình mới. Cùng với Đọc, Viết phần này hiện thực hóa định hướng dạy học ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp của giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018. Để thực hiện thành công tiết Nói và nghe vấn đề không chỉ nằm ở việc học sinh hiểu rõ nội dung mà quan trọng hơn là có vốn ngôn ngữ và năng lực giao tiếp để thể hiện nó trước đám đông. Chính vì vậy, GV cần chú trọng đầu tư phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho người học để tiết dạy Nói và nghe sao cho có hiệu quả nhất. 3. Thực trạng dạy học tiết Nói và nghe cho học sinh lớp 10 trên địa bàn huyện Quỳ Hợp 3.1. Thuận lợi: Ngay từ khi chương trình Giáo dục phổ thông 2018 được thông qua và tiếp cận, Ban giám hiệu các nhà trường luôn quan tâm, xây dựng kế hoạch cụ thể đến từng giáo viên để ai cũng được tiếp cận, bồi dưỡng, thực hành phát triển tay nghề qua các đợt thi đua hội giảng, chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn… trong năm học. Đặc biệt tổ chuyên môn luôn chú trọng đổi mới phương pháp, dự giờ rút kinh 10
  11. nghiệm, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để xây dựng đội ngũ vững mạnh. Tổ chức nhiều chuyên đề thảo luận cùng trao đổi trong tổ hàng tuần để mỗi giáo viên tự trang bị cho mình nhiều kinh nghiệm quí báu không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả giờ dạy, nâng cao hơn nữa năng lực chuyên môn của từng giáo viên. Nhà trường hoàn thiện từng bước cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy và học theo nội dung, chương trình đổi mới khá tốt. Bản thân giáo viên trong trường luôn có sự nỗ lực học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tìm tòi, nghiên cứu tài liệu tự rút kinh nghiệm sau mỗi giờ lên lớp. Tham gia tập huấn đầy đủ các moddul và đạt kết quả cao. 3.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế. * Với học sinh: Luyện nói và nghe trong nhà trường là để nói và nghe theo chủ đề, những vấn đề không quen thuộc như trong giao tiếp hàng ngày lại yêu cầu có mạch lạc, liên kết, không được nói tùy tiện, lắng nghe phải có phản hồi tích cực. Đứng trước môi trường này nhiều học sinh thường ngày biết ăn nói sinh động bỗng trở nên lúng túng, ngượng nghịu. Bên cạnh đó, có một thực tế là càng lên lớp lớn, các em càng ngại nói, ngại phát biểu trước tập thể. Biết cũng không nói. Có nhiều em lên bục giảng đứng nói mà không dám nhìn xuống lớp, tay chân như thừa thãi, vụng về… Có em ấp úng một chút rồi không thể nói tiếp được nữa. Cá biệt còn có những trường hợp không nói được một ý nào; không biết dùng từ, sắp xếp từ để biểu đạt ý nghĩ. Có nhiều tiết nói, thay vì nói, các em lại cầm giấy để đọc bài thuyết trình mình đã chuẩn bị. Một phần, ngoài giờ học các em quen nói tự do, còn trong giờ tập nói, các em phải trả lời, phải suy nghĩ, phải giữ gìn lời nói của mình dưới sự giám sát của giáo viên. Phần khác, còn rất nhiều em phát âm chưa tốt, nói sai nhiều, khi trả lời học sinh có thói quen lặp lại từ ngữ nhiều, diễn đạt vụng về, thiếu mạch lạc, tác phong chưa mạnh dạn, không dựa và đề cương để nói mà thường là đọc,vì thế mà thiếu tự nhiên không đúng ngữ điệu nói, không kết hợp được các yếu tố phi ngôn ngữ dẫn đến việc nói không thuyết phục, không có hiệu quả cao. Mặt khác, sau khi nghe các bạn trình bày, các em còn thiếu kĩ năng nghe, kĩ năng tương tác nên chỉ có một số em có phản hồi, nhận xét, bổ sung bài nói của bạn. Số đông còn lại không có ý kiến gì. Với đặc thù là học sinh dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, các em lại có thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp hằng ngày nên khi sử dụng tiếng Việt để trình bày một vấn đề trước đám đông, dù đã được chuẩn bị trước, thì khả năng sử dụng ngôn ngữ và năng lực giao tiếp của các em vẫn còn rất nhiều hạn chế. Môi trường sống ở vùng sâu vùng xa còn hạn hẹp về giao lưu, tiếp xúc; về trình độ dân trí nên ảnh hưởng tới khả năng nói và nghe của các em. 11
  12. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 170 HS lớp 10 của trường THPT Qùy Hợp 3 để thấy rõ hơn về thực trạng nói và nghe của các em. Từ kết quả khảo sát chúng tôi thấy một thực trạng là đã có 38% HS đã từng thực một bài nói trọng vẹn trước mọi người. Nhưng trong đó chỉ có 9% là cảm thấy nói tốt, có đến 91% HS trong số đó nói còn lúng túng, mất tự tin. Có 17% HS sẵn sàng thực hiện bài nói trước đám đông, 83% còn ngại, không dám nói. Điều quan trọng nữa là sau khi lắng nghe người khác trình bày một vấn đề chỉ có 18% HS tham gia góp ý kiến, 60% không có ý kiến gì, 22% không có hứng thú, không quan tâm đến người trình bày. Với tiết Nói và Nghe chỉ có 21 % HS có hứng thú, 79% HS không thích. Điều này đã cho thấy tâm lí sợ nói và không dám nói trước đám đông của các em. “Khéo nói gói thiên hạ” vậy mà các em lại rất sợ nói, không dám bộc lộ bởi một nguyên nhân cơ bản là các em chưa được học, chưa được hướng dẫn, luyện tập một cách bài bản. *Với giáo viên: Qua khảo sát từ học sinh và dự giờ tiết Nói và nghe của các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường, tôi nhận thấy tiết Nói và nghe thực sự chưa được nhiều giáo viên quan tâm. Có tiết dạy, giáo viên cho học sinh cả lớp ngồi viết bài hết quá nửa tiết sau đó cho một vài học sinh đứng tại chỗ cầm giấy đọc bài. Giáo viên không hướng dẫn các em chuẩn bị trước nội dung nói và tập luyện nói ở nhà nên chất lượng tiết Nói và nghe chưa cao.Có giáo viên đã chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị trước ở nhà, nhưng phương pháp được tiến hành chủ yếu là thuyết trình, có kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ. Với cách dạy như thế, GV chưa rèn luyện được kĩ năng nói và nghe, chưa rèn luyện được năng lực giao tiếp và năng lực ngôn ngữ của HS Nguyên nhân cơ bản còn là do thời lượng tiết học có hạn (mỗi chủ đề chỉ có một tiết) mà mục tiêu cần đạt lại không đơn giản, không đủ để giáo viên có thể cho tất cả các em trong lớp lên luyện nói mà chỉ linh động phân nhóm cho đại diện nhóm lên trình bày. Ngoài ra, tài liệu tham khảo, hướng dẫn cho giáo viên thực hiện tiết Nói và nghe còn hạn chế. Đa số giáo viên phải tự tìm tòi để đưa ra phương pháp dạy học tiết Nói và nghe phù hợp nhất với đối tượng học sinh của mình. Bên cạnh đó, tâm lí một bộ phận giáo viên còn ngại rèn kĩ năng nói cho học sinh trong các giờ học nói chung và qua tiết Nói và nghe nói riêng. Bên cạnh hai thực tế trên thì cũng còn tồn tại một số thực tế nữa mà trường học nào hiện nay cũng gặp phải. Đó là lớp học của chúng ta chưa thiết kế cho những giờ học kiểu đối thoại, đàm thoại, thảo luận; số lượng học sinh trong một lớp học quá nhiều (thường từ 40HS trở lên) khiến cho GV còn gặp nhiều lúng túng khi tổ chức một giờ Nói và nghe. Điều này dẫn đến nhiều HS khi ra trường không biết lắng nghe, thấu hiểu, không biết nói ra những điều mình mong muốn, không truyền đạt chính xác thông tin hoặc không nói đúng theo quy tắc giao tiếp. 12
  13. Từ thực trạng trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau để giúp bản thân và chia sẻ với đồng nghiệp có thể hướng dẫn các em rèn luyện được năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp một cách có hiệu quả. II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Nguyên tắc xây dựng các giải pháp 1.1. Đảm bảo mục tiêu dạy học Mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông 2018 là: Giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất đã được hình thành ở trung học cơ sở; mở rộng và nâng cao yêu cầu phát triển phẩm chất với các biểu hiện cụ thể: có bản lĩnh, cá tính, có lí tưởng và hoài bão, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần hội nhập và ý thức công dân toàn cầu. Tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: đọc hiểu được cả nội dung tường minh và hàm ẩn của các loại văn bản với mức độ khó hơn thể hiện qua dung lượng, nội dung và yêu cầu đọc; đọc hiểu với yêu cầu phát triển tư duy phản biện; vận dụng được các kiến thức về đặc điểm ngôn từ văn học, các xu hướng – trào lưu văn học, phong cách tác giả, tác phẩm, các yếu tố bên trong và bên ngoài văn bản để hình thành năng lực đọc độc lập. Viết thành thạo kiểu văn bản nghị luận và thuyết minh tổng hợp (kết hợp các phương thức biểu đạt và các thao tác nghị luận), đúng quy trình, có chủ kiến, đảm bảo logic và có sức thuyết phục. Chương trình đã cụ thể hóa mục tiêu của tiết Nói và nghe: linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; biết tham gia và có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp trong tranh luận. Dạy học Nói và nghe cần đảm bảo được mục tiêu này trong tổng thể mục tiêu của cả chương trình 1.2. Đảm bảo đúng nguyên tắc dạy học Nói và nghe Để một tiết Nói và nghe được hiệu quả giáo viên phải nắm vững hai nguyên tắc cơ bản sau: * Nguyên tắc 1: Dạy học Nói và nghe theo nguyên tắc giao tiếp Để HS thực sự có cơ hội trình bày, chia sẻ, trao đổi trong giờ học nói và nghe theo yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018, với các bài học cụ thể của Ngữ văn lớp 10, khi triển khai dạy học Nói và nghe, GV cần chú ý những nhân tố sau: - Đối tượng giao tiếp: HS cần xác định được những đề tài, nội dung nói và nghe cụ thể xuất phát từ chính những trải nghiệm, vốn sống của các em. GV cần định hướng đề tài, nội dung giao tiếp được lựa chọn thực sự gây hứng thú cho HS đồng thời phù hợp với yêu cầu cần đạt của bài học 13
  14. - Nhân vật giao tiếp: Nhân vật giao tiếp trong hoạt động Nói và nghe chính là HS. Với nguyên tắc này giáo viên cần xác định nhiệm vụ thật rõ ràng cho người nói và người nghe. + Người nói có nhiệm vụ trình bày bài nói của mình và nhận những phản hồi từ người nghe. Người nói: cần xác định được: đối tượng giaotiếp: nói cho ai nghe? Mục đích: nói để làm gì? Nội dung: nói cái gì? Cách nói: nói thế nào? + Người nghe: . Cách nghe: tập trung toàn bộ tâm ý để nghe chú ý đến thái độ, cử chỉ, điệu bộ khi nghe. . Cách ghi chép: có mảnh giấy nhỏ (hoặc quyển sổ nhỏ) ghi chép vắn tắt những gì đã nghe. . Cách phản hồi: Nhận xét của bản thân, bảng kiểm, bảng tiêu chí đánh giá. - Áp dụng chiến lược giao tiếp + Các chiến lược nói: được áp dụng là phát biểu, mô tả lại vấn đề, thuyết trình, tranh luận, tạo lời thoại trong kịch. + Các chiến lược nghe: nghe và phản hồi thông tin dự đoán; nghe và sửa lỗi sai; nghe và trả lời câu hỏi; nghe và tóm tắt nội dung văn bản. - Sử dụng phương tiện giao tiếp: Cùng với khảt năng sử dụng ngôn ngữ để trình bày, trao đổi, thảo luận, tranh luận....HS cần được hướng dẫn để sử dụng thành thạo các phương tiện phi ngôn ngữ khi tiến hành nói và nghe: sơ đồ, hình ảnh, video, ngôn ngữ cơ thể... * Nguyên tắc 2: Dạy học Nói và nghe gấn kết với Đọc, Viết Chương trình Ngữ văn 10 được xây dựng dựa trên mối quan hệ tích hợp, kết nối chặt chẽ giữa các hoạt động Đọc, Viết với các hoạt động Nói và Nghe. Mối quan hệ này được thể hiện trên cả phương diện loại, thể loại văn bản lẫn chủ đề. Ví dụ: Bài 1. Sức hấp dẫn của truyện kể: + Phần đọc: đọc truyện: thần thoại, truyền kì trung đại, truyện ngắn hiện đại + Phần viết: Viết được một văn bản nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một tác phẩm truyện + Phần Nói và nghe: Biết thuyết trình, giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện Bài 9. Hành trang cuộc sống + Phần đọc: Đọc văn bản thông tin, văn bản nghị luận, thơ về chủ đề lựa chọn con đường trong tương lai. + Phần viết: viết được một bài luận về bản thân 14
  15. + Phần nói và nghe: Biết thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ. Nói và nghe tập trung trình bày một nội dung dựa trên nội dung của bài viết hoặc bài đọc. Bằng cách đó, HS được nói và nghe, thảo luận, trao đổi, tương tác trên cơ sở những gì mình đã chuẩn bị từ bài viết hoặc trên cơ sở ý tưởng, thông tin từ bài đọc. Khi học tốt phần Đọc và Viết, HS sẽ thực hiện tốt phần Nói và nghe bởi khi hiểu rõ vấn đề cần trình bày thì sẽ nói và nghe thuận lợi, chính xác hơn 1.3. Đảm bảo đúng quy trình của tiết Nói và nghe Để đạt được mục tiêu của tiết dạy, phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh, GV cần tuân thủ quy trình của tiết dạy theo các bước như sau: * Bước 1. Tổ chức, hướng dẫn HS chuẩn bị nói và nghe Phần chuẩn bị bài ở nhà là khâu vô cùng quan trọng để tổ chức thành công một tiết Nói và nghe. Công việc phần này chủ yếu là của HS nhưng để HS chuẩn bị tốt thì GV phải hướng dẫn HS chuẩn bị ở nhà theo đúng yêu cầu. Ở trên lớp, GV cho HS thời gian khoảng 5 phút để chuẩn bị trình bày và lắng nghe Trước khi dạy học tiết Nói và nghe, giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài nói và tập luyện. Các em chuẩn bị giới thiệu, thuyết trình, trình bày nội dung gì thì GV cần phải giao nhiệm vụ học tập cụ thể, thời gian chuẩn bị tùy vào nội dung và hình thức tổ chức, nhưng không cần nhiều (vì đã có nội dung từ đọc và viết). Từ nội dung chuẩn bị đó giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập nói ở nhà dựa vào lưu ý trong sách giáo khoa: - Tự tin và thoải mái. Chú ý chào hỏi khi bắt đầu và cảm ơn khi kết thúc bài nói. - Bám sát mục đích chia sẻ trải nghiệm để thống nhất trong cách dùng từ ngữ xưng hô và tập trung vào diễn biến câu chuyện. - Điều chỉnh giọng nói, tốc độ nói và sử dụng cử chỉ, điệu bộ phù hợp: Gv có thể đưa ra một số tiêu chí để HS luyện nói ở nhà, và để làm căn cứ đánh giá kĩ năng nói của HS Điều chỉnh giọng nói và Sử dụng cử chỉ, điệu bộ tốc độ nói Âm lượng: to hay nhỏ. Ánh mắt: luôn có sự kết nối với người nghe. Tốc độ: nhanh hay chậm. Gương mặt: vui, buồn, tươi cười, ngạc nhiên, hài hước,... phù hợp với nội dung câu 15
  16. chuyện. Cao độ: cách lên giọng, Củ chỉ: giơ tay lên, đưa tay xuống, chỉ xuống giọng. tay về phía trước, đặt tay lên ngực,... phù hợp với nội dung câu chuyện, không nên cử động nhiều nhưng cũng không nên đứng bất động. Sắc thái biểu cảm: vui hay Dáng người: đứng thẳng, không nghiêng buồn, Sôi nổi hay suy tư,... hay lom khom. GV khuyến khích HS có thể làm slide, mang theo tranh ảnh, sơ đồ, số liệu … để minh hoạ cho bài nói của mình. Như vậy, tiết luyện nói sẽ hấp dẫn hơn rất nhiều, các em tự tạo được sự bất ngờ, thú vị trong bài nói, trong phong cách thể hiện cuốn hút người nghe. *Bước 2. Tổ chức hướng dẫn HS thực hành Nói và nghe Tiết thực hành Nói và nghe được thực hiện bởi hai hoạt động chính là hoạt động mở đầu và hoạt động thực hành. - Hoạt động 1: Mở đầu Cũng như các tiết học khác hoạt động mở đầu có vai trò quan trọng. Hoạt động mở đầu cần phải đảm bảo khơi gợi được không khí học tập, phải gắn với chủ đề. Có thể tiến hành hoạt động này bằng cách đặt ra một câu hỏi tại sao chúng ta nói, nghe về một vấn đề…hoặc có thể mở đầu bằng một video, một bản nhạc, một câu chuyện… - Hoạt động 2: Thực hành nói và nghe + Trước khi nói và nghe: giáo viên hướng dẫn cho học sinh xác định được mục đích, nội dung, người nghe, không gian, thời gian. Liệt kê được các ý chính cần nói. Những điều cần lưu ý để nói và nghe tốt. +Khi nói và nghe: giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện nói và nghe theo nhóm: nói ở nhóm 2 hoặc nhóm 4; nói trước lớp 1-2 học sinh. * Bước 3. Tổ chức, hướng dẫn HS trao đổi về việc nói và nghe + Hướng dẫn học sinh nhận xét về cách trình bày nói và nghe của các bạn theo rubic nhận xét đồng đẳng hoặc rubic tự nhận xét; nhận xét theo một số tiêu chí GV đưa ra: nội dung, cách dẫn dắt, cử chỉ, điệu bộ, yếu tố phi ngôn ngữ hỗ trợ... + HS rút ra những kinh nghiệm chung về nói và nghe. Tiến trình tổ chức này phù hợp với yêu cầu của Sách giáo khoa Ngữ văn 10 khi thiết kế hoạt động nói nghe theo một quy trình tỉ mỉ và chặt chẽ: chuẩn bị nói và nghe; thực hành nói và nghe; trao đổi, đánh giá về bài nói; rút kinh nghiệm chung về nói và nghe. Nhưng cũng cần lưu ý rằng, tùy thuộc vào mỗi bài và mỗi phương pháp sử dụng, các bước thực hiện có thể linh động hoặc thay đổi. 16
  17. 1.4. Bám sát đặc trưng môn Ngữ văn Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,... Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời. Nội dung môn Ngữ văn mang tính tổng hợp, bao gồm cả tri thức văn hoá, đạo đức, triết học,... liên quan tới nhiều môn học là hoạt động giáo dục khác như Lịch sử, Địa lí, Nghệ thuật, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ, Tự nhiên và Xã hội, Hoạt động trải nghiệm, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp,… Môn Ngữ văn cũng liên quan mật thiết với cuộc sống; giúp học sinh biết quan tâm, gắn bó hơn với đời sống thường nhật, biết liên hệ và có kĩ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Môn Ngữ văn là môn học đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho HS. Qua môn Ngữ văn, HS biết vận dụng ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp; vận dụng ngôn ngữ để đọc, viết, nghe, nói; biết viết bài văn nghị luận theo chủ đề...; HS xác định được mục đích giao tiếp, lựa chọn nội dung, kiểu văn bản và thể loại, ngôn ngữ và các phương tiện giao tiêp khác phù hợp với ngữ cảnh và đối giao tiếp để thảo luận, lập luận, phản hồi, đánh giá về các vấn đề trong học tập và đời sống....Cũng qua môn học Ngữ văn, HS phát triển khả năng nhận biết, thấu hiểu và đồng cảm với suy nghĩ, tình cảm và thái độ của người khác; thiết lập được các mối quan hệ tốt đẹp, phát triển khả năng làm việc nhóm, tăng hiệu quả họp tác. Bám sát đặc trưng này của môn Ngữ văn, GV đưa ra các giải pháp phù hợp để phát huy tối đa năng lực của HS đặc biệt là năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp trong tiết Nói và nghe. 2. Các giải pháp cụ thể 2.1. Nắm vững cấu trúc các Chủ đề (Bài học) của Sách giáo khoa Ngữ văn 10, mục tiêu hướng tới của mỗi tiết Nói và nghe. Quan điểm biên soạn SGK Ngữ văn lớp 10 cũng là quan điểm chi phối việc biên soạn SGK ngữ văn cấp THCS và THPT thuộc bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống nói chung. Sách được biên soạn theo mô hình phát triển năng lực và phẩm chất của người học. Mỗi chủ đề được tổ chức theo mạch các hoạt động giao 17
  18. tiếp đọc, viết, nói và nghe. Các hoạt động được sắp xếp liền mạch và kết nối chặt chẽ với nhau. Dạy tiết Nói và nghe , GV cũng cần phải đặt trong mối tương quan với các hoạt động giao tiếp trước đó. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 đã quy định rất rõ mục tiêu cần đạt của tiết Nói và nghe, mục tiêu chung của mỗi bài. Mục tiêu đó lại được cụ thể hóa theo từng bài học ứng với nội dung của phần đọc, viết. Cụ thể đề tài, chủ đề nói - nghe ấy phụ thuộc vào nội dung đọc và viết trong mỗi bài học. Đọc hiểu và viết nội dung gì thì nói - nghe sẽ tổ chức để học sinh rèn luyện theo nội dung ấy. Điều này vừa thực hiện tích hợp nội dung các kỹ năng, vừa góp phần củng cố nội dung đã học ở đọc và viết. Chẳng hạn ở Bài 4.Sức sống của Sử thi: Yêu cầu cần đạt của cả bài là: - Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của sử thi: không gian, thời gian, cốt truyện, nhân vật, lời ngưởi kể chuyện và lời nhân vật. - Biết nhận xét nội dung bao quát của văn bản; biết phân tích các chi tiết tiêu biểu, đề tài, câu chuyện, nhân vật và mối quan hệ giữa chúng; nêu được ý nghĩa của tác phẩm đối với người đọc. - Hiểu được cách đánh dấu phần bị tỉnh lược trong văn bản, cách chú thích trích dẫn và ghi cước chú. - Viết được báo cáo nghiên cứu, có sử dụng trích dẫn, cước chú; có hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ và tránh đạo văn. - Biết thuyết trình về một vấn đề; nghe và nắm bắt được nội dung thuyết trình, quan điểm của người nói; biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình. - Biết trân trọng các giá trị tinh thần to lớn được thể hiện trong những sáng tác ngôn từ thời cổ đại truyền đến ngày nay. Yêu cầu cần đạt của tiết Nói và nghe: Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu một vấn đề là: +HS hiểu được ý nghĩa của việc báo cáo nghiên cứu dưới hình thức thuyết trình, một hoạt động nối tiếp việc viết báo cáo nghiên cứu đã thực hiện trước đó. + HS nắm vững cách thuyết trình và kết quả nghiên cứu đã đạt được để có thể khơi dậy sự chia sẻ tích cực ở người nghe Như thế, về nội dung nói và nghe ở các bài học hầu như học sinh được kế thừa lại nội dung đã chuẩn bị ở đọc và viết, chỉ khác nhau cách thức hoạt động. Học sinh cũng cần chuẩn bị nhưng chỉ là xem xét, bổ sung thêm và chuyển từ hình thức đọc, viết thành nói nghe cho phù hợp. Việc nắm bắt yêu cầu cần đạt của mỗi tiết học sẽ giúp giáo viên định hình phương pháp và nội dung dạy học. 18
  19. Chẳng hạn, với tiết Nói và nghe trên, phương pháp giáo viên ưu tiên lựa chọn là phương pháp thuyết trình sản phẩm nhóm - có thể kết hợp với phương tiện phi ngôn ngữ. Nội dung lựa chọn để nghiên cứu báo cáo là một vấn đề văn học do GV định hướng hoặc HS lựa chọn. Ví dụ: Ảnh hưởng của Văn học dân trong văn học viết Việt Nam hiện đại; Dấu ấn của sử thi trong một số tác phẩm hiện đại. 2.2. Xây dựng môi trường dạy học thân thiện Để tạo cho HS sự thoải mái, tự tin, mạnh dạn trong nói và nghe chúng tôi cho rằng biện pháp tâm lí là quan trọng, cần được giáo viên thực hiện trước nhất. Hãy khơi gợi trong các em những tình cảm, cảm xúc trong sáng với môn học, với người dạy trước khi các em bỏ công sức ra để khám phá tri thức bộ môn. Giáo viên cần làm cho học sinh yêu quý môn học, thấy được sự cần thiết phải học Ngữ văn theo nguyên tắc giao tiếp, đồng thời tạo mối quan hệ thân thiện với học sinh. Giáo viên có thể dành thời gian nhất định cùng học sinh chia sẻ về học tập, để lắng nghe những suy nghĩ, khó khăn của học sinh… Khi những vướng mắc ban đầu đã được tháo gỡ, khi mối quan tâm, tình cảm của người học dành cho môn học đã có, mối quan hệ thầy trò thân thiện được thiết lập thì người học sẽ sẵn sàng hợp tác với giáo viên, tích cực trong học tập. Muốn làm được điều này, mỗi nhà giáo không chỉ đóng vai trò là những “tấm gương sáng” để người học theo đó để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, phát triển các phẩm chất nhân cách cần thiết mà còn cần phải biến mình thành những “người bạn” của các em học sinh. Giáo viên thu hẹp khoảng cách với học sinh để tạo ra bầu không khí tâm lý thoải mái tích cực để học sinh có thể phát biểu ý kiến, trình bày suy nghĩ cá nhân. Qua đó, giáo viên mới có thể thấy được điểm mạnh, điểm yếu trong kỹ năng nói, nghe của các em, từ đó khuyến khích, điều chỉnh các em nói, nghe nhiều hơn trong các giờ học. Việc tạo môi trường cho các em chủ động, tích cực phát biểu suy nghĩ cá nhân không chỉ cần được xây dựng trong tiết Nói và nghe mà trong bất cứ môn học nào. Nếu giáo viên tạo khoảng cách quá lớn người học sẽ luôn mang tâm lý sợ hãi, khó thân thiện, cởi mở và khó bộc lộ bản thân. Về lâu dài, học sinh sẽ chỉ biết ngồi im một chỗ chờ đợi màn trình diễn của giáo viên từ đầu cho đến cuối tiết, biến giờ học thành ép buộc hoặc không tìm thấy được giá trị, lợi ích của việc học tiếng. Càng những kiểu bài cần giải quyết tình huống thực tiễn, phản ứng nhanh, giao tiếp bằng ngôn ngữ hoặc giữa các nhân vật giao tiếp, càng cần xây dựng không khí tích cực trong lớp học, để học sinh cảm thấy tinh thần dân chủ, giúp các em tự tin hơn khi thể hiện mình. GV có thể trở thành “khán giả” khi nghe HS thuyết trình, trao đổi, nhập vai ; cũng có thể trở thành“ người dẫn chương trình” để điều hành dẫn dắt và khơi gợi ý kiến trao đổi của các em, và đưa ra những phản biện để các em đối thoại lại với mình, GV còn là một “chuyên gia” từ đó các em có thể tháo gỡ được một số vướng mắc, có hứng thú để nói, nghe. Có lúc, GV còn đóng vai là “người chưa biết” mong muốn được HS giải thích, giới thiệu thêm. 19
  20. Chẳng hạn: Khi thực hiện tiết các Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau; Lắng nghe và phản hồi về một bài thuyết trình kết quả nghiên cứu sau khi giáo viên định hướng mục tiêu của tiết học sẽ dành phần lớn thời gian để các em luyện nói và nghe… Để đạt được mục tiêu là các em tự tin trình bày, hăng hái tham gia trao đổi, mạnh dạn thể hiện ý kiến cá nhân, trước hết giáo viên phải đưa ra được những vấn đề quen thuộc, có ý nghĩa, phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi và ý có nghĩa trực tiếp trong cuộc sống. Ví dụ vấn đề tình yêu tuổi học trò, nữ sinh xơvin khi đến trường, đưa điện thoại đến trường, nét đẹp văn hóa của huyện Quỳ Hợp, tục làm vía của người Thái... Nhưng quan trọng hơn là giáo viên phải tạo được bầu không khí biết lắng nghe, biết phản biện, biết trao đổi ý kiến… Từ đó, học sinh sẽ cảm thấy giờ học có ý nghĩa hơn, học sinh sẽ hứng thú hơn và từ đó tập cho các em thói quen phát biểu, trình bày và bảo vệ ý kiến của mình. Cách làm này không thuộc về phương pháp, hình thức được quy định cụ thể nhưng nó lại là tiền đề quan trọng để giáo viên triển khai tốt các phương án giảng dạy tiếp theo, tạo được sự cộng hưởng dạy - học giữa thầy và trò. Tạo được bầu không khí thân thiện, tích cực không phải là quá khó, quan trọng nhất là giáo viên cần nhiệt tình, cởi mở và tự đặt bản thân mình trong tâm thế, suy nghĩ của các em học sinh. 2.3. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học 2.3.1. Phương pháp thảo luận nhóm * Mục đích: Trong số các phương pháp dạy học tích cực, phương pháp thảo luận nhóm thường được giáo viên sử dụng, bởi nó là phương pháp có nhiều ưu thế trong việc phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù của môn Ngữ văn. Hoạt động chính của dạy học thảo luận nhóm là thực hành nói và nghe. Vì vậy, hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu dạy học Nói và nghe của Chương trình mới. Phương pháp dạy học thảo luận nhóm có khả năng hướng vào phát triển tư duy, năng lực giao tiếp, năng lực ngôn ngữ và hợp tác của người học. Có nhiều cách để chia nhóm HS: chia ngẫu nhiên. theo giới tính, theo sở thích, theo quan điểm, theo vấn đề lựa chọn... * Cách thực hiện: Bước 1: Chuẩn bị nói và nghe: Chủ đề; nội dung; phương tiện hỗ trợ. Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: Chia lớp thành từng nhóm; bầu nhóm trưởng; Giáo viên quan sát, kiểm tra và hướng dẫn nếu cần thiết; yêu cầu tất cả các thành viên phải tích cực tham gia thảo luận. Cử thành viên trong nhóm trình bày kết quả trước lớp; Bước 3: Thảo luận, rút kinh nghiệm : các nhóm còn lại đánh giá, bổ sung ý kiến; GV tổng kết, đánh giá và đưa ra kết luận. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0