Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm để cảm hóa học sinh chưa tích cực lớp 12 - THPT
lượt xem 2
download
Mục đích của sáng kiến là góp phần thêm vào công tác giáo dục học sinh chưa tích cực. Đồng thời cùng nhau nghiên cứu một số phương pháp giáo dục để ngày càng lành mạnh và trong sạch hóa môi trường giáo dục trong quá trình xây dựng sự nghiệp giáo dục.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm để cảm hóa học sinh chưa tích cực lớp 12 - THPT
- MỤC LỤC PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………… 1 1. Lí do chọn đề tài: ………………………………………………………………. 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: …………………………………………….. 2 3.Thời gian thực hiện và triển khai SKKN: ………………………………………. 2 4. Tính mới của đề tài: ……………………………………………………………. 2 5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: ………………………………………………. 3 6. Phương pháp nghiên cứu: ……………………………………………………… 3 PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ………………………………………… 3 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: ……………………………………………………………. 3 1.1. Khái niệm học sinh chưa tích cực: …………………………………………… 3 1.2. Một số căn cứ để giáo dục học sinh chưa tích cực: ………………………….. 4 1.3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm: …………………………………………….. 4 1.4. Một số giải pháp giáo dục tích cực: ………………………………………….. 5 II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: ………………………………………………………… 6 1. Thực trạng đạo đức, lối sống, lý tưởng của học sinh nói chung và của học sinh trường THPT X nói riêng: ………………………………………………………... 6 1.1. Các biểu hiện tích cực: ………………………………………………………. 6 1.2. Các biểu hiện tiêu cực: ………………………………………………………. 7 2. Thực trạng giáo dục cảm hóa học sinh chưa tích cực của giáo viên: …………. 10 3. Phương pháp phân loại: ……………………………………………………….. 11 III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ……………………………………………………. 14 1.Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh, phân loại theo nhóm: …………………. 14 2. Đừng phân biệt các em quá rõ ràng, đừng để các em bị cô lập trong lớp: ……. 17 3. Biện pháp kiên trì tạo niềm tin, dùng tình yêu thương để thay đổi một con người: ……………………………………………………………………………. 19 4. Biện pháp giao nhiệm vụ, kiểm tra kết quả và yêu cầu các em viết nhật ký: … 23 5. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình: ……………………………… 25 6. Kết hợp một số yếu tố khác: ………………………………………………….. 26 6.1. Giáo viên chủ nhiệm cần kết hợp với các giáo viên bộ môn: ………………. 26
- 6.2. Kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với Đoàn trường, Ban giám hiệu nhà trường:………………………………………………………………………. 26 6.3. Giáo dục các em thông qua sinh hoạt trường và sinh hoạt lớp: …………….. 28 6.4. Kết hợp với hội Phụ huynh học sinh và các tổ chức đoàn thể ở địa phương:.. 30 6.5. Phương pháp kết bạn và mời một số học sinh khác cộng tác hỗ trợ:………... 32 IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI: ………………………………………………… 33 V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: ………………………………………….………… 35 PHẦN III: KẾT LUẬN ………………………………………………………… 39 1. Kết luận: ………………………………………………………………………. 39 2. Đề xuất: ……………………………………………………………………….. 40 PHỤ LỤC: ………………………………………………………………………. 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO: …………………………………………………….. 46
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài: Hiện nay, do xu thế hội nhập kinh tế thị trường, mặt trái của xã hội len lỏi khắp nơi, trong mọi ngóc ngách của cuộc sống. Nó tác động mạnh mẽ đến tuổi trẻ làm cho các em mất phương hướng, suy nghĩ lệch lạc, phẩm chất đạo đức không tốt. Trong đó lứa tuổi học sinh dễ bị kích động, bởi lứa tuổi này vừa có cá tính tò mò khám phá, vừa nhạy cảm thích làm người lớn. Người làm công tác giáo dục chưa thực sự quan tâm sâu sắc đến việc giáo dục nhân cách học sinh. Đứng trước tình hình đó, bản thân là một giáo viên chủ nhiệm cần phát huy tinh thần trách nhiệm của mình nhiều hơn đối với học sinh. Công tác giáo dục gắn chặt vai trò của giáo viên chủ nhiệm nhất là trong công việc giáo dục học sinh chưa tích cực. Với trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của mình bằng mọi cách phải giúp các em có được nhận thức đúng đắn trong lao động, học tập, phải uốn nắn các em từ người “chưa tốt” trở thành người “tốt”. Nếu không khéo sẽ làm hỏng cả một thế hệ của các em, đồng thời cũng là một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Bản thân tôi nhiều năm làm công tác chủ nhiệm nên có điều kiện tiếp xúc với nhiều đối tượng học sinh: học sinh ngoan, học sinh xuất sắc, học sinh khá, học sinh trung bình và cả học sinh chưa ngoan (hay còn gọi là học sinh chưa tích cực). Các em học sinh này thường làm cho giáo viên đau đầu để tìm cách cảm hóa. Giáo dục học sinh chưa tích cực là công việc rất khó khăn đầy gian nan và thử thách, đòi hỏi người giáo viên phải có trái tim yêu nghề, yêu trẻ và đầy lòng nhân ái. Một trong những đổi mới của Giáo dục và Đào tạo hiện nay là tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh chưa tích cực được thể hiện rõ trong nghị quyết của Đảng, luật Giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật Giáo dục đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân. Công tác giáo dục học sinh chưa tích cực là công tác không thể thiếu của người giáo viên đứng lớp. Học sinh chưa tích cực, những đối tượng này chỉ chiếm số ít của lớp nhưng đối với vai trò của giáo viên chủ nhiệm thì đây là vấn đề tương đối khó khăn trong công tác chủ nhiệm, không khéo sẽ làm ảnh hưởng đến những học sinh khác. Từ đó để làm tốt công tác giáo dục học sinh chưa tích cực thì đòi hỏi người giáo viên không những giỏi về chuyên môn mà còn giỏi về công tác chủ nhiệm, giàu lòng nhân ái, vị tha, kiên trì, nhiệt tình, biết tôn trọng nhân cách học sinh, được các em tin yêu và cha mẹ học sinh tín nhiệm, có sức cảm hóa thuyết phục, có bản lĩnh để xử lý kịp thời các tình huống sư phạm đa dạng, đối xử công bằng trong nhận xét đánh giá đối với học sinh. Như vậy nhiệm vụ của người giáo 1
- viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến việc học tập cũng như rèn luyện nhân cách của học sinh. Với những lý do trên, bằng những kinh nghiệm tích lũy của bản thân trong những năm làm công tác chủ nhiệm, tôi viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Sử dụng một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm để cảm hóa học sinh chưa tích cực lớp 12 - THPT”. Với đề tài nay hi vọng ít nhiều sẽ góp phần thêm vào công tác giáo dục học sinh chưa tích cực. Đồng thời cùng nhau nghiên cứu một số phương pháp giáo dục để ngày càng lành mạnh và trong sạch hóa môi trường giáo dục trong quá trình xây dựng sự nghiệp giáo dục. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 12 trường THPT X, Huyện X,Tỉnh Nghệ An. Đề tài được nghiên cứu và áp dụng tại lớp 12 tôi chủ nhiệm trường THPT X trong năm học 2018-2019 và 2019-2020. 3.Thời gian thực hiện và triển khai SKKN: Kế hoạch viết đề tài: Từ tháng 10 năm 2017 Đăng ký tên SKKN: tháng 8 năm 2020 Viết đề cương cơ bản của SKKN: Tháng 8 năm 2020 Viết đề cương chi tiết của SKKN: Tháng 9→11 năm 2020 Viết SKKN: Từ tháng 11 năm 2020 đến đầu tháng 3 năm 2021 4. Tính mới của đề tài: Với đề tài “Sử dụng một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm để cảm hóa học sinh chưa tích cực lớp 12- THPT”, bản thân tôi muốn đưa ra một số biện pháp giáo dục tích cực để giúp cho những học sinh chưa tích cực từng bước thay đổi, nhận thức được sai lầm của mình và sẽ có thái độ học tập theo hướng tích cực. Giúp các em biết tôn trọng bản thân mình và xác định được sự quan trọng của việc học. Giúp cho các em thấy được cha mẹ có công lao rất lớn, đã vất vả nuôi con ăn học. Giúp các em nhận ra sự vất vả và công lao to lớn của thầy cô trong công việc truyền đạt kiến thức và giáo dục đạo đức nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh. Từ đó các em sẽ hiểu và biết làm gì để không phụ lòng mong mỏi của bố mẹ, thầy cô giáo. Bên cạnh đó phần nào giúp cho các thầy cô quan tâm hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với công tác chủ nhiệm cũng như nghề nghiệp của mình. Nhà trường và giáo viên phải xác định mình chính là nơi để giúp các em trở thành những công dân tốt, tạo nên những “sản phẩm” giáo dục tốt nhất mà xã hội yêu cầu; thành công trong giáo dục học sinh chưa tích cực sẽ góp phần quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự xã hội và cung cấp cho xã hội những công dân tốt. Đối với gia đình, cha mẹ học sinh, giáo dục học sinh chưa tích cực sẽ đem lại 2
- nguồn hạnh phúc lớn lao cho họ, giúp họ tránh được nỗi bất hạnh lớn nhất là con cái hư hỏng. Đối với tập thể lớp đó là điều kiện đảm bảo cho lớp ổn định, trật tự, nề nếp, các thành viên trong lớp sẽ cùng nhau tu dưỡng và học tập đạt kết quả tốt. 5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc giáo dục học sinh chưa tích cực tạo ra cơ sở thực tiễn. Từ đó xây dựng những phương pháp sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh chưa tích cực ở lớp chủ nhiệm. Giáo dục học chưa tích cực có một ý nghĩa rất to lớn đối với xã hội, với nhà trường, với gia đình các em và với chính bản thân các em. Đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm cảm hóa các em chưa tích cực có tính khả thi, góp phần đổi mới phương pháp giáo dục các em có hiệu quả. Mục đích cuối cùng của người viết sáng kiến kinh nghiệm là sự chia sẻ kinh nghiệm với nhau để mỗi giáo viên chủ nhiệm có thể đào tạo những thế hệ học sinh có Tài, có Tâm, biết hướng đến chân - thiện - mỹ của cuộc sống. 6. Phương pháp nghiên cứu: Để tiến hành làm đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ qua sách báo, nhân chứng, mạng Internet, các đề tài nghiên cứu liên quan... + Phương pháp phỏng vấn, trao đổi, tâm sự, phân tích, thuyết phục, quan sát. + Phương pháp so sánh, đối chiếu. + Phương pháp khen thưởng và trách phạt. + Áp dụng kinh nghiệm, phương pháp mới trên lớp học. + Đánh giá kết quả ban đầu và điều chỉnh bổ sung. + Kiểm tra đánh giá cuối cùng và hoàn chỉnh công việc. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1.1. Khái niệm học sinh chưa tích cực: Đầu tiên ta hãy hiểu rõ một chút về khái niệm này nhé. Học sinh chưa tích cực là thuật ngữ mà mọi người hay sử dụng đối với các em học sinh quậy phá, nghịch ngợm, hay đánh nhau, gây mất trật tự trong lớp và trong trường học. Các em học sinh này thường hay bỏ học, bỏ tiết và hay gây rối trong lớp, làm ảnh hưởng đến phong trào thi đua nề nếp, học tập của lớp. Mặc dù thầy cô, tập thể góp ý xây dựng nhiều lần nhưng vẫn “chứng nào tật nấy”, không thay đổi. Các em này không tuân theo nội quy của nhà trường và làm theo ý của bản thân. Đa phần các 3
- em ở độ tuổi thiếu niên, nó biểu hiện tâm sinh lý thay đổi ở tuổi mới lớn. Nếu không có cách khắc phục, các em này dễ dàng bị người xấu lôi kéo, dẫn đến các tệ nạn xã hội. 1.2. Một số căn cứ để giáo dục học sinh chưa tích cực: Căn cứ vào thông tư 32/2020/TT-BGDĐT về ban hành Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học. Căn cứ vào thông tư 08 - Hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh các trường phổ thông. Trong thông tư có viết: 1. Việc khen thưởng và thi hành kỷ luật đối với học sinh là một trong các biện pháp giáo dục quan trọng trong nhà trường phổ thông, nhằm mục đích: - Khuyến khích học sinh phấn đấu vươn lên, noi theo các gương tốt để tu dưỡng và rèn luyện bản thân. - Ngăn chặn không để các hiện tượng sai trái phát triển, giáo dục các học sinh phạm sai lầm, giúp các học sinh này phấn đấu trở thành học sinh tốt. - Thúc đẩy học sinh tự giác thực hiện quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao ý thức góp phần xây dựng mọi nề nếp, kỷ cương trong nhà trường. 2. Việc khen thưởng và kỷ luật đối với học sinh được thực hiện đúng đắn sẽ góp phần tích cực vào việc củng cố và phát triển phong trào thi đua “Hai tốt” trong nhà trường phổ thông từng bước thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường và từng cấp học. 3. Đối tượng khen thưởng và thi hành kỷ luật: Đối tượng khen thưởng là những học sinh gương mẫu, thực hiện nhiệm vụ của mình đã được Bộ quy định. Đối tượng thi hành kỷ luật là những học sinh có khuyết điểm tương đối nghiêm trọng, vi phạm những quy định về nhiệm vụ năm học đã được Bộ quy định. Căn cứ vào thông tư 26/2020/TT-BGDĐT về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐTngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1.3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm: Là người trực tiếp thay mặt nhà trường giáo dục học sinh, là người thực hiện sự phối hợp, liên kết bền chặt với giáo viên bộ môn, các đoàn thể trong nhà trường, giữa gia đình - nhà trường - xã hội. Giáo dục đạo đức học sinh là một công việc đòi hỏi sự kiên trì, cần phải có tâm huyết với nghề; có phương pháp chủ nhiệm tốt với một kế hoạch toàn diện, hợp lý. Từ việc tìm hiểu, nắm bắt hoàn cảnh gia đình, năng lực từng học sinh, học sinh có hoàn cảnh khó khăn … đến việc xử lý tình 4
- huống. Đòi hỏi cần có sự nghiêm khắc của người thầy đồng thời phải có tấm lòng yêu thương, thể hiện trách nhiệm, lòng vị tha, thông cảm chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, dành thời gian để tâm sự và cho các em những lời khuyên bảo chân tình, tạo được niềm tin động lực cho học sinh phấn đấu hoàn thiện. Hình ảnh người thầy ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh, chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm không những cần năng lực chuyên môn, mà còn đòi hỏi phải thật sự là tấm gương sáng về tác phong, tư cách đạo đức; chuẩn mực trong trang phục, lời nói, cách ứng xử… như vậy lời nói của giáo viên chủ nhiệm mới có trọng lượng với học sinh. Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh, phụ huynh học sinh và các tổ chức đoàn thể nhằm giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh đặc biệt là giáo dục học sinh có các hành vi đạo đức thiếu chuẩn mực. Giáo viên chủ nhiệm phải nắm được đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình học sinh chưa tích cực. Để từ đó cảm thông, tránh sự xúc phạm vô tình đến các em và đồng thời tạo nhiều điều kiện hơn để các em phát huy học tập và rèn luyện. Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu, khai thác những điểm tốt và điểm yếu cơ bản nhất của học sinh để tác động làm thay đổi tính cách của học sinh chưa tích cực. Giáo viên chủ nhiệm phải hiểu những suy nghĩ và những điều học sinh muốn. Có như vậy mới giúp các em tháo gỡ được những điểm yếu của mình để đạt được điều mình mong muốn chính đáng. 1.4. Một số giải pháp giáo dục tích cực: Căn cứ vào những thực trạng đã điều tra, cả những nguyên nhân dẫn đến thực trạng ấy. Tôi nhận thấy rằng, bởi lẽ các em trở thành học sinh chưa tích cực như vậy là do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến những nguyên chính là do: hoàn cảnh gia đình, sự thờ ơ của xã hội và gia đình trong việc giáo dục và dạy dỗ các em. Từ đó tôi có cơ sở để đề xuất các giải pháp như sau: + Đối với giáo viên bộ môn: Mỗi giáo viên bộ môn phấn đấu dạy tốt môn học của mình, chú ý đến mọi đối tượng học sinh, để tận tình giúp đỡ các em tiếp thu tốt nhất kiến thức mình truyền đạt. Tích cực nâng cao chất lượng giờ dạy, chú trọng yêu cầu hiệu quả việc lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh trong môn học, giờ học. Trong đó các môn như Ngữ văn, Lịch sử, Điạ lý đặc biệt là môn Giáo dục công dân có vị trí quan trọng đối với việc trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về phẩm chất, đạo đức về quyền và nghĩa vụ công dân sẽ giúp học sinh có thái độ tích cực và thực hiện những hành vi phù hợp chuẩn mực đạo đức. 5
- Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh thường xuyên; phải theo dõi các mối quan hệ của học sinh và giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh, lý tưởng sống và lòng yêu nước. Ở bậc THPT là thời điểm các em dần hoàn thiện về tâm sinh lý và luôn hiếu kỳ, tò mò, muốn khám phá thế giới xung quanh, vì vậy phải dạy cho học sinh cách tiếp cận và thu nhận thông tin từ thực tiễn cuộc sống và vận dụng nó một cách đúng đắn vào cuộc sống. + Phía gia đình và nhà trường: Giữa nhà trường và gia đình phải có sự kết hợp chặc chẽ, sự kết hợp giáo dục này phải diễn ra thật tế nhị và thường xuyên. Tránh những hành động nóng nảy của gia đình đối với học sinh như: đánh con hay có những lời nói khó nghe khi nghe cô giáo đến thưa chuyện …. Phải thuyết phục được gia đình tạo mọi điều kiện tốt nhất để con em mình học tập, đồng thời nhắc nhở phụ huynh phải thường xuyên quan tâm đến việc học của con em mình. Gia đình phải xem việc giáo dục con em không phải là chỉ riêng nhà trường mà cần phải có một phần trách nhiệm rất lớn từ gia đình. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: 1. Thực trạng đạo đức, lối sống, lý tưởng của học sinh nói chung và của học sinh trường THPT X nói riêng: 1.1. Các biểu hiện tích cực: Được khẳng định công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh hiện nay đã có nhiều tiến bộ; sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong toàn bộ hệ thống chính trị được tăng cường; việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để chung tay giáo dục học sinh có lối sống lành mạnh, tích cực học tập, nghiên cứu khoa học và sống có trách nhiệm đã được quan tâm đúng mức. Học sinh hiện nay nói chung và học sinh trường THPT X nói riêng có tinh thần yêu quê hương đất nước, tin tưởng, chấp hành đường lối, chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật của nhà nước. Đa số học sinh đều xác định được mục tiêu sống, có lý tưởng phấn đấu rõ ràng với động cơ học tập nghiêm túc; tích cực tham gia các hoạt động, các phong trào “xung kích, sáng tạo, tình nguyện vì cộng đồng…”; biết chia sẻ, hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn. * Về phẩm chất, tư tưởng chính trị: Hầu hết học sinh có tinh thần yêu quê hương đất nước, tin tưởng và chấp hành đường lối, chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước và sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đa số học sinh đồng ý việc cần thiết phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế hội nhập với thế giới hiện nay; quê hương, cội nguồn dân tộc vẫn là quan trọng. Đa số học sinh đều xác định được mục tiêu cuộc sống, có lí tưởng phấn đấu rõ ràng với động cơ học tập nghiêm túc, tích cực và chủ động với tinh thần vượt khó; 6
- có ý chí vươn lên trong học tập, rèn luyện và đưa ra được yêu cầu tính tích cực, chủ động, linh hoạt là yếu tố quan trọng giúp học sinh thành công trong học tập. * Về đạo đức: Đa số học sinh có nhận thức và hành vi trân trọng các giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Các phẩm chất như nhân ái, tương thân tương ái giúp đỡ nhau, sống có nghĩa tình, cần cù kiên trì, hiếu học, tôn sư trọng đạo, trung thực, đoàn kết được đại đa số học sinh nhận thức và phát huy. Hầu hết học sinh có ý thức trách nhiệm với gia đình, với việc học tập rèn luyện và bản thân. Học sinh đều biết và thực hiện sống, làm việc tuân thủ theo pháp luật; ý thức và trách nhiệm công dân được tăng cường hơn rất nhiều. Học sinh tích cực tham gia các hoạt động tập thể, các phong trào, xung kích, sáng tạo, tình nguyện vì cộng đồng. Phong trào tình nguyện do Trung ương Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức đã trở thành phong trào chung, thường xuyên trong tất cả các nhà trường với nhiều hình thức phong phú. * Về lối sống: Học sinh THPT hiện nay đều có lối sống lành mạnh, biết chia sẻ, hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn trong các phong trào quyên góp ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, thiên tai. Phần lớn học sinh có lối sống văn hóa, tinh thần lành mạnh, phong phú và phê phán những tiêu cực, tệ nạn xã hội và các hành vi trái thuần phong mĩ tục của dân tộc, không sa vào tệ nạn xã hội. Tích cực tham gia các hoạt động, phong trào thi đua, cuộc vận động do ngành Giáo dục, ngành Văn hóa tổ chức phát động. Trong cuộc sống hiện đại, với xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì mọi người cần hợp tác với nhau hơn. Học sinh quan niệm rằng hợp tác giúp tạo nên sức mạnh và khiến cho công việc đạt hiệu quả hơn. Đồng thời, học sinh vẫn giữ được nếp sống yêu lao động, tiết kiệm, giản dị, khiêm tốn, tôn trọng sự khác nhau về cá tính và tôn trọng người khác. Như vậy, hầu hết học sinh THPT ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc, gia đình và bản thân, ra sức phấn đấu lao động, học tập, rèn luyện về mọi mặt với khát vọng cống hiến hết mình vì tương lai tươi sáng của dân tộc. 1.2. Các biểu hiện tiêu cực: Phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận học sinh ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng: Không chịu học tập, học lấy lệ, gian dối trong thi cử kiểm tra, học tập mang tính gò ép của cha mẹ, cho rằng sướng khổ do số trời…. 7
- Một bộ phận không nhỏ chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật ...điều này thể hiện rõ qua biểu hiện: Thiếu lễ phép với với cha mẹ, thầy cô... thích gây gỗ, quấy rối, đánh nhau, trộm cắp, cướp giật mà những điều đó cũng bởi vì đam mê cờ bạc, số đề, nghiện chơi games… Những biểu hiện đó làm ảnh hưởng đến những quan điểm về tình bạn, tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên, nhất là khi chưa được trang bị và thiếu kiến thức về vấn đề này. Tất cả những suy nghĩ lệch lạc đó dần dần ảnh hưởng xấu đến động cơ, ước mơ hoài bão vươn lên; lý tưởng trống rỗng, mục đích trông chờ, mờ nhạt, tư tưởng thực dụng… Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của chính bản thân, gia đình, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Cụ thể, đạo đức trong học đường đang có nguy cơ xuống cấp, mơ hồ về truyền thống dân tộc, chê bai tinh hoa dân tộc trong khi đó đua đòi xính ngoại…. Một bộ phận học sinh rơi vào những tệ nạn xã hội, bạo lực học đường; không kính trọng thầy cô, xem thường bạn bè, mọi người xung quanh; không hiếu thảo với ông bà cha mẹ; thiếu tính nhân đạo; các em mê games bỏ học hoặc tự tử vì games; … Đối với học sinh trường THPT X - nơi tôi công tác cũng còn có những học sinh bộc lộ một số biểu hiện chưa tốt về đạo đức, lối sống, lý tưởng: Một số học sinh có biểu hiện chán nản, không thích học, không xác định được động cơ học tập nên bỏ học hoặc học để lấy tấm bằng tốt nghiệp THPT… Một số học sinh thường xuyên vi phạm, không chấp hành nội quy của nhà trường: gây mất trật tự trong lớp, nói tục, nói dối thầy cô và bạn bè,… Còn hiện tượng học sinh bỏ học, hút thuốc lá, chơi games. Có hiện tượng gây gổ đánh nhau trong trường, có các hành vi ngôn ngữ, ứng xử thiếu văn hóa. * Nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa tích cực * Từ gia đình: Một số ít phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến giáo dục con cái, còn nuông chiều, phó mặc cho nhà trường, thậm chí có phụ huynh còn bất lực trước con cái. Một số ít phụ huynh chưa có phương pháp giáo dục con cái đúng theo khoa học, còn nặng bạo lực, chửi bới con cái làm tổn hại đến thân xác và tinh thần của các em. 8
- Lứa tuối các em rất nhạy cảm nên gia đình nào có bố mẹ hay bất hoà, cãi vã, không có hạnh phúc, các em dần dần bị ảnh hưởng tâm lí như nhút nhát, sống khép mình, buồn phiền, ít nói. Nặng hơn các em có thể bị trầm cảm, do đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học, từ đó học lực của các em sẽ giảm sút dẫn đến chán học. Một số học sinh lại có bố mẹ li hôn nên hụt hẫng về mặt tình cảm và ở với ông bà, thiếu thốn sự quan tâm chăm sóc, nhắc nhở của bố mẹ nên việc học của các em cũng bị ảnh hưởng rất nhiều. Do sự buông lỏng, thiếu trách nhiệm và sự quan tâm của gia đình, những éo le trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách của các em. Gia đình có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ phải lao động vất vả, không quan tâm đến việc học tập của các em, phó mặc cho nhà trường, có gia đình buộc con cái phải lao động, làm cho các em không có thời gian học tập ở nhà như soạn bài mới, học bài cũ, do đó khi đến lớp việc tiếp thu bài mới rất khó khăn, lo lắng, sợ sệt khi thầy cô kiểm tra bài cũ… từ đó thua sút bạn bè và phát sinh tâm lí chán học dẫn đến trốn học, bỏ học. Bố mẹ đều đi làm ăn xa vì lo kinh tế cho gia đình đã phó mặc con cái cho ông bà hoặc anh chị em chăm sóc. Vì vậy nếu các em chưa ý thức tốt về việc học tập, đồng thời bố mẹ không quan tâm, thiếu sự quản lí chặt chẽ của người lớn nên chất lượng học tập bị ảnh hưởng, các em sẽ học tập yếu thua sút bạn bè. Có gia đình tuy không khó khăn về kinh tế nhưng lo làm giàu, bỏ mặc con cái, không quan tâm đến việc học của các em. Những gia đình này lại nuông chiều các em về vật chất, cho nhiều tiền tiêu vặt khi đến lớp, dần dần sẽ hình thành đức tính không tốt ở các em. Do hoàn cảnh gia đình một số em rất khó khăn, bố mẹ phải đi làm các em hay nghỉ học để ở nhà trông em; do đó các em bị mất kiến thức và trở thành học sinh chưa tích cực. * Từ xã hội: Thực trạng những mặt xấu của xã hội. Trong điều kiện xã hội hiện nay từng giờ, từng ngày những cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực của xã hội dội vào trường học và tác động đến học sinh. Sự tác động của phim ảnh, games online, bị bạn bè không tốt lôi kéo, mải chơi, sớm có những mối quan hệ tình yêu không lành mạnh, thích đua đòi, ăn diện làm cho các em dễ dàng bắt chước dần dần làm cho các em trở thành học sinh chưa ngoan..., thậm chí là vi phạm pháp luật. Các dịch vụ kinh doanh trò chơi giải trí như: điện tử, chát, game, bida... mọc lên rất nhiều là những điểm thu hút học sinh chưa ngoan, làm cho các em đam mê 9
- dẫn đến bỏ học, thậm chí còn nẩy sinh những hành động trộm cắp, bắt nạt học sinh lớp dưới để lấy tiền... * Từ bản thân học sinh: Đối với học sinh bậc trung học phổ thông, hầu hết các em bước sang giai đoạn phát triển toàn diện về thể chất, nên đặc điểm tâm lý của các em rất dễ bị kích động do những yếu tố xã hội bên ngoài, các em thường tự khẳng định mình là người lớn, nên các em thấy mình có quyền giải quyết các vấn đề theo kiểu người lớn, tự quyết định cho bản thân mình mà không nghe theo sự giáo dục của người khác kể cả cha mẹ. Một số nghĩ rằng thầy cô sẽ không làm gì được mình ngoài việc nhắc nhở, hăm dọa, mời phụ huynh… Từ đó mà các biểu hiện chưa tích cực dần dần xuất hiện. Những biểu hiện chưa tích cực của học sinh lại rất khác nhau về mặt hình thức cũng như mức độ nên giáo viên chủ nhiệm lớp cũng rất khó trong việc phát hiện và có biện pháp xử lý. Dĩ nhiên trong trường nào cũng vẫn có một số học sinh chưa tích cực, bị cám dỗ, còn sa ngã vào những trò chơi vô bổ, thậm chí hút hít, cờ bạc, trộm cắp… nhưng đó chỉ là con số nhỏ. Đối với thầy cô làm công tác chủ nhiệm trước hết phải hiểu biết về tâm lý lứa tuổi của các em để có giải pháp xử lý tình huống cho phù hợp. Trong lớp có rất nhiều đối tượng học sinh, học sinh giỏi, học sinh khá, học sinh trung bình, và học sinh yếu kém. Đối với học sinh khá giỏi thường các em rất có ý thức, nghe lời thầy cô, các em sẽ thấy hối hận khi mình lỡ vi phạm và các em sửa đổi những khuyết điểm của mình một cách tự giác rất nhanh. Nhưng đối với học sinh yếu kém (học sinh chậm tiến) khi vi phạm các em sửa đổi rất chậm, thậm chí là không sửa đổi mà còn vi phạm ngày càng tăng lên dẫn đến học lực ngày càng sa sút và kết quả phải lưu ban hoặc bỏ học giữa chừng. Do đó giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải nắm rõ các đối tượng của mình để có hướng giáo dục cho phù hợp. Làm thay đổi thái độ học của học sinh từ “xấu chuyển sang tốt” góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường và giảm tỉ lệ bỏ học hằng năm. 2. Thực trạng giáo dục cảm hóa học sinh chưa tích cực của giáo viên: Thực tế cho thấy một số trường luôn lấy thành tích và chạy đua theo thành tích mà quên đi nhiệm vụ cao cả của nghề dạy học là giáo dục nhân cách, đạo đức cho học sinh từng bước hoàn thiện, từ cái chưa thành cái có, giáo dục, cảm hóa học sinh chưa ngoan, nghịch ngợm thành học sinh ngoan. Mặc dù đã được đào tạo kỹ lưỡng, nhưng mỗi giáo viên có năng khiếu, sở trường riêng. Về chuyên môn phần lớn đáp ứng nhu cầu giảng dạy, nhưng về kỹ năng quản lý, giáo dục học sinh trong công tác chủ nhiệm thì chắc không phải ai cũng làm tốt nhất là việc giáo dục học sinh chưa tích cực. Một số giáo viên còn lúng túng chưa tìm ra những biện pháp thích hợp trong việc quản lí giáo dục học sinh, chưa quan tâm đúng mức tới những học sinh có 10
- hoàn cảnh đặc biệt (những em quá đầy đủ vật chất, được chiều chuộng, và ngược lại những em lại có hoàn cảnh khó khăn quá thiếu thốn về vật chất, những em có hoàn cảnh éo le, những em có cá tính bất thường…). Một số giáo viên lại “ngại” khi phải xử phạt học sinh chưa tích cực vì sợ các em bỏ học làm giảm sĩ số của lớp, ảnh hưởng đến chỉ tiêu của trường. Một số giáo viên lại ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, chưa trở thành chỗ dựa tinh thần cho các em mỗi lúc gặp khó khăn, thiếu tâm huyết với nghề, chưa quan tâm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi lệch lạc của học sinh. Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến học sinh chưa tích cực, thường hay sử dụng các biện pháp mạnh như trách mắng các em trước lớp làm cho các em mặc cảm, tự ti dẫn đến chán nản, lười đi học. Đa số giáo viên chưa thực sự gần gũi với các em nên không nắm bắt kịp thời được tâm tư, nguyện vọng của các em, do đó có biện pháp giáo dục không phù hợp. Trường THPT X chúng tôi nằm ở vùng gần biển. Người dân ở đây sống bằng nghề làm muối, đánh bắt cá và trồng rau. Kinh tế gia đình của hầu hết các em còn nghèo, các em phải dành nhiều thời gian giúp đỡ gia đình. Tuy nhiên, suy nghĩ của một số em là không học được thì về đi buôn bán rau, đánh bắt cá, lại bị bạn bè rủ rê, lôi kéo….sinh ra chán học và trở nên hư hỏng. Bên cạnh đó, phụ huynh các em dành hầu hết thời gian làm ăn, ít quan tâm tới việc học và các mối quan hệ bạn bè của các em, và phó mặc việc giáo dục các em cho nhà trường. Số lượng học sinh toàn trường khá đông, mỗi năm trên một nghìn rưỡi học sinh nên việc quản lí học sinh gặp nhiều vất vả, khó khăn. Năm nào cũng có một số học sinh chưa tích cực. 3. Phương pháp phân loại: Để đạt hiệu quả cao trong việc cảm hóa học sinh chưa tích cực tôi đã tiến hành: Nghiên cứu hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh sống của học sinh chưa tích cực (60% học sinh chưa ngoan, chưa tích cực là do ảnh hưởng từ gia đình). Nghiên cứu hồ sơ học sinh, vào đầu năm học tôi tiến hành phát cho học sinh 01 tờ hồ sơ học sinh. Trong hồ sơ đó học sinh sẽ khai đầy đủ các thông tin lý lịch về bản thân, sở thích, ước mơ, nguyện vọng... Qua hồ sơ này, tôi sẽ dễ nắm bắt được những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Nghiên cứu qua học bạ về kết quả học tâp, rèn luyện của học sinh qua những năm trước đó. Nghiên cứu qua những nhận xét, đánh giá của bạn bè đặc biệt là người thân của các em, qua cha mẹ học sinh, qua tổ chức đoàn đội và qua giáo viên chủ nhiệm những năm trước. 11
- Nghiên cứu hoạt động giao tiếp giữa giáo viên và học sinh. Quá trình quan sát, tiếp xúc của giáo viên và học sinh sẽ giúp cho giáo viên có thêm những hiểu biết tâm lý, tính cách, nhận thức của học sinh. Nghiên cứu nhân cách của các em qua lời nói: Thường thì các em ăn nói cộc lốc, thiếu Dạ - Thưa, ngôn ngữ tỏ ra vô lễ với thầy cô và người lớn. Trình bày vấn đề gì thường ấp a ấp úng, hay nói dối và tìm cách chạy tội. Đối với bạn bè thường sử dụng lời nói có vẻ bề trên, lời nói có tích chất đe dọa, bắt nạt, hù dọa học sinh khác, có khi sử dụng xảo ngôn để lừa dối bạn bè và thầy cô… Nghiên cứu qua cử chỉ hành động: Học sinh chưa tích cực thường có những hành động thái quá, vô lễ. Trước mặt thầy cô thường tỏ ra lì lợm, ngang bướng, không biết vâng lời, thậm chí tỏ vẻ thách thức với thầy cô, có khi tỏ ra nghe lời nhưng giả dối. Với bạn bè thường có những hành động gây gỗ, đánh lộn nhau gây mất đoàn kết, thường hay bắt nạt học sinh khác một cách vô cớ. Nghiêm trọng hơn là có những hành động vi phạm pháp luật như trộm cắp, đánh lộn hay bỏ học chơi la cà, vào các quán chơi games… Nghiên cứu qua quan hệ bạn bè và người khác: Học sinh chưa tích cực thường có những quan hệ bạn bè và người khác hết sực phức tạp. Đối với bạn bè tốt các em thường ngại tiếp xúc, tìm cách xa lánh… Bởi sợ các bạn tố giác và phản ánh đến nhà trường, gia đình những điều mình sai phạm. Học sinh chưa tích cực thường tìm cách lôi kéo những học sinh chưa ngoan khác vào cuộc để thành lập nhóm, bè phái. Các em thường quan hệ với người xấu hoặc bị những người xấu lôi kéo làm những điều chưa đúng…. Đối với những giáo viên dạy môn Ngữ Văn có thể phân loại được học sinh bằng chính những đề văn kiểm tra trên lớp. Giáo viên có thể ra một số đề bài như: “Em hãy tâm sự với Thầy /Cô? Em hãy viết bài văn tự sự kể về bản thân mình?... Qua những đề văn này, học sinh chưa tích cực có cơ hội để tâm sự, chia sẻ với Thầy/Cô rất nhiều. Qua đó không chỉ hiểu được học sinh mà còn tạo được tình cảm, sự tin cậy của học sinh đối với mình. * Kết quả phân loại: Nhóm 1: Chưa tích cực là do vi phạm nội quy nhà trường, của lớp, mất trật tự trong giờ học, lười học bài, đi học muộn…. Nhóm 2: Chưa tích cực là do trốn học đi chơi điện tử, lừa dối cha mẹ, thầy cô, giả mạo chữ ký của bố mẹ trong sổ lên lạc hoặc giấy xin phép. Nhóm 3: Chưa tích cực là do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy cô giáo, cha mẹ, hay nói tục, chửi bậy, dọa nạt bạn bè thậm chí đánh nhau, lãng tránh các hoạt động tập thể. Nhóm 4: Chưa tích cực là do vi phạm pháp luật, đánh bạn, trộm cắp, chấn lột,… 12
- Nhóm 5: Chưa tích cực là do những em có trí tuệ và khả năng nhận thức bình thường nhưng rất lười biếng, lêu lổng, học kiểu “tài tử” dẫn đến hổng kiến thức, hay quay cóp trong học tập. Kết quả học tập thất thường, sút kém, luôn xếp “đội sổ” dẫn đến chán học. Từ kết quả phân loại từng nhóm học sinh chưa tích cực tôi có sử dụng phiếu thăm dò ý kiến của một số giáo viên làm công tác chủ nhiệm trong trường tôi đang công tác. Số phiếu điều tra là 10 phiếu. Tôi sử dụng 5 câu hỏi. Các thầy cô lựa chọn theo các giải pháp sau: 1. Báo cáo với phụ huynh. 2. Báo cáo với Ban giám hiệu và Đoàn trường. 3. Giáo viên chủ nhiệm tự giải quyết hoặc kết hợp với giáo viên bộ môn. 4. Giáo viên chủ nhiệm không làm gì và bỏ qua. TT Nội dung câu hỏi Giải pháp 1 2 3 4 1 Các thầy cô làm 7/10 GV 2/10 GV 1/10 GV 0/10 GV gì khi học sinh vi = 70% =20% =10% = 0% phạm nội quy nhà trường, của lớp, mất trật tự trong giờ học, lười học...? 2 Các thầy cô làm 5/10 GV 1/10 GV 3/10 GV 1/10 GV gì đối với học sinh =50% = 10% =30% = 10% trốn học đi chơi điện tử, lừa dối cha mẹ, thầy cô, giả mạo chữ ký của bố mẹ trong sổ liên lạc hoặc giấy xin phép? 3 Các thầy cô xử lý 5/10 GV 3/10 GV 2/10 GV 0/10 GV tình huống đối với em =50% = 30% =20% =% học sinh vô lễ với thầy cô, nói tục, chửi bậy, dọa nạt bạn bè, đánh nhau, lãng tránh các hoạt động tập thể như thế nào? 13
- 4 Các thầy cô có 7/10 GV 2/10 GV 1/10 GV 0/10 GV biện pháp gì đối với = 70% =20% = 10% = 0% em học sinh vi phạm pháp luật, đánh bạn, trộm cắp…? 5 Các thầy cô làm 6/10 GV 1/10 GV 2/10 GV 1/10 GV gì với những em có trí = 60% =10% = 20% =10% tuệ và khả năng nhận thức bình thường nhưng rất lười biếng, lêu lổng, học kiểu tài tử dẫn đến hổng kiến thức? Thông qua phiếu điều tra này tôi thấy phần lớn là giáo viên chủ nhiệm thông báo cho gia đình các em hoặc nhà trường và đoàn trường giải quyết vấn đề. Giáo viên chủ nhiệm chưa thực sự đưa ra các giải pháp tích cực. Trước thực trạng này tôi xin đưa ra một số giải pháp sư phạm cảm hóa một số học sinh chưa tích cực. III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ * MỘT SỐ BIỆN PHÁP CẢM HÓA HỌC SINH CHƯA TÍCH CỰC Nguyên nhân chủ yếu là do tâm lý của tuổi “dậy thì”, thích thể hiện mình và dễ bị lôi cuốn theo những thói hư tật xấu dẫn đến bỏ học và có nguy cơ trở thành những đối tượng xấu. Đây là vấn đề gây trăn trở không chỉ trong nhà trường mà cả trong gia đình và xã hội. Dưới đây là một số phương pháp giúp giáo viên gần gũi và nhận được sự tương tác của những học sinh chưa tích cực này. 1. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh, phân loại theo nhóm: 14
- Là giáo viên chủ nhiệm, đầu năm học chúng ta nên xây dựng một kế hoạch đi thăm gia đình một số học sinh trong lớp. Ngoài ra ta cũng tìm hiểu hoàn cảnh một số em trong lớp qua bạn bè của những học sinh đó để có biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng. Theo các chuyên gia tâm lý giáo dục thì phần lớn tính cách nghịch ngợm của các em hầu hết bắt nguồn từ gia đình. Ta có thể chia nhóm này ra 3 dạng: Nhóm 1: Dạng học sinh ương ngạnh do gia đình quá chiều chuộng Trên thực tế có một số gia đình khá giả quá chiều chuộng con cái cả về vật chất lẫn tinh thần. Nghĩa là cho các em tiêu tiền, sử dụng đồng tiền theo ý thích hoặc dễ dàng tha thứ khi các em mắc phải những khuyết điểm. Nên ngay từ nhỏ các em đã có cá tính ương ngạnh, sống ích kỷ, muốn được mọi người chiều theo ý mình. Dạng học sinh này thường bỏ bê việc học hành, bị các thành phần khác lợi dụng, thường tỏ ra sống vương giả, thường bảo kê, rủ rê các học sinh khác bỏ học vào quán, vào các dịch vụ vui chơi... tụ tập với các bạn đã nghỉ học, nên ít nghe lời thầy cô, tỏ ra cứng đầu, khó bảo và chậm tiến bộ. Các em này thường thích thể hiện bản thân, chứng tỏ cho người khác thấy mình đã lớn và thích tự cho trong mọi hành động. * Biện pháp xử lý: * Đối với học sinh: Tôi tâm sự, trao đổi thuyết phục, phân tích để các em nhận thấy rằng: Ông bà, cha mẹ nào cũng giàu lòng thương con nhưng tình thương ấy bị các em lạm dụng, đòi hỏi ở cha mẹ quá nhiều thì mình trở thành người có tội và phụ lại tấm lòng yêu thương của cha mẹ, ông bà. Tiền bạc của cha mẹ làm ra xét cho cùng cũng là mồ hôi nước mắt, sự vất vả lăn lộn trong cuộc sống mới có được. Việc tiêu tiền đúng mục đích, phù hợp với công việc thì đồng tiền ấy mới có ý nghĩa, mới là con ngoan trong gia đình. Còn chi phí vào việc ăn chơi đua đòi khác nào chà đạp lên công sức của cha mẹ. Ngoài ra, tôi có thể đưa ra môt số ví dụ về sự vượt khó biết vươn lên của một số bạn xung quanh để thức tỉnh em, dần dần “mưa dầm thấm lâu” tách em ra khỏi những trò chơi vô bổ và tránh xa một số bạn xấu. * Đối với phụ huynh: Tôi trực tiếp gặp gỡ trao đổi, phân tích cho họ thấy không nên cho các em tiền một cách thoải mái, không nên nuông chiều con một cách quá mức, phải theo dõi sự chi tiêu của các em, sự kết bạn vui chơi của các em ở nhà, ở trường. Nếu thoải mái, lỏng lẻo; việc cho tiền các em và không nghiêm khắc khi các em mắc lỗi khác nào đưa con mình vào con đường tội lỗi. Qua việc trao đổi thẳng thắn, phân tích với học sinh và phụ huynh, nhiều em đã tiến bộ rất nhanh, ngăn chặn được nhiều em theo chiều hướng xấu. Một số phụ 15
- huynh đã nhận ra những sai lầm của mình. Họ càng lo lắng quan tâm theo dõi các em sát sao hơn và phối hợp tốt với nhà trường để giáo dục. Nhóm 2: Dạng học sinh chưa tích cực do gia đình bỏ rơi thiếu quan tâm: Trong cuộc sống có nhiều gia đình chỉ biết lo làm ăn kinh tế, thiếu quan tâm, kiểm tra, đôn đốc việc học hành của con cái. Chuyện học của con được chăng hay chớ. Có thể do quá bận công việc làm ăn, buôn bán, thường phải đi xa nhà để con tự lập sinh sống, năm bảy hôm đi làm ăn xa mới về nhà hoặc buôn bán bận rộn quá không có thời gian quan tâm đến con… Dạng học sinh này thực ra do không có người quản lý, quan tâm nên mới chưa ngoan (hiện nay dạng học sinh này khá phổ biến). Lúc đầu các em lơ là việc học, học yếu dần rồi chán học. Khi bố mẹ phát hiện ra con mình hư hỏng mới quan tâm rồi la mắng, đánh đập, trút giận lên thân con. Nhưng thực ra lại gây áp lực thêm cho con. Bởi ở trường bạn bè, thầy cô rầy la, quở trách vì làm ảnh hưởng đến thi đua của tập thể lớp, về nhà bố mẹ lại gắt gỏng, giận dữ, thậm chí còn trút lên mình con những trận đòn roi vô cớ…, cho nên các em này đang hư hỏng trở nên lì lợm, bướng bỉnh, quậy phá… * Biện pháp xử lý: * Đối với học sinh: Bản thân tôi trực tiếp gặp gỡ trao đổi, tâm sự, phân tích việc sai trái của các em, chỉ rõ cho các em thấy việc bố mẹ bận rộn lo làm ăn kinh tế để xây dựng gia đình mà mình lơ là việc học là sai trái, thiếu trách nhiệm với gia đình, là người con bất hiếu. Bên cạnh đó tôi sẽ luôn đồng hành cùng các em, quan tâm các em cả ở trường và ở nhà, vừa làm bạn, làm thầy và làm cha mẹ để các em thấy có niềm tin mà phấn đấu. Phần lớn các em nhận ra lỗi và sữa chữa. * Đối với phụ huynh: Bản thân tôi gặp gỡ và trao đổi phân tích từng cá tính học sinh và chỉ ra cho phụ huynh thấy được việc con mình chưa ngoan là hậu quả của việc thờ ơ vô trách nhiệm, thiếu quan tâm, chu đáo, khoán trắng việc học hành cho các em. Giúp họ nhận ra việc thiếu sót của mình và định hướng cho họ cần phải phối kết hợp với nhà trường để theo dõi và giáo dục các em. Cần tránh dùng những biện pháp mạnh, thô bạo như đánh đập, chửi mắng mà nên “lạt mềm buộc chặt”, lấy tình cảm và sự quan tâm để cảm hóa giáo dục các em trở thành người tốt. Chớ vội thất vọng, chán nản mà buông thả các em. Nhiều phụ huynh đã nhận ra và kết hợp với nhà trường làm rất tốt nên các em tiến bộ rất rõ. Nhóm 3: Dạng học sinh chưa tích cực có hoàn cảnh khá đặc biệt: Nói đến hoàn cảnh đặc biệt ở đây tôi muốn đề cập đến một số em sống và lớn lên trong một gia đình bất hạnh như bố mẹ li dị, bố mẹ mất sớm phải ở với người thân, bố mẹ bất hoà hay đánh đập, chửi mắng hoặc sinh ra không biết bố.... Học sinh chưa tích cực ở dạng này thường tỏ ra lạnh lùng, bất cần, tự ti, mặc cảm 16
- không muốn ai quan tâm chia sẻ đến mình, cho rằng sự quan tâm của người khác là sự thương hại, bố thí.... Chính vì vậy các em luôn có tâm trạng ấm ức, uất hận... đời sống tinh thần và vật chất của các em gặp nhiều khó khăn. Đây là học sinh có cá tính mạnh, ngoan cố rất đáng lo; nếu không giáo dục tốt các em thì sẽ là gánh nặng cho xã hội sau này. Việc cảm hoá được học sinh này là một quá trình gian khổ đầy thử thách. * Biện pháp xử lí: * Đối với học sinh: Đối với dạng học sinh này chúng ta cần lấy tấm lòng chân thật, tìm cách gần gũi để chia sẻ tình cảm với các em. Điều tế nhị không nên động chạm đến tình cảm đau thương của các em. Tránh dùng những hình thức kỉ luật nặng gây tổn thương tình cảm dẫn đến các em dể hiểu nhầm trên đời này không có ai thương mình hoặc mình là thứ bỏ đi... Phải làm sao cho các em tin tưởng ở mình và cảm thấy mình là chỗ dựa tinh thần của các em. Cần phân tích, định hướng cho các em phải có nghị lực phấn đấu vượt lên trên số phận. Gieo vào lòng các em suy nghĩ và hành động đúng đắn tránh buông xuôi, chán chường vì hoàn cảnh, yếu hèn nhút nhát là đáng chê trách. * Đối với phụ huynh (hoặc người đỡ đầu): Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi em tôi tìm cách tiếp xúc đến phụ huynh. Đối với những phụ huynh là người đỡ đầu (Ông bà, chú, bác....) tôi động viên họ cố gắng quan tâm giáo dục các em thật nhiều, đem hết trái tim yêu thương để quản lí dạy bảo các em; tránh đừng để các em đau lòng qua lời nói vì trong lòng các em đã sẵn nỗi đau rồi. Riêng đối với học sinh chỉ còn cha hoặc mẹ hay vì lí do nào đó cha mẹ không chung sống với nhau thì tôi khuyên phụ huynh nên quan tâm chăm sóc tinh thần cho các em; hãy phân tích cho các em hiểu để chia sẻ hoặc nhờ người thân trong gia đình khuyên nhủ động viên các em. Đối với những học sinh thuộc nhóm này tôi rất chú ý đến đời sống vật chất của các em. Nếu các em thực sự gặp khó khăn về vật chất tôi đề nghị lên lãnh đạo nhà trường, đoàn trường quan tâm chiếu cố miễn giảm tất cả các khoản thu cho các em. Bên cạnh đó, tôi tâm sự và kêu gọi tập thể lớp đùm bọc chia sẻ các em một cách kín đáo, tế nhị. 2. Đừng phân biệt các em quá rõ ràng, đừng để các em bị cô lập trong lớp: Điều tối kỵ nhất trong giáo dục học sinh chưa tích cực là làm các em rơi vào trạng thái thấy mình là kẻ cá biệt và cô lập trong lớp rồi nảy sinh những phản ứng tiêu cực. Vậy nên những cách xưng hô như “học sinh cá biệt”, “vô học”, “vô trị”, “hư hỏng”, “hết thuốc chữa” rất dễ làm các em tổn thương và phản ứng mạnh hơn. Bởi khi bước sang độ tuổi này, học sinh rất dễ tự ti và mặc cảm về bản thân, hình 17
- thành nên suy nghĩ thầy cô, bạn bè đều ghét bỏ mình. Từ đó khoảng cách giữa thầy và trò càng lớn hơn, các em sẽ tự cô lập mình lại, ít giao lưu, tiếp xúc với tập thể. Khi lớp có một hoạt động gì đó để cả lớp tham gia thì giáo viên hay phân biệt và ít cho các em này tham gia vì sợ hỏng công việc. Và còn nhiều nữa các vấn đề khác mà đôi khi chúng ta quá tách biệt các em ra khỏi tập thể lớp. Thay vì chăm chăm vào khuyết điểm và vi phạm của học sinh, giáo viên nên cố gắng tìm hiểu để phát hiện ra những điểm mạnh của trò như năng khiếu thể thao,văn nghệ... tạo cơ hội và điều kiện để học sinh được thể hiện năng khiếu của mình. Từ đó làm cho các em tự tin hơn trong việc hòa đồng với thầy cô và tập thể lớp. Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho các em học sinh chưa tích cực này tham gia, xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực để các em có cơ hội tự thể hiện mình. Công tác này thực sự đặc biệt có ý nghĩa đối với học sinh trầm cảm, tự ti. Các em sẽ mạnh bạo, tích cực hơn trong học tập và rèn luyện cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khóa, rèn luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ. Có một số học sinh tự ti, sống khép kín, ngại tiếp xúc, tôi đã cùng các em trong lớp giúp đỡ, quan tâm, kéo em vào các hoạt động vui chơi, thi đua học để dần dần phá vỡ vỏ ốc mà các em ẩn mình. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 40 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sử dụng các biến nhớ của máy tính điện tử cầm tay trong chương trình Toán phổ thông
128 p | 148 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ phân bố thời gian giúp học sinh giải nhanh bài tập trắc nghiệm liên quan đến thời điểm và khoảng thời gian trong mạch dao động
24 p | 25 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa lí 10, 12
31 p | 66 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống, khắc sâu kiến thức Hoá học hữu cơ lớp 12 cơ bản
30 p | 43 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập dưới dạng đề kiểm tra sau mỗi bài học, để học sinh làm bài tập về nhà, làm tăng kết quả học tập môn Hóa
13 p | 27 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Infographic nhằm nâng cao hiệu quả và tăng hứng thú học tập Ngữ văn của học sinh THPT
15 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p | 56 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bản đồ tư duy (mind map) để tổng hợp kiến thức ôn thi tốt nghiệp và đại học cho học sinh khối 12
6 p | 55 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải để phát triển năng lực tư duy cho học sinh
106 p | 25 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bảng hệ thống kiến thức nhằm nâng cao chất lượng trong ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông phần Lịch sử Việt Nam (1919-1945)
47 p | 40 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép một số tư liệu lịch sử Bình Long trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 -1975
16 p | 53 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn