![](images/graphics/blank.gif)
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm ở trường THPT miền núi Tương Dương
lượt xem 6
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm ở trường THPT miền núi Tương Dương; Phát huy hiệu quả cao hơn các phương pháp kỷ luật học sinh, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm ở trường THPT miền núi Tương Dương
- PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ. I. Lí do chọn đề tài. Hiện nay nước ta đang tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Gần đây, Bộ GD-ĐT đã ban hành Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT về Điều lệ trường THCS, THPT (có hiệu lực từ ngày 1-11-2020). Đối với cấp THCS và THPT, học sinh vi phạm khuyết điểm trong quá trình học tập, rèn luyện, tùy theo mức độ vi phạm có thể được giáo dục hoặc thực hiện kỷ luật theo các hình thức sau đây: Nhắc nhở, hỗ trợ, giúp đỡ trực tiếp để HS khắc phục khuyết điểm; khiển trách, thông báo với cha mẹ nhằm phối hợp giúp đỡ HS khắc phục khuyết điểm; tạm dừng học ở trường có thời hạn và thực hiện các biện pháp giáo dục khác theo quy định của Bộ GD-ĐT. Qua đó cho thấy so với các quy định về việc xử lý kỷ luật học sinh trước đây, quy định mới đã xóa bỏ nhiều hình thức kỷ luật cũ như cảnh cáo, đuổi học điều này đã thể hiện được tinh thần “giáo dục tích cực” mang tính nhân bản, nhân văn trong việc phát triển con người Việt Nam trong thời đại mới và phù hợp với quy luật phát triển của xã hội hiện tại mà chúng ta đang hướng tới. Với điều khoản về việc không đuổi học HS mà tạo điều kiện cho các em thay đổi môi trường, và mức kỷ luật cao nhất là tạm dừng học tập có thời hạn là phù hợp với những quan điểm đổi mới trong một số bộ luật mới của nước ta, phù hợp Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em và Luật Trẻ em được Quốc hội ban hành năm 2016. Để hướng tới mục tiêu giáo dục tích cực nhằm giúp học sinh nhận ra cái sai và tự mình uốn nắn,sửa chữa theo khuôn phép để theo kịp cuộc sống hiện nay.Vấn đề đặt ra cho giáo viên chúng ta,nhất là các thầy cô chủ nhiệm cần thiết phải thay đổi cách nghĩ, cách làm để có hình thức giáo dục kỷ luật phù hợp, đúng mực, mô phạm hơn, nhờ thế tìm ra phương pháp sư phạm tốt nhất, tích cực nhất, để giáo dục học sinh chấp hành kỷ luật và ngày càng tiến bộ hơn. Phương pháp giáo dục kỉ luật tích cực đã cho thấy rõ tính ưu việt, phù hợp với nguyên tắc giáo dục và hiện đã trở thành một phương pháp giáo dục quan trọng, được triển khai rộng rãi trong các nhà trường, nhận được sự hưởng ứng, đồng tình cao của xã hội. Qua thực tiễn hơn 20 năm dạy học và làm chủ nhiệm tại trường THPT miền núi Tương Dương, nơi có hơn 90% học sinh là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu vùng xa bản tính hiền lành,nhút nhát, có phần tự ti, mặc cảm do học yếu, thiếu tự tin trong giao tiếp song tính tự ái rất cao. Phần lớn học sinh THPT đều phải xa nhà, trọ học cuộc sống gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần, nhất là thiếu sự quan tâm, chăm sóc, bảo ban hàng ngày của bố mẹ, làm cho nhiều em sống thiếu tích cực, học hành ngày càng sa sút. Những điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến nề nếp, học tập của lớp, của trường. Vốn dĩ học sinh miền núi thường 1
- mặc cảm và dễ tổn thương lòng tự trọng, nếu giáo viên chủ nhiệm vẫn thường dùng biện pháp trách phạt để giáo dục học sinh thì sẽ có nhiều em muốn bỏ học.Từ thực tế đó tôi thiết nghĩ phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực học sinh thực sự là niềm mong mỏi và thu hút được sự quan tâm, đồng thuận của rất nhiều giáo viên, phụ huynh, học sinh ở vùng miền núi chúng tôi. Do đặc thù vùng miền ở đây thầy, cô chủ nhiệm lớp chẳng khác gì người bố, người mẹ thứ hai của các em để có thể thấu hiểu, chia sẻ và giúp đỡ học sinh kịp thời nhất những lúc gặp khó khăn trong cuộc sống xa nhà. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm ở trường THPT miền núi Tương Dương” làm sáng kiến kinh nghiệm. Với mong muốn đóng góp một chút kinh nghiệm cùng đồng nghiệp học hỏi, trao đổi để làm tốt hơn công tác chủ nhiệm lớp ở ngôi trường miền núi này. II. Mục đích nghiên cứu. Khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi hướng đến mục đích nghiên cứu là: -Sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm ở trường THPT miền núi Tương Dương. - Phát huy hiệu quả cao hơn các phương pháp kỷ luật học sinh, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. - Chia sẻ với đồng nghiệp một số kinh nghiệm mà chúng tôi đã áp dụng tại lớp chủ nhiệm: 12I,12E( niên khóa 2020- 2023) và lớp 11L ( năm học 2021- 2022), trường THPT Tương Dương 1. III. Đối tượng nghiên cứu. - Tìm hiểu, nghiên cứu về thực trạng, các giải pháp sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm ở trường THPT miền núi Tương Dương. - Học sinh lớp 12I,12E và lớp 11l trường THPT Tương Dương1- một trường miền núi của huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. IV. Phương pháp nghiên cứu. Tiến hành thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Dựa trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn đề xuất các biện pháp quản lí, chỉ đạo đổi mới phương pháp chủ nhiệm lớp bằng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực ở trường THPT, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. 2
- - Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực. - Điều tra, phỏng vấn, khảo sát, phân tích, kiểm tra đánh giá, đối chiếu kết quả. - Triển khai các hoạt động giáo dục thông qua các tiết sinh hoạt lớp, sinh hoạt 15 phút đầu giờ, trong quá trình làm công tác chủ nhiệm… V. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về phương pháp giáo dục kỉ luật tích cực. - Khảo sát thực trạng ý thức, nhận thức của HS trường THPT Tương Dương 1. - Áp dụng các phương pháp giáo dục KLTC thông qua công tác chủ nhiệm lớp. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm, phân tích kết quả thu được. Đánh giá hiệu quả việc áp dụng các phương pháp giáo dục KLTC cho HS miền núi trường THPT Tương Dương 1. VI. Những đóng góp của đề tài. - Nghiên cứu lý luận về phương pháp giáo dục KLTC. - Xác định được thực trạng ý thức, nhận thức của học sinh THPT Tương Dương 1 để làm cơ sở thực tiễn cho việc áp dụng phương pháp giáo dục KLTC. - Thực hiện được các giải pháp giáo dục KLTC cho học sinh THPT miền núi trong hoạt động chủ nhiệm lớp. - Nhận thấy được hiệu quả của phương pháp giáo dục KLTC trong giáo dục nhân cách HS, giảm thiểu tình trạng HS miền núi bỏ học, sa vào các tệ nạn xã hội. PHẦN 2: NỘI DUNG. I. CƠ SỞ LÍ LUẬN. 1. Phương pháp giáo dục kỉ luật tích cực. 1.1. Khái niệm . Giáo dục kỷ luật tích cực là cách GD dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của HS; không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của HS; có sự thỏa thuận giữa GV- HS và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của HS. Cụ thể là: - Những giải pháp/biện pháp giáo dục phải mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỉ luật, tự giác của học sinh. - Thể hiện rõ ràng những mong đợi, quy tắc và giới hạn học sinh phải tuân thủ. - Gây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh. - Dạy cho HS những kỹ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời. 3
- - Phát huy tính tự giác tuân theo các quy định và quy tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như về lâu dài. - Làm tăng sự tự tin và khă năng/kĩ năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và cuộc sống của các em. - Dạy cho HS cách cư xử lịch sự, nhã nhặn, không bạo lực, có sự tôn trọng bản thân, biết cảm thông và tôn trọng quyền của người khác. - Động viên, khích lệ thực hiện hành vi, xây dựng sự tự tin, lòng tự trọng và tính trách nhiệm, giúp HS phát triển toàn diện nhân cách, không làm cho các em bị tổn thương. (5 T: Tốt nhất cho HS, Tổn thương không làm,Thỏa thuận,Tâm sinh lí, Tự giác) => Giáo dục kỉ luật tích cực là việc dạy và rèn luyện cho HS tính tự giác tuân theo các quy định và quy tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt và lâu dài. 1.2. Sự cần thiết phải sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực trong trường học. a. Thực trạng các biện pháp trừng phạt thân thể (TPTT) và xúc phạm tinh thần của học sinh trong các trường THPT – nguyên nhân và hậu quả - Trừng phạt thân thể trẻ em là các hành vi, thái độ, lời nói do người lớn hoặc người có quyền gây ra nhằm giáo dục trẻ nhưng làm tổn thương các em về thể xác hoặc tinh thần. - Ở Việt Nam từ trước đến nay, việc sử dụng các biện pháp trừng phạt thân thể và xúc phạm tinh thần khi HS mắc lỗi vẫn diễn ra khá phổ biến với nhiều mức độ và hình thức khác nhau . * Nguyên nhân của việc sử dụng các các biện pháp trừng phạt thân thể và xúc phạm tinh thần khi học sinh mắc lỗi - Quan niệm sai lầm về giáo dục kỉ luật HS: Một bộ phận không nhỏ các thành viên trong xã hội còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến: Trong giáo dục truyền thống, quan niệm “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt, cho bùi” cho đến nay vẫn được nhiều giáo viên và các bậc phụ huynh áp dụng. Ở nước ta hiện nay ngành giáo dục đã có văn bản chỉ đạo: thầy cô không được xúc phạm nhân cách học sinh dưới bất kì hình thức nào, nhưng trong thực tế nhiều thầy cô vẫn áp dụng các biện pháp xử phạt gây tổn thương về thể chất và tinh thần của học sinh,gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến uy tín nhà giáo. Nguyên nhân của hiện tượng trên là do một số giáo viên còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến.(Quan niệm xưa cho rằng, muốn dạy trẻ thì ngay từ nhỏ trẻ phải được giáo dục bằng đòn roi thì mới nên người, thầy cô có quyền đánh mắng, xử phạt...học sinh phải chịu đựng, phải chấp hành, không được cãi lại). Do quan niệm sai lầm về giáo dục học sinh thông qua sử dụng các hình thức kỷ luật, thiếu 4
- hiểu biết về tâm sinh lí học sinh, thiếu quan tâm, tình yêu thương đối với học sinh. Thiếu hiểu biết về các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực đề giáo dục học sinh. *Hậu quả của trừng phạt thân thể và xúc phạm tinh thần học sinh: Biện pháp trừng phạt thân thể không mang lại hiệu quả do không giải quyết được tận gốc vấn đề học sinh đang gặp phải. Khi học sinh phạm lỗi, giáo viên sử dụng biệp pháp trừng phạt thân thể để giáo dục thì không những không giải quyết được vấn đề mà đôi khi còn dẫn đến hậu quả khôn lường vì những vấn đề cốt lõi, nguyên nhân chủ yếu chưa được giải quyết một cách tích cực. Các biện pháp trừng phạt này ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển trí tuệ, nhân cách của học sinh. Ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục (hs chán học, học tập sa sút , thậm chí bỏ học)gây hệ lụy cho kết quả học tập, đến việc thu hút học sinh đến trường, ảnh hưởng đến mối quan hệ thầy trò, đến cảm xúc, công việc của giáo viên, đến gia đình, cộng đồng và xã hội. b. Trừng phạt thân thể HS là hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp của người GV, vi phạm luật pháp Quốc gia và Quốc tế * Vi phạm quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên: Chuẩn nghề ngiệp GV TH quy định: Tiêu chí 2. Đạo đức nghề nghiệp: Yêu nghề, gắn bó với nghề dạy học, chấp hành luật giáo dục, điều lệ, quy chế, quy định của ngành; có ý thức tổ chức kỉ luật và tinh thần trách nhiệm; giữ gìn phẩm chất; danh dự, uy tín cùa nhà giáo; sống trung thực, lành mạnh, là tấm gương tốt cho học sinh. Tiêu chí 3. Ứng xử với học sinh: Thương yêu, tôn trọng, đối xử công bằng với học sinh, giúp học sinh khắc phục khó khăn để học tập và rèn luyện tốt. Tiêu chí 13. Xây dựng môi trường học tập: Tạo dựng môi trường học tập: dân chủ, thân thiện, hợp tác, cộng tác, thuận lợi, an toàn và lành mạnh. * TPTT trẻ em là vi phạm luật pháp quốc gia và quốc tế. Về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp giáo dục kỉ luật mang tính trừng phạt thân thể là hành vi vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. +Các văn bản quốc gia về:- Luật pháp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (Điều 7, Điều 14.) -Bộ luật hình sự (Điều 104, Điều 110,Điều 110.) - Luật giáo dục 2005 và được sửa đổi bổ sung năm 2009: Điều 72. Nhiệm vụ của nhà giáo Nhà giáo có những nhiệm vụ sau đây: “Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách người học, đối xử công bằng với người với người học, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người học”. 5
- Điều 75. Các hành vi nhà giáo không được làm Nhà giáo không được làm các hành vi sau đây: “Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm hại thân thể người học” Điều 118. Xử lí vi phạm “Người nào có một trong các hành vi sau đây thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lí kỉ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” -Nghị định số 114/2006/NĐ-CP của chính phủ quy định xử phạt hành chính về dân số và trẻ em(Điều 17) + Văn bản quốc tế Công ước về Quyền trẻ em đã được hầu hết các quốc gia kí tham gia có những điều khoản quy định về quyền trẻ em được bảo vệ để tránh khởi mọi hình thức bạo lực:( Điều 19, Điều 29) => Cần chấm dứt trừng phạt thân thể và xúc phạm tinh thần HS vì: - Trừng phạt thân thể và xúc phạm tinh thần HS gây ra những hậu quả nặng nề cho cá nhân, gia đình, nhà trường và xã hội; - Không phù hợp với mục tiêu giáo dục; - Vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. 1.3. Lợi ích của việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực. * Lợi ích của việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực đối với học sinh và giáo viên Để thấy lợi ích của giáo dục KLTC đối với học sinh và giáo viên, hãy xem 2 cách giải quyết tình huống rất thông thường của hai giáo viên sau: Một học sinh loay hoay làm việc riêng trong giờ học, giáo viên gọi em trả lời câu hỏi. Em giật mình đứng dạy và không trả lời được. Giáo viên 1 Giáo viên 2 1. Cô lặp lại câu hỏi nhé. 1. Học thì dở, lại còn không chú ý nghe giảng! Đứng im đấy! 2. Em nào giúp bạn mình trả lời câu hỏi này? 2. Ai trả lời. 3. Em nhắc lại đi! 3. Nhắc lại đi. 4. Em trả lời được rồi. 6
- 5. Em nhớ tập trung học bài nhé! 4. Ngồi xuống! Lần sau còn vi phạm nữa thì bị ghi vào sổ đầu bài nghe chưa! Chúng ta có thể hình dung được ngay cảm giác của hai học sinh trước cách xử lý của hai giáo viên. Đối với cách nhắc nhở của giáo viên thứ nhất học sinh không bị tổn thương, học sinh tự thấy mình có lỗi, sẽ tự sửa lỗi. Còn đối với cách cư xử của giáo viên thứ 2, học sinh sẽ cảm thấy xấu hổ, mặc cảm; chưa kể những cảm xúc khác trong trường hợp học sinh bị trách oan. Như vậy, khi giáo viên sử dụng các biện pháp GD KLTC, không dùng roi vọt, không nhục mạ học sinh thì cả học sinh và giáo viên đều được lợi: Lợi ích đối với học sinh Lợi ích đối với giáo viên - Có nhiều cơ hội chia sẻ, bày tỏ cảm xúc, - Giảm được áp lực quản lý lớp học được mọi người quan tâm, tôn trọng, lắng vì HS hiểu và tự giác chấp hành kỷ nghe ý kiến. luật. - Tích cực, chủ động hơn trong học tập. - Xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò; GV được HS - Tự tin, phát huy được khả năng của bản tin tưởng, tôn trọng. thân. - Nâng cao hiệu quả quản lý lớp học, - Sống vui vẻ, hòa nhập, gần gũi với mọi góp phần nâng cao chất lượng giáo người. dục. - Vui vẻ đến lớp, thích học hơn. - Được sự đồng tình của gia đình HS và XH. - Cảm nhận được sự quan tâm, yêu thương của giáo viên nên tiếp thu bài tốt hơn. Mong muốn của học sinh: Học sinh mong muốn người lớn lắng nghe, tìm hiểu xem các em cần gì, có nhu cầu gì, nguyên nhân nào dẫn đến sự việc học sinh mắc lỗi, để hiểu lí do tại sao các em lại phạm lỗi trước khi đánh mắng. Học sinh muốn nhận được sự yêu thương, chăm sóc cũng như sự cảm thông chia sẻ và bao dung của người lớn, thầy cô khi các em phạm lỗi. * Đối với nhà trường, gia đình, cộng đồng, XH - Nhà trường trở thành môi trường học tập thân thiện, an toàn, tạo được niềm tin đối với xã hội. - Đào tạo được những công dân tốt 7
- - Giảm thiểu được các TNXH , bạo hành, bạo lực. - Gia đình hạnh phúc, xã hội phồn vinh. 1.4. Các yêu cầu của giáo viên khi sử dụng phương pháp KLTC. a. Những điều cần có ở người giáo viên: - Quan tâm và hiểu biết từng HS, thương yêu, bao dung, độ lượng với HS. Chủ động lôi cuốn sự tham gia của các em vào các công việc của lớp, của trường, vào các hoạt động học tập, … - Tôn trọng, hợp tác, dân chủ trong quan hệ với HS, thừa nhận gía trị của mỗi em như là một nhân cách đang hình thành và phát triển, biết bảo vệ danh dự và quyền lợi của học sinh; tôn trọng cá tính và bí mật riêng tư của học sinh, không nói, không làm những việc xúc phạm đến học sinh. - Giúp HS phát triển năng lực cá nhân, giải phóng và phát huy mọi khả năng, sức mạnh tiềm tàng của mỗi em thông qua việc khích lệ và tạo điều kiện để học sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo trong học tập và trong các hoạt động khác. - Quan tâm và tạo điều kiện để các em phát triển như là một chủ thể có đầy đủ giá trị và sáng tạo, để từng em phát huy điểm mạnh, phát huy năng khiếu, sở thích của mình; hiểu biết thế giới tinh thang của các em, biết chia sẻ và động viên các em đúng lúc. Tạo dựng bầu không khí tâm lí – đạo đức thuận lợi với những xúc cảm tích cực trong sự thống nhất tinh thần giữa giáo viên và học sinh với nhau - Đối xử công bằng, không phân biệt, không trù dập, không thành kiến với học sinh. - Gương mẫu, có trách nhiệm và giữ chữ tín với học sinh. Trong giáo dục có một đặc trưng là sự noi gương. Sự kính trọng ngưỡng mộ của học trò đối với tài năng, nhân cách của thầy là xuất phát điểm cho niềm tin vào cái đẹp, cái thiện trong cuộc đời, là sự khởi đầu cho sự hình thành nhân cách. Đặc trưng nghề nghiệp đòi hỏi người thầy không chỉ cần có kiến thức và năng lực sư phạm mà phương tiện giáo dục quan trọng nhất chính là nhân cách người thầy. Nhà giáo dục học nổi tiếng người Nga K.D.Usinxki từng nói “Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất cứ cuốn sách giáo khoa nào, bất kì câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất cứ một ệ thống khen thưởng hat trách phạt nào khác”. Bởi thế không thể đếm hết hậu quả nặng nề từ những ứng xử phi giáo dục của người thầy trong môi trường giáo dục. Cũng bởi thế, người thầy luôn phải chuẩn mực về đạo đức, … “Mục tiêu đổi mới công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên là dạy học sinh, sinh viên những giá trị đạo đức cơ bản của con người, hình thành những thói quen đạo đức và kỹ năng sống đúng đắn. Điều này chỉ có thể có được khi người thầy có đạo đức và có kỹ năng chuẩn mực”. 8
- - Dạy HS biết kính trọng, yêu quý, biết ơn thầy cô giáo; tích cực, tự giác, chủ động, có trách nhiệm trong việc thực hiện các yêu cầu, các nhiệm vụ học tập; Lịch sự, lễ phép trong giao tiếp, ứng xử với thầy cô; Quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ thầy cô giáo.và bạn bè. b. Những điều giáo viên cần tránh trong giáo dục kỷ luật tích cực: - Tỏ ra cứng nhắc, lạnh lùng, thiếu gần gũi thân thiện với học sinh. Vẻ mặt lạnh lùng, thiếu thân thiện của thầy cô sẽ là bức tường ngăn cách giữa thầy và trò làm cho giờ học trở nên căng thẳng, nặng nề, học sinh không hứng thú, mệt mỏi và mong nhanh hết giờ, hiệu quả giờ học thấp. Ngược lại, sự thân thiện, gần gũi, nụ cười và những lới nói động viên khích lệ của thầy cô khiến cho giờ học sinh động, học sinh hứng thú tham gia xây dựng bài, giờ học hiệu quả. - Tỏ ra quá dễ dãi với HS. Gần gũi, thân thiện với học sinh là điều rất tốt nhưng không nên quá dễ dãi với học trò, học sinh dễ xem thường, thiếu sự kính trọng với thầy, cô. - Phạt HS bằng cách “bêu gương” trước lớp. - Quát tháo, phê bình học sinh gay gắt. - Phân biệt đối xử, so sánh. Nhiều giáo viên thiếu sự công bằng trong cư xử với học sinh. Điều này không chỉ làm mất đi hình ảnh và niềm tin của học sinh đối với thầy, cô mà còn đối với cả phục huynh và dư luận xã hội. GV nên đối xử công bằng giữa học sinh ngoan và học sinh chưa ngoan, giữa học sinh học giỏi và học sinh học yếu, giữa học sinh con người quen với những học sinh khác, … - Thực hiện những quy định, quy ước thiếu công bằng giữa thầy và trò. Giáo viên đưa ra các quy định, nội quy học sinh phải đi học đúng giờ, phải tắt chuông điện thoại, không được nghe hoặc nói chuyện trong giờ học, … Tuy vậy, bản thân giáo viên lạ thường xuyên vi phạm như để điện thoại đổ chuông trong giờ học, nghe điện thoại trong giờ học. Những việc làm này của thầy, cô đã làm mất đi sự tôn trọng của học sinh đối với mình, học sinh bất bình nhưng không dám nói ra. Việc làm của các thầy cô như thế là hết sức vô lý, thể hiện sự không công bằng, không tôn trọng học sinh. Để dạy học sinh, thầy cô phải làm gương sao cho học sinh “tâm phục, khẩu phục” và làm theo, không nên đưa ra các qui định, qui tắc bắt học sinh phải thực hiện mà bản thân thầy, cô lại chính là người tự cho mình không thực hiện và “phá vỡ” các quy tắc đó. 1.5. Một số định hướng cơ bản trong việc áp dụng các phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực ở trường phổ thông nhất là THPT. - Nhận thức được rằng việc học sinh mắc lỗi cũng là chuyện thường tình. Đã là con người thì ai cũng có thể mắc lỗi. Không ai có thể trưởng thành mà chưa một lần 9
- vấp ngã hay mắc sai lầm. Đặc biệt là học sinh THPT - lứa tuổi mà các em ”đủ lớn nhưng chưa đủ khôn” thì việc mắc lỗi lại càng dễ xảy ra. Ở độ tuổi này các em có sự phát triển mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh thần, là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Ý thức làm người lớn khiến các em thích khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình. Muốn được người lớn tôn trọng và lắng nghe ý kiến của mình. Các biểu hiện này khiến các em trở nên ngang bướng, thích làm theo ý mình,không muốn người khác can thiệp vào các vấn đề mang tính riêng tư. Khi phải tuân thủ theo một trật tự, nguyên tắc, quy định, nhiều học sinh hiếu động hay quậy phá,quấy rối và trở thành những học sinh “cá biệt”. Khi bị xử phạt, các em thường dễ xúc động, dễ bị tổn thương dẫn đến các hành vi thiếu sự kiểm soát, thường có các biểu hiện , chán nản,bất cần thậm chí là sự liều lĩnh... Có thể nói, tuổi học sinh THPT là thời kì đặc biệt quan trọng trong cuộc đời của mỗi con người. Các em đang đứng “trước ngưỡng cửa cuộc đời”. Giai đoạn này có tính chất quyết định hướng đi của mỗi người để đi đến “ thành công” hay “thất bại”…. Vì vậy chúng ta hãy chấp nhận sai lầm của học sinh như một điều tự nhiên trong cuộc sống để đối mặt với nó và tìm cách giúp các em xóa đi các lỗi lầm bằng sự bao dung và tha thứ. Đừng quá khắt khe với các em, đừng chỉ quan tâm đến trách móc các em khiến cho các em thấy mình kém cỏi mà mất niềm tin vào chính bản thân. - Phải tìm hiểu nguyên nhân khi HS mắc lỗi. Điều này cũng giống nhâu như bác sĩ tìm đúng bệnh mới có phương án chữa bệnh hiệu quả. Học sinh đi muộn, học yếu, chán học, không đi học chuyên cần, ... Mỗi lỗi của học sinh thường do một hoặc nhiều nguyên nhân, giáo viên cần tìm hiểu nguyên nhân trước khi đưa ra một hình thức xử phạt. - Phân tích để HS biết lỗi của mình. Các em cần được biết mình đã mắc lỗi gì trước khi phải nhận một hình thức xử phạt do tập thể quy định. - Các hình thức thưởng phạt phải do tập thể HS và GV thỏa thuận, thống nhất từ trước. GV không tự đưa ra những hình thức xử phạt mà các em chưa được biết. - Các hình thức xử phạt phải nhất quán, công bằng, không phân biệt đối xử và không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của các em. - Xử lý kỷ luật HS phải trên cơ sở vì sự tiến bộ, sự phát triển của trẻ. Một quyết định xử lí kỉ luật của giáo viên khi học sinh mắc lỗi có thể ảnh hưởng đến sự phát triển cả cuộc đời của một con người. Các hình thức kỉ luật cần nhằm tới giúp cho học sinh tiến bộ, giúp cho học sinh phát triển tốt hơn, vì lợi ích tốt nhất của các em - Xử lý kỷ luật khi HS mắc lỗi phải xuất phát từ tình yêu thương các em. Khi có tình yêu thương, chúng ta sẽ tìm được nhiều cách giúp đỡ các em tiến bộ. 2. Đặc điểm của học sinh THPT miền núi. 10
- Chúng ta đã biết phần lớn học sinh miền núi là người DTTS sống ở vùng điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn. Hằng ngày quen dùng ngôn ngữ dân tộc của mình, trong khi đó việc giao tiếp,học tập ở trường lại diễn ra ra bằng tiếng Việt nên trong lối sống các em thường rụt rè,nhút nhát thiếu tự tin . Chính vì tự ty cộng với khả năng diễn đạt tiếng phổ thông còn hạn chế, nhu cầu hưởng thụ đời sống tinh thần còn thấp, tạo cho các em tâm lí khó hoà đồng trong việc giao tiếp với thầy cô. Học sinh miền núi luôn có tính thẳng thắn, thật thà và tự trọng vì thế một khi các em có gì không vừa ý thường tỏ thái độ ngay. Đặc điểm thẳng thắn và thật thà cộng với khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn hạn chế, có những lúc làm cho giáo viên“nóng mặt”; nếu như thiếu am hiểu tường tận và thông cảm sâu sắc thì dễ kết luận đó là những hành vi “thiếu lễ độ”. Vì vậy, giáo viên cần nắm vững đặc điểm này để có thể cảm thông và thận trọng suy xét trong quá trình đánh giá phẩm chất đạo đức của từng em. Các em học sinh miền núi thường có lòng tự trọng cao, nếu chẳng may các em gặp phải những lời phê bình nặng nề, gay gắt của giáo viên, nhất là thầy cô chủ nhiệm lớp hàng ngày trực tiếp quan tâm, gần gũi với các em hoặc khi kết quả học tập kém, quá thua kém bạn bè một vấn đề nào đó trong sinh hoạt, bị dư luận bạn bè chê cười,... các em dễ dàng xa lánh thầy cô giáo và bạn bè thậm chí là bỏ học. Nếu chúng ta không hiễu rõ thì có thể cho rằng các em hay tự ái,điều đó có thể làm cho giáo viên thiếu sự nhiệt tình cần thiết để tìm ra phương hướng và biện pháp giải quyết những vướng mắc của các em. Học sinh THPT miền núi thường ít có điều kiện tiếp xúc với nhiều người, chủ yếu là bạn bè và thầy cô trong trường, do đặc điểm về điều kiện sinh sống nên các em luôn có niềm tin sâu sắc vào thầy cô và thực tiễn ở trường học. Các em thường dễ dàng nghe theo những người mình đã tin cậy,đó là các thầy cô chủ nhiệm và giáo viên bộ môn của lớp. Khi các em đã tin tưởng sẽ thường quyết tâm thực hiện cho tốt những công việc được giao, nhiều khi các em còn bắt chước tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ,.. của những giáo viên được xem là thần tượng. Vì lẽ đó, mỗi thầy cô giáo chúng ta phải luôn gần gũi, đi sâu, đi sát giúp đỡ học sinh, cố gắng cảm hoá các em bằng sự tận tình chăm sóc của mình; đồng thời cũng cố gắng gương mẫu về mọi mặt để dành cho được sự tin yêu của các em, từ đó phát huy tác dụng giáo dục của mình. Nhất là người GVCN nên quan tâm, tìm hiểu và nắm vững đặc điểm tâm sinh lí, cá tính, năng lực, hoàn cảnh gia đình ... của từng học sinh trong lớp, từ đó có các biện pháp giáo dục tích cực và cảm hoá được học sinh để các em tự giác, nhiệt tình tham gia vào việc học tập và các hoạt động tập thể. Thực tiễn có tác dụng thuyết phục rất lớn đối với các em. Các em sống rất thực tế, những điển hình gần gũi đều có tác dụng thuyết phục rất lớn, bởi vì lớn lên ở miền núi đa số học sinh ít khi có điều kiện đi xa làng bản và khám phá thế giới bên ngoài. Trong các tiết lên lớp, những vấn đề kiến thức có liên hệ thực tế đến bản thân học sinh thì sẽ sôi nổi và hiệu quả. Bởi thế việc nêu gương những điển hình tốt của học sinh trong lớp, trong trường về mọi mặt như trung thực, đoàn kết, giúp đở mọi người, vượt qua mọi khó khăn để đến lớp,... Đó là những minh chứng cụ thể nhằm 11
- dần dần hình thành cho các em những biểu tượng và khái niệm về phẩm chất đạo đức tốt, đồng thời khắc phục dần những tàn dư lạc hậu còn rơi rớt trong nhận thức của các em học sinh miền núi . 3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong lớp học. Giáo viên chủ nhiệm là một trong những giáo viên đang giảng dạy ở lớp có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện đứng ra làm chủ nhiệm lớp trong một năm học hoặc trong tất cả các năm tiếp theo của cấp học. Giáo viên chủ nhiệm lớp thực hiện nhiệm vụ quản lí lớp học và là nhân vật chủ chốt, là linh hồn của lớp, người tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt và xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh. Giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò sau đây: a. Thay mặt hiệu trưởng quản lí một lớp học Giáo viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở một lớp học. Vai trò quản lí của giáo viên chủ nhiệm lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch giáo dục, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh trong lớp trước hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của nhà trường và trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học. b. Người xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của lớp, bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, giáo viên chủ nhiệm xây dựng khối đoàn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ như con em mình trưởng thành theo từng năm tháng. Học sinh kính yêu giáo viên chủ nhiệm như cha mẹ mình, đoàn kết thân ái với bạn bè như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh. Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của giáo viên chủ nhiệm càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt. Rất nhiều giáo viên cùng giảng dạy trong một lớp, nhưng giáo viên chủ nhiệm bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong suốt cuộc đời họ. c. Người tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp Vai tò tổ chức của giáo viên chủ nhiệm thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ, nhóm, đồng thời tổ chức thực hiện các mặt hoạt động theo kế hoạch giáo dục được xây dựng hàng năm. 12
- Các hoạt động của lớp được tổ chức đa dạng và toàn diện, giáo viên chủ nhiệm lớp quán xuyến tất cả các hoạt động một cách cụ thể, chặt chẽ. Các phong trào thi đua học tập đi vào thực chất, các cuộc sinh hoạt các đoàn thể có nội dung hấp dẫn thanh, thiếu niên, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao được tiến hành thường xuyên… Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào trật tự, kỉ luật, vào tinh thần đoàn kết và truyền thống của tập thể lớp cũng như các hoạt động đa dạng của lớp. d. Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp Giáo viên chủ nhiệm lớp dù có là đoàn viên, đảng viên hay không cũng cần phải nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức và nội dung hoạt động của các đoàn thể. Với tinh thần trách nhiệm, với kinh nghiệm công tác của mình làm tham mưu cho chi Đoàn thanh niên của lớp lập kế hoạch công tác, bầu ra ban lãnh đạo chi đoàn, tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với ban cán sự lớp để xây dựng tập thể, đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất. e. Giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy giáo viên chủ nhiệm phải là người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục cùng với các lực lượng giáo dục đó một cách có hiệu quả nhất. Năng lực, uy tín chuyên môn, kinh nghiệm công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp là điều kiện quan trọng để tập hợp lực lượng, phối hợp thành công các hoạt động giáo dục cho học sinh trong lớp. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN. 1. Thực trạng chung hiện nay và nhận thức của học sinh ở trường THPT Tương Dương 1. Nhìn chung các biện pháp kỷ luật học sinh đang áp dụng trong trường học hiện nay là nhắc nhở, phê bình, thông báo với gia đình, cảnh cáo ghi học bạ, buộc thôi học có thời hạn,… được các trường thực hiện nghiêm túc và công khai, đảm bảo công bằng cho học sinh trong việc khen thưởng và kỷ luật. Cách xử phạt hiện nay của giáo viên đa phần chưa thuyết phục được học sinh, bởi nó xuất phát từ cách suy nghĩ áp đặt, đôi khi hơi bảo thủ, không đặt mình vào hoàn cảnh của người phạm lỗi, đó chưa kể những biện pháp xử lý quá nặng, có tính chất xúc phạm, như: Trừng phạt thân thể ( véo tai, giật tóc, úp mặt vào tường...) và trừng phạt về tinh thần (la mắng, nhiếc móc, hạ nhục, bêu gương trước lớp làm cho xấu hổ...) khiến người bị phạt bị tổn thương, mất đi sự tự tin, giảm ý thức kỷ luật, căm ghét trường học, để lại những 13
- 'vết sẹo' trong tâm hồn, khiến các em luôn có thái độ thù địch, không tâm phục, tạo ra tâm lý chống đối, càng phạt thì càng vi phạm …. Thực tế cho thấy các biện pháp kỷ luật này còn khá ' cứng nhắc' đối với một số học sinh có biểu hiện chậm tiến về đạo đức. Không ít giáo viên hiện nay vẫn quan niệm khi học sinh mắc lỗi thì chỉ có cách giáo dục duy nhất, hiệu quả nhất là hình thức trách phạt Song chính điều này lại gây ra nhiều hệ lụy đáng buồn có thể làm mất đi cơ hội học tập của những học sinh được coi là cá biệt khi các em đánh mất niềm tin của mình và tự ý xa rời trường học . Trường THPT Tương Dương 1 nằm trên địa bàn Thị trấnThạch Giám, huyện miền núi phiá tây của tỉnh Nghệ An . Học sinh trong toàn trường nói chung và học sinh các lớp chúng tôi đang chủ nhiệm nói riêng đa số là người dân tộc thiếu số đến từ các xã nghèo, thuộc diện 135, điều kiện kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp. Các em đều ở xa thị trấn từ 10 tới hơn 90 km, nhiều bản xã gần biên giới Việt –Lào, điều kiện đi lại cực kỳ khó khăn, vất vả nên phải đi ở trọ để học, xa gia đình phải tự lo về mọi mặt. Điều kiện ăn, ở của các phòng trọ rất tạm bợ, thiếu thốn đủ bề và chẳng thể nào có góc học tập khi phải ở chung đông để đỡ tốn tiền. Nhiều chủ trọ ít khi quan tâm đến việc sinh hoạt, học bài thường ngày của học sinh, cộng thêm sự thiếu thốn tình cảm và sự quan tâm, quản lý sát sao của bố mẹ khi sống trên nương rẫy rất khó khăn để liên lạc với con em, đã dẫn tới ý thức học tập của các em còn yếu kém. Đáng lo hơn một số em có dấu hiệu lún sâu vào chuyện tình cảm, nghiện games,thuốc lá, thuốc cỏ và bia rượu nên thường xuyên vắng học, bỏ tiết rủ nhau tụ tập la cà quán xá, tỏ thái độ bất cần, không còn muốn học hành. Mặt khác, trong những năm gần đây do chịu ảnh hưởng lớn từ mặt trái cuộc sống thời kỳ mở cửa và môi trường xã hội phức tạp đã tác động tiêu cực đến một bộ phận học sinh có suy nghĩ lệch lạc, đua đòi, ăn chơi, sống thiếu tích cực. Trong khi đó việc liên lạc để phối hợp với phụ huynh cũng gặp rất nhiều khó khăn do phần lớn họ đều sống trên nương rẫy ít khi về dưới bản, nhiều nơi chưa có sóng điện thoại. Bởi vậy với chúng tôi làm giáo viên chủ nhiệm lớp còn mang trọng trách như là người bố, nguời mẹ thứ hai của học sinh. Bên cạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, ý thức học tập, hướng nghiệp, tham gia thể dục thể thao, văn hóa, vui chơi, giải trí,... của các em còn phải thường xuyên quan tâm, động viên, theo dõi và đôn đốc nhắc nhở các em kịp thời trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, để tránh xảy ra những điều đáng tiếc. Giúp cho học sinh cảm thấy thoải mái, hạnh phúc, để mỗi ngày đến trường là một ngày vui, từ đó học sinh tích cực học tập và rèn luyện. Vì những lí do trên mà đòi hỏi các thầy cô chủ nhiệm chúng tôi phải thật sự khéo léo trong việc giải quyết và kỷ luật những học sinh vi phạm, đồng thời cần phải tuyên truyền cho các em hiểu biết về truyền thống của nhà trường, gương người tốt việc tốt của nhà trường, của xã hội để các em có tinh thần nỗ lực phấn đấu, làm tốt nhiệm vụ của người học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường. 14
- Để có được những kết quả tốt hơn cho lớp mình chủ nhiệm, chúng tôi đã và đang cố gắng tìm tòi và áp dụng những phương pháp giáo dục phù hợp và hữu ích nhất để giáo dục học sinh. Đồng thời học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp trong trường và bạn bè ở các trường bạn để tăng cường sử dụng: Phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp của mình. 2. Thực trạng vấn đề áp dụng phương pháp giáo dục Kỷ luật tích cực ở trường THPT Tương Dương 1. Để thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát các giáo viên làm công tác chủ nhiệm tại trường THPT Tương Dương I huyện Tương Dương về công tác giáo dục học sinh vi phạm nội quy trường lớp. * Mẫu phiếu MẪU PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN CỦA GIÁO VIÊN VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH PHẠM LỖI. Nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục của giáo viên chủ nhiệm, đồng thời ghi nhận những ý kiến phản hồi từ phía giáo viên tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các giáo viên chủ nhiệm trong trường đối với các hoạt động giáo dục học sinh của giáo viên chủ nhiệm hiện nay. Ý kiến của các thầy, cô giáo sẽ là cơ sở quan trọng cho việc đề ra những giảỉ pháp tích cực nhằm giáo dục học sinh nói chung và đặc biệt là giáo dục học sinh phạm lỗi nói riêng của giáo viên chủ nhiệm trong thời gian tới. 1. Thông tin giáo viên: -Họ tên giáo viên (không nhất thiết phải ghi)…………………………. -Năm học: 20 …… – 20……. 2. Nội dung khảo sát: Câu 1:Thầy (cô) có thái độ như thế nào đối với học sinh phạm lỗi. A. Rất quan tâm B. It quan tâm C. Không quan tâm Câu 2:Khi học sinh phạm lỗi, thầy (cô) giáo dục học sinh vì: A. trách nhiệm B. lương tâm C. sự tiến bộ của HS Câu 3:Theo thầy (cô) khi học sinh phạm lỗi nên xử lí như thế nào? A. Thật nghiêm khắc 15
- B. Vừa nghiêm khắc vừa mềm dẻo C. Tùy vào từng đối tượng Câu 4:Thầy (cô) thường áp dụng biện pháp nào khi xử phạt HS phạm lỗi? A. Khiển trách, phê bình trước lớp B. Phạt lao động C. Trò chuyện, nhắc nhở, động viên. Câu 5:Hiệu quả của việc giáo dục học sinh phạm lỗi. A. Tiến bộ rõ rệt B. Tiến bộ chậm C. Không tiến bộ Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô. *Sau khi điều tra kết quả nhận được như sau: Điều tra ngẫu nhiên 20 giáo viên chủ nhiệm lớp tại trường THPT Tương Dương 1. Chúng tôi thu nhận được kết quả như sau:( Nội dung Kết quả Thầy (cô) có Rất quan tâm Ít quan tâm Không quan tâm Không quan tâm thái độ như thế Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ nào đối với học 7 35% 10 50% 3 15% sinh phạm lỗi. Khi học sinh GD vì trách nhiệm GD vì lương tâm GD vì sự tiến bộ của phạm lỗi, thầy HS HS(cô) giáo dục học sinh vì: Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 10 50% 5 25% 5 25% Theo thầy (cô) Thật nghiêm khắc Vừa nghiêm khắc Tùy vào từng đối khi học sinh vừa mềm dẻo tượng 16
- phạm lỗi nên xử lí như thếnào? Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 12 60% 5 25% 3 15% Thầy (cô)thường Khiển trách, Phạt lao động Trò chuyện, nhắc áp dụng biện phêbình trước lớp nhở động viên pháp nào khi xử phạt HS phạm Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ lỗi? 10 50% 7 35% 3 15% Hiệu quả của việc Tiến bộ rõ rệt Tiến bộ chậm Không tiến bộ giáo dục HS phạm lỗi Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 5 25% 5 25% 10 50% Với tiêu chí khách quan trong ngiên cứu đề tài, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ngẫu nhiên 100 học sinh thuộc 3 khối lớp 10-11-12 tại trường THPT Tương Dương I huyện Tương Dương về các biện pháp GVCN đã sử dụng để xử lý khi học sinh vi phạm nội quy trường lớp. * Mẫu phiếu MẪU PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN CỦA HỌC SINH VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH PHẠM LỖI: Nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục của giáo viên chủ nhiệm, đồng thời ghi nhận những ý kiến phản hồi từ phía học sinh tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các bạn học sinh trong trường đối với các hoạt động giáo dục của giáo viên chủ nhiệm hiện nay. Ý kiến của các bạn sẽ là cơ sở quan trọng cho việc đề ra những giải pháp tích cực nhằm giáo dục học sinh nói chung và đặc biệt là giáo dục học sinh phạm lỗi nói riêng của giáo viên chủ nhiệm trong thời gian tới. 1. Thông tin học sinh: - Họ tên học sinh (không nhất thiết phải ghi)…………………………. - Đang học lớp…………; Năm học: 20 …… – 20……. 2. Nội dung khảo sát: Thầy cô rất mong các em hợp tác để trả lời các câu hỏi sau đây Câu 1:Khi học sinh phạm lỗi GVCN thường: 17
- A. Rất quan tâm B. It quan tâm C. Không quan tâm Câu 2:GVCN thường sử dụng biện pháp nào để giáo dục khi học sinh phạm lỗi? A. Khiển trách, phê bình trước lớp B. Phạt lao động C. Trò chuyên, nhắc nhở, động viên Câu 3:Em có đồng tình với biện pháp xử phạt học sinh phạm lỗi hiện nay của GVCN không? A. Rất đồng tình B. Đồng tình C. Không đồng tình Câu 4:Các em mong muốn GVCN sử dụng biện pháp nào để giáo dục khi mình mắc lỗi? A. Khiển trách, phê bình trước lớp B. Phạt lao động C. Trò chuyên, nhắc nhở, động viên -Hiệu quả về sự tiến bộ của các em? A. Tiến bộ rõ rệt B. Tiến bộ chậm C. Không tiến bộ Thầy cô xin chân thành cảm ơn các em đã hợp tác . Sau khi khảo sát chúng tôi thu được kết quả như sau : Nội dung Kết quả Khi HS vi phạm Rất quan tâm Ít quan tâm Không quan tâm lỗi GVCN thường Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 33 33% 52 52% 13 13% 18
- GVCN thường Khiển trách, phêbình Phạt lao động Trò chuyện, nhắc sử dụng biện trước lớp nhở động viên pháp nào để giáo dục khi HS Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ phạm lỗi. 58 58% 25 25% 17 17% Em có đồng tình Rất đồng tình Đồng tình Không đồng tình với biện pháp xử phạt HS hiện Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ nay của GVCN không 3 3% 5 5% 92 92% Các em mong Khiển trách, phê Phạt lao động Trò chuyện, nhắc muốn GVCN sử bình trước lớp nhở động viên dụng biện pháp nào khi mình Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ phạm lỗi 0 0% 19 19% 81 81% Hiệu quả về sự Tiến bộ rõ rệt Tiến bộ chậm Không tiến bộ tiến bộ của các em Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 20 20% 38 38% 42 42% 3. Một số khó khăn trong công tác giáo dục và xử lí học sinh phạm lỗi . Những con số biết nói trên đã phần nào cho ta thấy thực trạng công tác giáo dục học sinh phạm lỗi và hiệu quả về sự tiến bộ của học sinh phạm lỗi từ việc sử dụng các phương pháp giáo dục hiện nay của giáo viên ở trường THPT. Có thể thấy rằng việc giáo dục học sinh phạm lỗi trong mỗi giáo viên chưa thực sự tích cực, hiệu quả giáo dục chưa cao. Số GV rất quan tâm đến việc giáo dục HS phạm lỗi còn ít, phần lớn các GVCN ít quan tâm hoặc không quan tâm đến giáo dục HS phạm lỗi (chiếm 65%). Tạo cho học sinh có cảm giác mình bị GVCN bỏ rơi. Khi học sinh phạm lỗi, GV chưa thực sự chú trọng đến việc giáo dục vì sự tiến bộ của người học. Không ít giáo viên hiện nay vẫn còn quan niệm khi học sinh phạm lỗi thì phải xử 19
- phạt thật nghiêm khắc (chiếm khoảng 60%), học sinh phạm lỗi chỉ có cách giáo dục duy nhất, hiệu quả nhất là trừng phạt bằng thân thể hoặc xúc phạm bằng tinh thần thì mới làm cho học sinh sợ. Hàng ngày đến trường tôi vẫn bắt gặpnhững hình ảnh học sinh phạm lỗi bị giáo viên phạt đứng cạnh bục giảng, góc lớp hoặc bắt đứng ngoài hành lang trong khi cả lớp đang học. Số giáo viên giáo dục học sinh phạm lỗi bằng trò chuyện, nhắc nhở, động viên còn ít (chỉ chiếm 15%). Phần lớn các giáo viên còn nặng nề trước những phạm lỗi của học sinh nên đã sử dụng hình thức kỷ luật chưa phù hợp, phạt học sinh bằng cách bêu gương , khiển trách, phê bình gay gắt trước tập thể lớp để làm cho các em xấu hổ... Những cách xử phạt này đa phần chưa thuyết phục được học sinh bởi nó xuất phát từ cách suy nghĩ áp đặt đôi khi hơi bảo thủ, không đặt mình vào hoàn cảnh của người phạm lỗi. Có không ít giáo viên dùng biện pháp xử phạt quá nặng, có tính chất xúc phạm khiến học sinh bị tổn thương sâu sắc, không tâm phục khẩu phục mà còn tạo ra tâm lí chống đối, càng phạt càng vi phạm, làm ngược lại lời thầy cô. Biện pháp này thiếu hiệu quả, thậm chí là biện pháp tiêu cực, phản giáo dục, chỉ có tác dụng trước mắt, gây tổn thương lâu dài đến thể chất và tinh thần của học sinh. Hiệu quả giáo dục chưa cao, số học sinh không tiến bộ và tiến bộ chậm chiếm tỉ lệ cao (chiếm 75%), học sinh tiến bộ rõ rệt còn chiếm tỉ lệ thấp (chỉ khoảng 25%).Từ phía học sinh, qua khảo sát nhận thấy đa số học sinh không đồng tình với biện pháp xử phạt học sinh phạm lỗi hiện nay của giáo viên chủ nhiệm. Không có học sinh nào muốn mình bị phạt bằng khiển trách, phê bình trước lớp khi phạm lỗi. Qua phỏng vấn một số em học sinh, các em tâm sự “Có một điều em rất ghét là bị trừng phạt thân thể hoặc xúc phạm tinh thần. Nó làm cho em không muốn đi học nữa”. “Chân thành mà nói em không thích đi học. Em thường trốn học và viện ra lí do để không phải đến trường vì mỗi lần em phạm lỗi thầy cô thường lớn tiếng mắng nhiếc em trước lớp”... Phần lớn học sinh đều mong muốn trước những phạm lỗi của mình, các em được thầy cô chủ nhiệm quan tâm, trò chuyện, nhắc nhở, động viên, giáo dục các em bằng tình thương, bằng các phương pháp mềm dẻo. Các em mong muốn thầy cô lắng nghe,tìm hiểu xem các em cần gì, có nhu cầu gì, nguyên nhân nào dẫn đến sự việc các em phạm lỗi. Học sinh mong muốn nhận được sự yêu thương, chăm sóc cũng như sự cảm thông, chia sẻ và bao dung của thầy cô giáo khi các em phạm lỗi. Có em học sinh tâm sự “Em nghĩ rằng nếu như các bạn có phạm lỗi thì thầy cô nhắc nhở và khuyên bảo, các em sẽ rất vui và sửa chữa lỗi lầm của mình”. “Em mong muốn không có hình thức trừng phạt thân thể và tinh thần nào đối với em và các bạn của em”... Như vậy, trước những phạm lỗi của học sinh, bên cạnh việc giáo dục qua nhắc nhở, động viên, một số ít giáo viên đã xử lí rất tinh tế, trở thành chỗ dựa đáng tin cậy để học sinh bày tỏ tâm tư, suy nghĩ, tình cảm những lúc gặp khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, vẫn còn các giáo viên chưa có biện pháp phù hợp trong việc quản 20
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p |
44 |
13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sử dụng các biến nhớ của máy tính điện tử cầm tay trong chương trình Toán phổ thông
128 p |
149 |
11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ phân bố thời gian giúp học sinh giải nhanh bài tập trắc nghiệm liên quan đến thời điểm và khoảng thời gian trong mạch dao động
24 p |
29 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa lí 10, 12
31 p |
66 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p |
122 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống, khắc sâu kiến thức Hoá học hữu cơ lớp 12 cơ bản
30 p |
44 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập dưới dạng đề kiểm tra sau mỗi bài học, để học sinh làm bài tập về nhà, làm tăng kết quả học tập môn Hóa
13 p |
29 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Infographic nhằm nâng cao hiệu quả và tăng hứng thú học tập Ngữ văn của học sinh THPT
15 p |
35 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p |
60 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phân loại và phương pháp giải bài tập chương andehit-xeton-axit cacboxylic lớp 11 THPT
53 p |
31 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng thí nghiệm ảo trong dạy học phần điện từ học lớp 11 THPT
38 p |
56 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bản đồ tư duy (mind map) để tổng hợp kiến thức ôn thi tốt nghiệp và đại học cho học sinh khối 12
6 p |
57 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p |
24 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tích hợp kiến thức văn học vào giảng dạy một số bài trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 12
10 p |
16 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p |
39 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p |
50 |
4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bảng hệ thống kiến thức nhằm nâng cao chất lượng trong ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông phần Lịch sử Việt Nam (1919-1945)
47 p |
47 |
2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép một số tư liệu lịch sử Bình Long trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 -1975
16 p |
54 |
2
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)