Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng câu hỏi, bài tập phát triển năng lực phần Lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn từ năm 1930-1945, cho học sinh trường Năng Khiếu Thể Dục Thể Thao Nghệ An
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Sử dụng câu hỏi, bài tập phát triển năng lực phần Lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn từ năm 1930-1945, cho học sinh trường Năng Khiếu Thể Dục Thể Thao Nghệ An" nhằm đưa ra một tài liệu đáng tin cậy, có cơ sở khoa học giúp giáo viên và học sinh tham khảo khi dạy và học lịch sử lớp 12, Phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.Thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập nhận thức lịch sử, đề tài góp một phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử nói chung và phần lịch sử Việt Nam 12 nói riêng, đồng thời cũng là để trao đổi, học tập kinh nghiệm của các thầy cô giáo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương pháp dạy học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng câu hỏi, bài tập phát triển năng lực phần Lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn từ năm 1930-1945, cho học sinh trường Năng Khiếu Thể Dục Thể Thao Nghệ An
- 1 SỞ GD & ĐT NGHỆ AN --------------- -------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: SỬ DỤNG CÂU HỎI BÀI TẬP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12 GIAI ĐOẠN 1930-1945 CHO HỌC SINH TRƯỜNG NĂNG KHIẾU THỂ DỤC THỂ THAO NGHỆ AN (LĨNH VỰC: LỊCH SỬ) Năm học 2022 – 2023
- 2 SỞ GD & ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU THỂ DỤC THỂ THAO --------------- -------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: SỬ DỤNG CÂU HỎI BÀI TẬP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12 GIAI ĐOẠN 1930-1945 CHO HỌC SINH TRƯỜNG NĂNG KHIẾU THỂ DỤC THỂ THAO NGHỆ AN (LĨNH VỰC: LỊCH SỬ) Tên tác giả : Nguyễn Thị Thu Hiền Giáo viên môn : Lịch sử Tổ bộ môn : Khoa học xa hội Số điện thoại : 0911.978 .268 Năm học 2022 – 2023
- 3 MỤC LỤC Contents PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu , nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu .............................. 2 2.1 Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 2 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 2 2.3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 2 3. Thời gian và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 2 3.1. Thời gian .................................................................................................... 3 3.2 Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 3 4. Đóng góp mới của đề tài ................................................................................... 3 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.................................................................... 4 1. Cơ sở khoa học .................................................................................................. 4 1.1 Cơ sở lí luận ................................................................................................ 4 1.2 Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 5 2. Khái niệm câu hỏi lịch sử, bài tập nhận thức lịch sử. ....................................... 8 2.1 Câu hỏi lịch sử: ........................................................................................... 8 2.2. Bài tập nhận thức lịch sử:.......................................................................... 8 2.3. Phân biệt câu hỏi, bài tập và bài tập nhận thức lịch sử .............................. 9 2.4 Những yêu cầu, quy trình soạn thảo, quy trình sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử. ..................................................................... 10 3. Một số phương pháp “ Sử dụng câu hỏi , bài tập phát triển năng lực phần Lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn từ năm 1930 - 1945 , cho học sinh Trường Năng Khiếu Thể Dục Thể Thao Nghệ An ”....................................................... 11 3.1 Sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử để định hướng cho học sinh tiếp nhận kiến thức mới. .................................................................................. 12 3.2. Sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử để tổ chức hoạt động nhận thức và hình thành, phát triển năng lực của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức mới................................................................................................... 13 3.3. Sử dụng bài tập lịch sử để kiểm tra hoạt động kiến thức mới nhằm củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng học tập của học sinh. ................................... 14
- 4 3.4. Sử dụng bài tập hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. .................................. 28 KHẢO SÁT SỰ CẤP THIẾT VÀ TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ...................................................................................................................... 33 1. Mục đích:......................................................................................................... 33 2. Nội dung và phương pháp khảo sát................................................................. 34 2.1. Nội dung khảo sát..................................................................................... 34 2.2. Phương pháp khảo sát và thang đánh giá ................................................. 35 3. Đối tượng khảo sát .......................................................................................... 35 4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất 35 4.1. Sự cấp thiết của các giải pháp đã đề xuất ................................................ 35 4.2. Tính khả thi của các giải pháp đề xuất ..................................................... 36 PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................................................... 37 1. Kết luận ........................................................................................................... 37 2. Kiến nghị ......................................................................................................... 37 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 39 PHỤ LỤC 1 ............................................................................................................. 40 PHỤ LỤC 2 ............................................................................................................. 41 PHỤ LỤC 3 ............................................................................................................. 42
- 1 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trường năng khiếu TDTT Nghệ An nằm trên địa bàn thành Phố Vinh - tỉnh Nghệ An tròn mười năm thành lập . Học sinh thuộc nhóm đối tượng chuyên biệt , vì các em là vận động viên thể thao nên việc học song song với tập luyện để lấy huy chương cho tỉnh nhà . Thời gian các em dành cho học không được nhiều như các trường khác vì còn đi tập huấn dài ngày , thời gian tập luyện dày , nên trong quá trình giảng dạy và làm kiểm tra , bản thân tôi giảng dạy môn Lịch Sử phải thay đổi phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh của mình . Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (01/1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2009, được cụ thể hóa trong các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2010, điều 28.2, đã nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú, học tập cho học sinh”. Có thể nói, cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học môn lịch sử nói riêng là hướng hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, chống lại lối dạy đọc chép, thói quen học tập thụ động. Như chúng ta đã biết môn Lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với thành tựu giành nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại có thái độ đúng với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. Tuy nhiên hiện nay, một số phụ huynh, giáo viên và học sinh đang coi lịch sử là "môn học phụ" trong nhà trường, việc dạy và học lịch sử chỉ để đối phó với kiểm tra, thi cử và không thừa nhận đúng chức năng của bộ môn lịch sử trong xã hội. Từ những nhận thức sai lầm đó dẫn tới phương pháp chỉ đạo, giảng dạy và học tập lịch sử không đem lại hiệu quả cao. Giáo dục phổ thông nói chung và môn lịch sử nói riêng đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục nội dung sang năng lực của người học, chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đặc biệt do trường hoc PTNKTDTT Nghệ An là môi trường chuyên biệt , chủ yếu là vận động viên thể duc thể thao , thời gian học tập rất hạn chế . Bởi vậy tôi chỉ dừng lại ở những câu hỏi và bài tập nhận thức phù hợp để đạt được yêu cầu đề ra của giáo viên và sự cần thiết tiếp nhận của học sinh.
- 2 Qua các đợt tấp huấn của Sở Giáo dục về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong môn Lịch sử cấp THPT, tôi đã suy nghĩ nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra sáng kiến về “ Sử dụng câu hỏi , bài tập phát triển năng lực phần Lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn từ năm 1930 - 1945 , cho học sinh trường Năng Khiếu Thể Dục Thể Thao Nghệ An ” 2. Mục đích nghiên cứu , nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu 2.1 Mục đích nghiên cứu Chọn đề tài này nghiên cứu tôi hướng đến mục đích : đưa ra một tài liệu đáng tin cậy, có cơ sở khoa học giúp giáo viên và học sinh tham khảo khi dạy và học lịch sử lớp 12, Phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.Thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập nhận thức lịch sử, đề tài góp một phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử nói chung và phần lịch sử Việt Nam 12 nói riêng, đồng thời cũng là để trao đổi, học tập kinh nghiệm của các thầy cô giáo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương pháp dạy học . 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện đề tài này tôi đặt ra một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Thứ nhất tìm hiểu cơ sở lý luận của quá trình dạy học lịch sử nói chung và việc sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử nói riêng nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh - Thứ hai tiến hành điều tra thực tiễn việc sử dụng bài tập trong việc dạy và học của giáo viên và học sinh ở trường nơi tôi đang công tác. - Thứ ba chỉ ra được những yêu cầu khi sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử để định hướng nhiệm vụ nhận thức và định hướng phát triển năng lực cho học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức mới. - Thứ tư khai thác nội dung chương trình, sách giáo khoa lịch sử lớp 12 để xây dựng hệ thống bài tập. Đề xuất một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm phát huy tính tích cực của học sinh 2.3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: học sinh các lớp 12 của trường năng khiếu thể dục thể thao Nghệ An . Phạm vi nghiên cứu: Do khả năng của người viết cũng như do quy mô của một bản sáng kiến kinh nghiệm, đề tài đi sâu vào tìm hiểu phương pháp thiết kế và sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực cho học sinh khi dạy Phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 3. Thời gian và phương pháp nghiên cứu
- 3 3.1. Thời gian Đề tài được thực hiện trong năm học 2021 - 2022 và áp dụng ngay trong học kì I năm học 2022 - 2023 đối với môn lịch sử lớp 12, ở tất cả các lớp 12 trường Năng Khiếu TDTT Nghệ An nơi tôi giảng dạy. 3.2 Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác-Lê-nin, đề tài được thực hiện bằng các phương pháp chính là: - Phương pháp lịch sử - Phương pháp liên ngành - Phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn dạy học - Phương pháp điều tra, khảo sát - Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,thực hành, thực nghiệm 4. Đóng góp mới của đề tài Theo chủ quan của tôi đề tài này có ý nghĩa về cả lí luận và thực tiễn. Trước hết là đưa đến một phương pháp dạy học mới mang tính tích cực ở trường tôi hiện nay, chuyển từ giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “ truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tuy nhiên , sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức để nhằm phát triển năng lực cho học sinh khối THPT là không mới , nhưng với đối tượng học sinh chuyên biệt như trường PTNăng Khiếu TDTT Nghệ An là việc cần nghiên cứu kĩ để phát huy được năng lực cho học sinh . Vì vậy khi câu hỏi và bài tập đặt ra dừng lại sở mức sao cho những đối tượng này dễ hiểu và đạt hiệu quả cao là điều tôi phải trăn trở Việc sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử ở trường THPT đã có song với sáng kiến này đã đưa ra phương pháp sử dụng mới để phát huy tính tích cực và định hướng phát triển năng lực cho học sinh qua Phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945, Lịch sử lớp 12, đó là: - Sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử để định hướng cho học sinh tiếp nhận kiến thức mới. - Sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử để tổ chức hoạt động nhận thức và hình thành, phát triển năng lực của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức mới. - Tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa của bài tập trong việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử nói chung, phát huy tính tích cực học tập của học sinh nói riêng. - Xây dựng được một hệ thống bài tập sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 phù hợp với đối tượng học sinh THPT nơi tôi công tác.
- 4 - Đề xuất được các biện pháp sử dụng bài tập theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, Lịch sử lớp 12. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở khoa học 1.1 Cơ sở lí luận Trong việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thì đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề quan trọng, được xã hội hết sức quan tâm, các thầy cô giáo trong các nhà trường cũng đã và đang tích cực thực hiện nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và học để góp phần đưa nền giáo dục nước ta ngày càng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã khẳng định: “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực…” Bộ môn lịch sử có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, xác định nhiệm vụ trong hiện tại, có thái độ đúng đắn đối với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. Hiện nay, trong xã hội nói chung và trong trường phổ thông nói riêng vẫn còn không ít những nhận thức sai lệch về môn lịch sử. Một số giáo viên, học sinh đang coi lịch sử là "môn học phụ" trong nhà trường, việc dạy và học lịch sử chỉ để đối phó với kiểm tra, thi cử và không thừa nhận đúng chức năng của bộ môn lịch sử trong xã hội. Từ những nhận thức sai lầm đó dẫn tới phương pháp chỉ đạo, giảng dạy và học tập lịch sử không đem lại hiệu quả cao. Học sinh không nắm được những sự kiện lịch sử cơ bản của thế giới và của dân tộc, nhầm lẫn kiến thức lịch sử, thậm chí hiểu sai và đánh giá sai sự kiện, nhân vật lịch sử. Học sinh trường Năng Khiếu Thể Dục Thể Thao bên cạnh việc học còn tập luyện với tần suất dày đặc , tốn rất nhiều thời gian nên chú trọng việc học là vô cùng
- 5 hạn chế . Các em thường đi tập luyện và thi đấu dài ngày nên lượng kiến thức tiếp nhận bị gãy đoạn , rất ảnh hưởng đến chất lượng học . Khi các em thi đấu về , thường tâm thế ngại học , muốn nghỉ ngơi và nhận thức học chỉ qua loa . Sở dĩ có sự nhận thức chưa đúng đắn về vị trí, vai trò của môn lịch sử là do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, trong đó phải kể đến phương pháp dạy học lịch sử một cách khô cứng, máy móc của một bộ phận giáo viên làm cho học sinh không phát triển được năng lực tư duy sáng tạo và niềm say mê hứng thú với bộ môn. Quá trình dạy học lịch sử ở trường là một quá trình sư phạm phức tạp bao gồm nhiều hình thức, nhiều hoạt động khác nhau của giáo viên và học sinh. Quá trình này nhằm mục đích làm cho học sinh nắm vững hệ thống tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và hình thành phát triển nhân cách. Trong việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung, môn lịch sử nói riêng việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhân tố quan trọng. Thực tế cho thấy, trong quá trình giảng dạy môn lịch sử trên lớp, một số giáo viên còn lúng túng về phương pháp, chưa nắm vững được đặc trưng của bộ môn lịch sử là đi từ sự kiện đến tạo biểu tượng từ đó hình thành khái niệm, rút ra quy luật và bài học. Một số giáo viên còn chịu ảnh hưởng của phương pháp dạy học truyền thống nên chất lượng bộ môn còn thấp, chưa phát huy hết vai trò, thế mạnh của bộ môn lịch sử trong nhà trường phổ thông. Đổi mới phương pháp dạy học, trọng tâm là phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, xét cho cùng việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động của học sinh; giáo dục phải được tiến hành thông qua hành động và bằng hành động của bản thân người học. Việc khơi dạy và phát triển ý thức năng lực rèn luyện, phương pháp học tập tích cực, sáng tạo là điều cần thiết đối với cả giáo viên và học sinh trong dạy học lịch sử. Mặt khác, giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Bộ môn lịch sử trong giáo dục phổ thông nói chung và ở bậc THPT nói riêng cũng không nằm ngoài bước chuyển này, tức là cũng đang hướng tới việc hình thành những năng lực cốt lõi và năng lực chuyên biệt của bộ môn cho học sinh, thông qua việc đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực. 1.2 Cơ sở thực tiễn Để có một giờ dạy lịch sử thành công đòi hỏi giáo viên phải có một quá trình chuẩn bị công phu về nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học. Bởi vì, trong
- 6 dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, không có một phương pháp nào là vạn năng, đem lại kết quả mĩ mãn. Sẽ có hiệu quả dạy học cao nhất khi giáo viên biết sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại. Qua thực tiễn sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử cũng đem lại kết quả thiết thực bởi học sinh luôn có nhu cầu tìm hiểu kiến thức mới khi bước vào lớp học. Sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức là để tổ chức việc hình thành, củng cố, kiểm tra, đánh giá tri thức lịch sử được lĩnh hội của học sinh. Nói một cách khác đó chính là nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập lịch sử và hình thành những năng lực chuyên biệt cho học sinh. Để thấy rõ được thực trạng và hiệu quả sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy học nói chung và môn lịch sử nói riêng tôi đã tiến hành điều tra thực trạng bằng phiếu khảo sát đối với 5 giáo viên đang dạy trong trường và 59 học sinh khối 12 của trường (Phụ lục kèm theo). Thống kê và xử lý số liệu từ phiếu điều tra như sau: - Về phía giáo viên: Có 2/5 giáo viên được khảo sát (40%) có sử dụng hệ thống câu hỏi bài tập nhận thức trong dạy học và kiểm tra đánh giá để phát triển năng lực cho học sinh. Có 3/5 giáo viên được khảo sát (60%) chưa quan tâm đến hệ thống câu hỏi bài tập nhận thức trong dạy học và kiểm tra đánh giá. Qua kết quả điều tra, khảo sát cho thấy hầu hết giáo viên còn nặng về phương pháp dạy học truyền thống một chiều áp đặt đối với học sinh ( chiếm tỉ lệ cao: 60%). Chính bởi vậy đã khiến cho giờ học chưa sôi nổi, chưa đạt hiệu quả, học sinh không hoặc ít hứng thú với bộ môn, từ đó kéo theo chất lượng bộ môn đạt được còn thấp. Mặc dù các nhà trường đã coi trọng đổi mới phương pháp dạy học, tuy nhiên thực tế phần lớn giáo viên còn quá coi trọng truyền thụ kiến thức mà chưa chú trọng đến việc sử dụng các biện pháp để phát huy tính tích cực trong nhận thức của học sinh, càng chưa đạt được mục đích phát triển năng lực cho học sinh. Một số giáo viên quan niệm việc chuẩn bị tiết dạy theo định hướng phát huy tính tích cực và phát triển năng lực cho học sinh công phu, tốn kém và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: trang thiết bị, phương tiện hỗ trợ... - Về phía học sinh: Có 35/59 học sinh được khảo sát (59,3 %) thích được tiếp cận với hệ thông câu hỏi bài tập phát triển năng lực và ghi nhớ sự kiện một cách có hệ thống. Có 24/59 học sinh được khảo sát (40,7 %) thích được tiếp cận với hệ thống câu hỏi bài tập phát hiện và ghi nhớ sự kiện theo kiểu học thuộc. Qua số liệu điều tra thực tế, có thể thấy được đa số học sinh ( chiếm tỉ lệ 40,7 %) không thích các câu hỏi yêu cầu học thuộc lòng, học sinh thích được trải nghiệm, được phát hiện vấn đề...rồi mới rút ra kiến thức. Các em muốn chủ động tìm hiểu, tiếp cận kiến thức mới từ đó giúp các em hiểu được bản chất, dễ nhớ và nhớ lâu. Mặt khác, qua thực tế dự giờ của các giáo viên dạy trong trường trong trường nói chung và của tổ xã hội nói riêng , qua dự giờ các đợt hội giảng vẫn còn một số
- 7 giáo viên gặp khó khăn trong việc sử dụng câu hỏi nhận thức lịch sử trong một giờ học để phát huy tính tích cực và định hướng năng lực hình thành của học sinh. Đối với bộ môn của tôi ở trong trường , tôi luôn học hỏi , nắm bắt chỉ đạo của Sở giáo dục và đề cao tinh thần học tập với các trường bạn để thay đổi phương pháp phù hợp với tinh thần đổi mới của giáo dục cũng để phù hợp với đối tượng học sinh của mình .Một số giáo viên đưa ra quá nhiều câu hỏi phát hiện, không đi sâu vào những câu hỏi trọng tâm mang tính khái quát nêu vấn đề, thậm chí bỏ qua cả những câu hỏi hay trong sách giáo khoa. Vì vậy, nhiều giờ học đã trở thành những giờ hỏi - đáp giữa giáo viên và học sinh và cũng có một số giáo viên nhận thức sai lệch rằng hỏi-đáp nhiều câu hỏi trong giờ học là phát huy tính tích cực của học sinh, là hình thành được năng lực chuyên biệt cho học sinh. Có một số giờ học, giáo viên và học sinh thường sử dụng các loại câu hỏi nhận thức ở cuối các tiểu mục hoặc cuối mỗi bài học để khai thác kiến thức hoặc để kiểm tra, đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh. Đây thường là những câu hỏi mang tính khái quát, tổng hợp để củng cố khắc sâu kiến thức của một phần hay cả nội dung bài học. Dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực và phát triển năng lực cho học sinh đã kích thích tinh thần tìm tòi, nghiên cứu của mỗi học sinh và kết quả học sinh đạt được cao hơn hẳn so với phương pháp truyền thụ cũ: - Qua thực tiễn áp dụng tôi thấy ở các tiết dạy theo định hướng phát huy tính tích cực và phát triển năng lực cho học sinh, các em học sinh tích cực, chủ động, hứng thú trong việc tìm ra kiến thức mới với những biểu hiện như: các em sôi nổi, tích cực trao đổi, chủ động bày tỏ quan điểm... - Các kiến thức mới hình thành trong bài học được thực hiện theo đúng quy trình lôgic của sự nhận thức: các em được quan sát, trải nghiệm rồi mới rút ra kiến thức, qua đó học sinh hiểu được bản chất, dễ nhớ, nhớ lâu. - Các kiến thức mới được hình thành gắn với những tình huống cụ thể, tăng khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống. - Các em được phát triển các năng lực quan sát, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực phán đoán, năng lực thu nhận thông tin, năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo.... - Bài kiểm tra 15 phút sau mỗi tiết học ở cả 4 mức độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng cấp thấp và vận dụng cấp cao của các em đều đạt kết quả cao. Qua thực tế áp dụng thì năng lực dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực và phát triển năng lực cho học sinh của giáo viên cũng được nâng cao - Giáo viên được tự tìm hiểu, tự trang bị cho mình cơ sở lí luận của dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực và phát triển năng lực cho học sinh. - Mỗi giáo viên được chủ động về kiến thức, tự tin khi tổ chức các hoạt động dạy học và lựa chọn cho mình phương pháp tối ưu.
- 8 - Giáo viên tận dụng được sức mạnh của công nghệ thông tin vào quá trình dạy học. Thực trạng trên đã đặt ra vấn đề là phải sử dụng câu hỏi nhận thức như thế nào trong giờ học lịch sử để phát huy được tính tích cực trong hoạt động nhận thức và định hướng hình thành năng lực cho học sinh. Dựa vào những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong quá trình giảng dạy bộ môn lịch sử, tôi xin mạnh dạn trình bày một số ý kiến của bản thân về “ Sử dụng câu hỏi, bài tập phát triển năng lực phần Lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn từ năm 1930 - 1945, cho học sinh trường năng khiếu thể dục thể thao Nghệ An ” 2. Khái niệm câu hỏi lịch sử, bài tập nhận thức lịch sử. 2.1 Câu hỏi lịch sử: Câu hỏi là thuật ngữ dùng để chỉ việc nêu vấn đề trong khi nói hoặc viết, đòi hỏi có cách giải quyết. Câu hỏi được sử dụng trong cuộc sống thường ngày cũng như trong dạy học nhưng câu hỏi trong cuộc sống thường là người hỏi chưa biết câu trả lời còn trong dạy học thì câu hỏi là những vấn đề giáo viên đã biết, học sinh đã học hoặc dựa trên những kiến thức đang học, sẽ học mà trả lời một cách thông minh, sáng tạo. Chính vì vậy, câu hỏi trong dạy học bao giờ cũng mang yếu tố mở, yếu tố nhận biết, khám phá... 2.2. Bài tập nhận thức lịch sử: Bài tập nhận thức lịch sử còn có tên gọi khác như : bài tập tư duy, bài tập chỉ dẫn, bài tập logic. Nhưng theo nhà giáo dục học Liên Xô Đairi , thuật ngữ “ bài tập nêu vấn „ đề hay “ bài tập logic „ là thích hợp nhất vì nó nhấn mạnh đến điều chủ yếu tức là học sinh chế biến lại các tài liệu cảm thụ một cách tự lập, logic và tự lập chuyển từ nhận thức cảm tính sang nhận thức logic trong quá trình giải quyết vấn đề. Theo giáo sư Phan Ngọc Liên và giáo sư Trần Văn Trị, “ Bài tập nhận thức có chức năng nâng cao trình độ tư duy của học sinh, đề cập đến những vấn đề mà học sinh cần nắm để khôi phục hình ảnh quá khứ và chủ yếu đi sâu vào nội dung bản chất sự kiện. Bài tập nhận thức lịch sử có nội dung rộng lớn hơn câu hỏi kiểm tra, đòi hỏi thời gian và công sức của học sinh nhiều hơn và tác dụng, kết quả của nó cũng cao hơn „. Bài tập nhận thức lịch sử phải chứa đựng tình huống có vấn đề, đặt học sinh trước một khó khăn, một mâu thuẫn giữa điều đã biết và chưa biết, nếu không có điều kiện này thì không phải là bài tập nhận thức lịch sử. Giữa câu hỏi và bài tập nhận thức lịch sử có quan hệ với nhau, bài tập nhận thức lịch sử có thể nêu dưới dạng câu hỏi nhưng không phải bất cứ câu hỏi nào cũng là bài tập nhận thức, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- 9 * Phân loại bài tập trong dạy học lịch sử Việc phân loại bài tập nói chung, bài tập lịch sử nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó giúp chúng ta hiểu được vị trí, tác dụng của từng loại để trên cơ sở đó tiến hành xây dựng nội dung và xác định phương pháp thực hiện thích hợp. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau và chưa thống nhất về các loại bài tập. Trong “Tài liệu hội nghị đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn lịch sử”, GS.TS Phan Ngọc Liên đưa ra bốn loại bài tập lịch sử: bài tập nhận thức, bài tập rèn luyện, bài tập thực hành, bài tập trắc nghiệm. Cũng trong tài liệu trên, GS.TS Nguyễn Thị Côi chia làm 4 loại bài tập như: bài tập nhằm hình thành khả năng và xác định bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử, bài tập yêu cầu phân tích, lý giải, nhận xét nhằm hình thành hoạt động đánh giá cho học sinh, bài tập phát triển các năng lực nhận thức cho học sinh và bài tập rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức đã học để hiểu kiến thức mới. PGS.TS Trịnh Đình Tùng thì chia làm 3 loại bài tập: bài tập nhận thức, bài tập thực hành, bài tập trắc nghiệm. 2.3. Phân biệt câu hỏi, bài tập và bài tập nhận thức lịch sử Về mặt chức năng và phương tiện dạy học: Câu hỏi và bài tập trong dạy học Lịch sử có chung bản chất và đều là phương tiện để tổ chức hoạt động nhận thức và kiểm tra, đánh giá kết quả nhận thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo bộ môn cho học sinh. Về hình thức: Câu hỏi và bài tập lại khác nhau. Câu hỏi chỉ nêu lên yêu cầu hoặc nhiệm vụ mà học sinh cần phải trả lời, còn trong bài tập vừa có dữ liệu vừa có yêu cầu và để giải quyết bài tập học sinh cần phải căn cứ vào các dữ liệu đã cho để tìm ra yêu cầu xác đáng. Ví dụ, câu hỏi “Trình bày diễn biến phong trào cách mạng 1930 - 1931”, còn bài tập “Trình bày và phân tích nguyên nhân bùng nổ, diễn biến chính của phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm 1930 – 1931 dưới sự lãnh đạo của Đảng Như vậy, so với câu hỏi bài tập phức tạp hơn và mức độ khó cũng cao hơn đòi hỏi học sinh phải đầu tư thời gian và công sức để giải quyết vấn đề được đặt ra; do đó tác dụng, kết quả đối với nhận thức, giáo dục và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo của các em cũng cao hơn. Nhưng câu hỏi và bài tập là hai phương tiện dạy học có quan hệ gắn bó với nhau. Bài tập chứa đựng một hay nhiều câu hỏi (hoặc yêu cầu), nhưng không phải bất cứ câu hỏi nào cũng được xem là bài tập. Bởi vì, trong bài tập ngoài câu hỏi còn có những dữ liệu (điều kiện). Câu hỏi chỉ trở thành bài tập khi nào nó mang yếu tố “vấn đề” – nêu và giải quyết vấn đề. Một điều cần lưu ý nữa là: Bài tập lịch sử không chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa, lại càng không phải là những lời dặn dò chung chung của giáo viên vào cuối giờ học. Bài tập lịch sử có nội dung rộng hơn câu hỏi kiểm tra đòi hỏi thời gian, công sức và trí tuệ của học sinh nhiều hơn và tác dung, kết quả của nó cao hơn. Bài tập lịch sử được xây dựng trên
- 10 cơ sở một sự kiện quan trọng, một số bài học hay cả quá trình. Nó vừa phù hợp với năng lực nhận thức của học sinh lại vừa có yêu cầu cao đối với các em nhằm củng cố vững chắc bài hoc, tiếp tục hoàn thiện kiến thức giáo dục tính chuyên cần trong học tập, đặc biệt phát huy năng lực nhận thức của học sinh. 2.4 Những yêu cầu, quy trình soạn thảo, quy trình sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử. 2.4.1 Những yêu cầu khi vận dụng câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử Khi vận dụng câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy lịch sử phải đáp ứng các yêu cầu sau: Thứ nhất, câu hỏi, bài tập nhận thức phải tập trung vào trọng tâm của bài, của chương tức là phải biết bám sát chương trình đi sâu vào các vấn đề quan trọng,cốt lõi tạo lập hệ thống tri thức cho học sinh. Thứ hai, câu hỏi, bài tập nhận thức phải đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với trình độ và lứa tuổi học sinh, giúp học sinh khôi phục bức tranh quá khứ theo trình độ của mỗi lớp. Thứ ba, câu hỏi, bài tập nhận thức phải gắn với tình huống có vấn đề nhằm giúp học sinh rút ra bản chất, đặc trưng của sự kiện và quy luật. Bốn là, mối tương quan của câu hỏi, bài tập nhận thức trong quá trình dạy học Năm là, câu hỏi, bài tập nhận thức phải đa dạng, phong phú để không gây nhàm chán cho học sinh, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh xem xét các mặt của đời sống xã hội, sử dụng nhiều cách giải quyết khác nhau, phát triển quá trình nhận thức, hình thành nhân cách học sinh. Thứ sáu, câu hỏi, bài tập nhận thức phải đảm bảo tính hấp dẫn, đó có thể là những vấn đề mà học sinh quan tâm, hoặc vấn đề mới lạ đối với các em, từ đó kích thích tư duy, khuyến khích học sinh suy ngẫm tìm ra đáp án và đi đến tri thức cuối cùng. Thứ bảy, câu hỏi, bài tập nhận thức phải hoàn chỉnh về nội dung và hình thức. Đồng thời, giáo viên phải lựa chọn thời gian thích hợp để đưa ra câu hỏi , bài tập nhận thức. Tùy vào nội dung của mỗi bài mà ta có thể đưa ra câu hỏi, bài tập nhận thức vào đầu giờ học, trong khi trình bày nội dung hay khi kết thúc bài học. 2.4.2. Quy trình soạn thảo câu hỏi, bài tập nhận thức Việc soạn thảo câu hỏi, bài tập nhận thức phải được tiến hành một cách khoa học theo các bước sau : - Xác định kiến thức trọng tâm, cơ bản của bài
- 11 - Phân tích nội dung, các đề mục trong sách giáo khoa, từ đó xác định mục đích xây dựng câu hỏi, bài tập nhận thức - Xác định những nội dung học sinh sẽ nắm qua việc trả lời câu hỏi, bài tập nhận thức và những nội dung học sinh hiểu được qua bài giảng của giáo viên. Tìm thêm các nguồn tài liệu tham khảo để tìm mối liên hệ giữa các nội dung của tài liệu tham khảo và kiến thức của bài để xây dựng bài tập. Tiến hành xây dựng câu hỏi, bài tập nhận thức. - Kiểm tra lại câu hỏi, bài tập nhận thức sau khi xây dựng và lập kế hoạch sử dụng. 2.4.3. Quy trình sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức Để việc sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử đạt kết quả như mong muốn đòi hỏi tính khoa học trong việc soạn thảo câu hỏi, bài tập nhận thức mà quy trình sử dụng cũng cần được chú ý sao cho nó có thể phát huy tối đa tính tích cực nhận thức của học sinh từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Quy trình sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức được tiến hành cụ thể qua những bước sau: - Xác định thời điểm đưa ra câu hỏi, giao bài tập cho học sinh: trước giờ học, trong giờ học, sau khi kết thúc bài học. - Xác định hình thức của câu hỏi, bài tập: có thể là cá nhân độc lập giải quyết hay thảo luận nhóm rồi đưa ra ý kiến. - Hướng dẫn học sinh phương pháp giải quyết vấn đề. - Kiểm tra câu trả lời của học sinh : có đáp ứng được câu hỏi đặt ra và câu trả lời có đủ ý hay chưa. Để lựa chọn được một hệ thống câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử đã là một vấn đề khó nhưng để sử dụng có hiệu quả hệ thống câu hỏi ấy lại càng khó hơn. Hiệu quả mà câu hỏi nhận thức lịch sử đem lại phụ thuộc phần lớn vào các phương pháp sử dụng, khai thác của giáo viên. Thực tế trong quá trình dạy học lịch sử có rất nhiều biện pháp sư phạm để sử dụng câu hỏi nhận thức lịch sử. Vì vậy, người thầy phải nắm vững các biện pháp sư phạm để sử dụng có hiệu quả hệ thống các câu hỏi lịch sử. Dưới đây, tôi xin mạnh dạn nêu ra một số biện pháp sư phạm chủ yếu để sử dụng có hiệu quả các câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử nhằm phát huy tính tích cực và hình thành năng lực chuyên biệt của học sinh trong hoạt động nhận thức lịch sử: 3. Một số phương pháp “ Sử dụng câu hỏi , bài tập phát triển năng lực phần Lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn từ năm 1930 - 1945 , cho học sinh Trường Năng Khiếu Thể Dục Thể Thao Nghệ An ”
- 12 3.1 Sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử để định hướng cho học sinh tiếp nhận kiến thức mới. Trước khi tìm hiểu một vấn đề nào đó, học sinh phải sử dụng các thao tác của tư duy để giải quyết các vấn đề: Đối tượng nhận thức là gì? Phương pháp nhận thức như thế nào? Kết quả nhận thức cần phải đạt được là gì?...Vì vậy, trong các giờ học lịch sử, trước khi truyền thụ kiến thức mới, giáo viên phải định hướng xác định nhiệm vụ nhận thức cho học sinh để hướng học sinh chú ý đến những kiến thức trọng tâm của bài học Phương pháp thực hiện: Thứ nhất, nêu rõ vấn đề nhận thức bằng một hoặc một sốcâu hỏi thể hiện nội dung vấn đề cần nhận thức. Ví dụ : Trước khi dạy bài 15 “Phong trào dân chủ 1936 – 1939” (lớp 12), giáo viên nêu lên 2 câu hỏi làm nhiệm vụ nhận thức, “phong trào dân chủ 1936 – 1939 đã diễn ra trong bối cảnh lịch sử nào?” và “vì sao mục tiêu dân chủ lại được đề cao trong phong tào cách mạng 1936 – 1939?”. Cách định hướng nhiệm vụ nhận thức như vậy đơn giản, dễ thực hiện, nhưng thu hút sự chú ý của học sinh trên cơ sở xác định được những vần đề trọng tâm của bài học mà học sinh cần theo dõi, tiếp thu trong suốt tiến trình dạy học. Thứ hai, định hướng nhiệm vụ nhận thức cho học sinh bằng cách đưa ra một số ý kiến nhận định trái ngược nhau về một sự kiện lịch sử để tạo sự xung đột mâu thuẫn về mặt nhận thức nhằm tạo nên sự chú ý, kích thích suy nghĩ, tìm tòi của học sinh. Ví dụ : khi dạy bài 16 “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 – 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời”. Giáo viên có thể đưa ra định hướng nhiệm vụ nhận thức cho học sinh: “có ý kiến cho rằng, thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 ở nước ta là “sự ăn may”, nó diễn ra trong tình trạng “trống vắng quyền lực”. Các em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao?. Để giải quyết được những nhận định trên các em hãy chú ý theo dõi bài học hôm nay. Với những định hướng nhiệm vụ như vậy, tạo cho học sinh khả năng phân tích, lập luận, chứng minh để bảo vệ quan niệm của mình, đồng thời cũng có nhận định đúng đắn hơn về những nội dung lịch sử mà các em đã học. Thứ ba, sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử để định hướng nhiệm vụ nhận thức cho học viên là cách xác lập mâu thuẫn giữa kiến thức cũ mà các em đã được học với kiến thức mới. Ví dụ: khi dạy bài 16 “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 – 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời” ở mục VII “Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước”, giáo viên có thể định hướng nhiệm vụ nhận thức “chúng ta biết rằng khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 – 3 – 1945, Ban
- 13 Thượng vụ Trung ương Đảng đề ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của ta”, quyết định phát động một “Cao trào kháng Nhật cứu nước”, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa nhưng chưa phát động tổng khởi nghĩa. Khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, Đảng ta mới quyết định tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Vậy tại sao đến lúc này Đảng ta lại mới quyết định Tổng khởi nghĩa? Những nguyên nhân nào làm nên thắng lợi? Ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám Để giải quyết được những vấn đề nêu trên chúng ta sẽ cùng tìm hiểu nội dung của bài học hôm nay. 3.2. Sử dụng câu hỏi, bài tập nhận thức lịch sử để tổ chức hoạt động nhận thức và hình thành, phát triển năng lực của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức mới. Dạy và học là một quá trình bao gồm ba yếu tố: nội dung dạy học, hoạt động của thầy và hoạt động của trò. Ba yếu tố này liên quan hữu cơ, mật thiết với nhau quá trình dạy học nào cũng phải tuân theo những nguyên tắc dạy học nhất định. Những nguyên tắc này là những luận điểm cơ bản chỉ đạo hoạt động của thầy và trò trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Bài học muốn có hiệu quả đòi hỏi phải hình thành kiến thức trên cơ sở của hoạt động tư duy học tập của học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần kết hợp khéo léo việc tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập của học sinh với thông báo kiến thức khoa học, phong phú. Mối quan hệ giữa hoạt động dạy của thầy và hoạt động nhận thức tích cực của trò ở khâu này thể hiện qua các công việc cụ thể sau: Trong dạy học lịch sử quá trình nhận thức của học sinh đi từ tri giác tài liệu đến tạo biểu tượng rồi phân tích so sánh, đối chiếu,… Để tìm ra dấu hiệu bản chất tức là hình thành khái niệm, rút ra quy luật, bài học. Khi bắt đầu trình bày bài học hay một mục giáo viên nêu bài tập để định hướng nhận thức cho học viên. Sử dụng bài tập nhận thức trong quá trình dạy học là giáo viên đưa học sinh vào tình huống có vấn đề buộc các em phải tìm cách giải quyết. Để học sinh trả lời một cách nhanh chóng, đầy đủ giáo viên phải xây dựng một hệ thống câu hỏi phù hợp, hướng dẫn các em suy nghĩ độc lập, sáng tạo, tiếp cận tình huống dưới nhiều góc độ cho phép phát hiện ra những giải pháp cho những tình huống phức tạp. Ngược lại, giáo viên phải đưa ra một hệ thống câu hỏi có mục đích rõ ràng, phù hợp với logic của quá trình nhận thức, gợi nhớ lại những kiến thức đã học và suy nghĩ giải quyết vấn đề mới làm cơ sở cho việc tiếp thu bài. Ví dụ: khi dạy mục III, khởi nghĩa vũ trang dành chính quyền bài 16: “phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám ( 1939 – 1945 ). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, giáo viên đưa ra bài tập nhận thức: tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng ta quyết định Tổng khởi nghĩa dành chính quyền trong toàn quốc?”. Giáo viên gợi ý cho học sinh nhớ lại chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong Hội nghị Trung ương 8 ( 5 – 1941 ). Chủ trương này gồm có 3
- 14 điểm, trong đó nhấn mạnh: khởi nghĩa vũ trang muốn dành thắng lợi phải có đầy đủ những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi – nghĩa là phải có thời cơ. Vậy “thời cơ cách mạng là gì?”. Để hiểu vấn đề này, học sinh xác định các yếu tố của thời cơ cách mạng (kẻ thù không thể thống trị như cũ được nữa, quần chúng nhân dân đã ngả về phía cách mạng, Đảng của giai cấp lãnh đạo đã chuẩn bị sẵn sàng. Tiếp đó giáo viên hỏi: “Các yếu tố này đã xuất hiện đầy đủ ở nước ta lúc bấy giờ chưa?”. Học sinh suy nghĩ, trình bày rõ vấn đề. Cuối cùng, giáo viên kết luận: “Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, ở nước ta đã xuất hiện đầy đủ ba yếu tố trên – nghĩa là thời cơ cho tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Do đó, Đảng ta đã quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đây là một quyết định đúng đắn, kịp thời, sáng suốt. Nhờ vậy, tổng khởi nghĩa đã diễn ra và giành thắng lợi nhanh trong cả nước. Tổng khởi nghĩa đã diễn ra như thế nào? Chúng ta tiếp tục tìm hiểu ở mục tiếp teo”. Sau đó, giáo viên chuyển sang dạy đề mục mới. Cách đặt và hướng dẫn học sinh giải bài tập như vậy, thu hút sự chú ý của học sinh, vì các em vừa được củng cố kiến thức cũ, vừa chuẩn bị lĩnh hội kiến thức mới; nó kích thích tư duy, hình thành phương pháp nhận thức phương pháp giải bài tập. 3.3. Sử dụng bài tập lịch sử để kiểm tra hoạt động kiến thức mới nhằm củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng học tập của học sinh. Củng cố kiến thức là một việc làm rất quan trọng và không thể thiếu trong quá trình dạy học. Việc sử dụng bài tập của giáo viên để kiểm tra lại hoạt động nhận thức kiến thức mới nhằm củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng cho học viên là một việc làm không thể thiếu, nó giúp học sinh hệ thống lại và kiểm tra và khắc sâu thêm những kiến thức vừa lĩnh hội, biết vận dụng kiểm tra đã học để giải quyết một số vấn đề trọng tâm của bài học. Thông thường giáo viên thường sử dụng bài tập này vào cuối giờ học hay cuối một mục, cuối phần của bài học…tùy vào từng nội dung của bài học mà linh động. Hình thức kiểm tra thường: + Kiểm tra nhận thức của học sinh bằng cách sử dụng một số câu hỏi, bài tập mới khái quát hơn để các em trả lời. Ví dụ: khi dạy bài 15, mục III “Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền” giáo viên có thể đưa ra bài tập: “Trên cơ sở kiến thức đã học ở mục này, em hãy chứng minh sự đúng đắn và kịp thời cơ ở chủ trương giành chính quyền của Đảng ta trong Cách mạng tháng Tám – 1945”. Với bài tập này đòi hỏi học sinh phải chứng minh lại được 2 ý: Tính đúng đắn của chủ trương Tổng khởi nghĩa và sự kịp thời của Đảng. Để chứng minh chủ trương khởi nghĩa đúng, học sinh phải hiểu được việc khởi nghĩa vũ trang nổ ra muốn giành thắng lợi thì phải đúng thời cơ và thời cơ ở Việt Nam lúc này đã chín muồi cho cuộc cách mạng nổ ra (Giáo viên gợi mở một số sự kiện về tình hình thế giới lúc bấy giờ cũng như sự chuẩn bị của Đảng và nhân dân ta để học viên dễ dàng định hướng bài tập yêu cầ gì). Chứng minh việc thực hiện chủ trương này kịp thời, học sinh hiểu rằng, thời cơ cách mạng xuất hiện trong điều kiện lịch sử
- 15 lúc bấy giờ (Vì sao tình hình cách mạng ấy chưa đến thời cơ khởi nghĩa). Từ đây các em hiểu nghệ thuật lãnh đạo cách mạng là phải biết nắm thời cơ và đảng ta đã quyết định chủ trương khởi nghĩa kịp thời, điều đó thể hiện trong Quân lệnh số 1, trong nghị quyết của Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân ở Tân Trào. + Sử dụng bài tập trắc nghiệm, bài tập thực hành để kiểm tra nhận thức học viên vào cuối mục hay bài học, nhằm củng cố vững chắc kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành bộ môn của các em. Qua thực tế dạy học chúng tôi thấy việc sử dụng các bài tập trắc nghiệm để kiểm tra nhận thức của học viên vào cuối mục hay cuối bài là một biện pháp rất hiệu quả. Nó giúp cho học sinh sớm biết được kết quả và mức độ nhận thức của học viên để từ đó có biện pháp điều chỉnh quá trình dạy học sao cho cho kết quả tốt nhất. Tuy nhiên trong quá trình chuẩn bị cho các bài tập trắc nghiệm giáo viên cũng cần lưu ý hạn chế đưa ra những câu hỏi trắc nghiệm kiểm tra việc ghi nhớ các sự kiện ngày tháng đơn thuần mà cần chú trọng đến việc kiểm tra mức độ ghi nhớ một số sự kiện cơ bản của bài, của mục, giúp cho học sinh hiểu và nắm được rõ bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử, khắc họa một số nhân vật lịch sử tiêu biểu và nên có một số bài tập trắc nghiệm nâng cao. Khi đưa ra các bài tập trắc nghiệm giáo viên cũng nên chuẩn bị trước như là viết lên giấy sau đó phát cho học sinh hoặc viết lên giấy caro khổ lớn sau đó treo lên phần bảng phụ đề các em đọc và tìm ra câu trả lời. Đối với những bài lưu lượng kiểm tra ít hoặc mục bài ngắn giáo viên có thể đọc các câu hỏi lên bằng nhiều lần để học sinh tìm ra câu trả lời. Ví dụ khi dạy xong bài 14: Phong trào cách mạng 1930 – 1935. Giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi: 1. Phong trào cách mạng 1930 – 1931 phát triển đến đỉnh cao là từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1930? Đ – S 2. Cuộc biểu tình lớn nhất và tiêu biểu nhất của nông dân Nghệ - Tĩnh trong phong trào cách mạng 1930 – 1931 diễn ra ở Nam Đàn. Đ – S 3. Sự kiện chứng tỏ lực lượng cách mạng của Đảng ta đã được phục hồi sau thời kì “Khủng bố trắng” là Đại hội lần thứ nhất của Đảng tổ chức (3 – 1935) Đ – S 4. Nhân tố cơ bản dẫn tới sự bùng nổ phong trào cách mạng 1930 – 1931 là: a. Ảnh hưởng của khủng hoảng thế giới 1929 – 1933 b. Chính sách đàn áp khủng bố người yêu nước của thực dân Pháp. c. Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập với cương lĩnh chính trị đúng đắn d. Thực dân Pháp đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa Yên Bái 5. Trong phong trào cách mạng 1930 – 1931, chính quyền Xô Viết thành lập ở những nơi trong đó có: a. Thanh Chương (Nghệ An), Đức Phổ (Quảng Ngãi) b. Thanh Chương (Nghệ An), Tiền Hải (Thái Bình)
- 16 c. Nam Đàn (Nghệ An), Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) d. Thanh Chương (Nghệ An), Nghi Xuân (Hà Tĩnh) 6. Nội dung quan trọng nhất của hội nghị Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng (10 – 1930) là: a. Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam b. Cử Ban chấp hành Trung ương chính thức c. Đồng chí Trần Phú được cử làm tổng bí thư đầu tiên của Đảng d. Thông qua luận cương chính trị của Đảng Hoặc sau khi học xong bài tập này giáo viên có thẻ yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ và điền tên các địa phương đã lập được chính quyền Xô Viết cấp xã. + Sử dụng bài tập để kiểm tra nhận thức và giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức đã học. Ví dụ: khi dạy xong bài 14: Phong trào cách mạng 1930 – 1935. Giáo viên có thể đưa ra bài tập nhận thức: “Vì sao nói phong trào 1930 – 1931 là cuộc diễn tập lần thứ nhất, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng 8 – 1945”. Để giải quyết được bài tập này học sinh phải kiểm tra lại toàn bộ nội dung bài học mà giáo viên vừa truyền đạt để tìm ra câu trả lời sao cho hợp lí nhất. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên học viên trả lời: - Nó khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng các nước ở Đông Dương. - Từ phong trào, khối liên minh công – nông hình thành, công nhân và nông dân đã đoàn kết với nhau trong đấu tranh cách mạng. - Phong trào thể hiện sức mạnh của công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với việc tham gia giải quyết bài tập này sẽ làm cho giờ học thêm sôi nổi, kích thích hứng thú học tập và phát huy tính tích cực học tập của các em, đồng thời khả năng lập luận của học sinh cũng sẽ được nâng cao hơn. Đối với dạng bài tập này giáo viên nên sử dụng vào cuối giờ học nhằm thu hút học sinh trao đổi, tranh luận và tìm được cách trả lời của mình. Giáo viên nên chuẩn bị bài tập này trước, viết lên giấy caro khổ lớn sau đó thì treo lên bảng để cả lớp cùng thảo luận và lấy ý kiến phản chiều từ các em. Giáo viên tổng kết sửa bài, học sinh ghi chép bài vào vở. + Sử dụng bài tập dưới dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan, loại bài tập này có thể kiểm tra được khả năng tái hiện và nhận thức lịch sử của các em. Ngày 28/9/2016, Bộ GD&ĐT công bố phương án tổ chức kỳ thi THPT quốc gia 2017 với nhiều thay đổi. Rõ nét nhất là sẽ có các bài thi theo tổ hợp và các bài
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 37 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sử dụng các biến nhớ của máy tính điện tử cầm tay trong chương trình Toán phổ thông
128 p | 148 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ phân bố thời gian giúp học sinh giải nhanh bài tập trắc nghiệm liên quan đến thời điểm và khoảng thời gian trong mạch dao động
24 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa lí 10, 12
31 p | 66 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống, khắc sâu kiến thức Hoá học hữu cơ lớp 12 cơ bản
30 p | 43 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập dưới dạng đề kiểm tra sau mỗi bài học, để học sinh làm bài tập về nhà, làm tăng kết quả học tập môn Hóa
13 p | 26 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Infographic nhằm nâng cao hiệu quả và tăng hứng thú học tập Ngữ văn của học sinh THPT
15 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p | 56 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bản đồ tư duy (mind map) để tổng hợp kiến thức ôn thi tốt nghiệp và đại học cho học sinh khối 12
6 p | 53 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 34 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 47 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 61 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải để phát triển năng lực tư duy cho học sinh
106 p | 25 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bảng hệ thống kiến thức nhằm nâng cao chất lượng trong ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông phần Lịch sử Việt Nam (1919-1945)
47 p | 40 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép một số tư liệu lịch sử Bình Long trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 -1975
16 p | 52 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn