intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT để phát triển năng lực tư duy phản biện

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:41

27
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT để phát triển năng lực tư duy phản biện" nhằm đưa ra cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng tranh biếm họa để phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử. Đề xuất một số phương pháp để sử dụng có hiệu quả tranh biếm họa để phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử THPT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT để phát triển năng lực tư duy phản biện

  1. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử ở trƣờng THPT để phát triển năng lực tƣ duy phản biện Lĩnh vực : Lịch sử Năm học 2021 - 2022
  2. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƢỜNG THPT QUỲ HỢP 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử ở trƣờng THPT để phát triển năng lực tƣ duy phản biện Môn : Lịch sử Tên tác giả: Trần Thị Thanh Hƣơng Tổ: Khoa học xã hội Năm thực hiện : 2021 - 2022 SĐT: 0868.455.386 0
  3. MỤC LỤC TT Nội dung Trang A- ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 2 3 3. Đối tượng và phạm vi của đề tài 2 4 4. Phương pháp thực hiện đề tài 2 5 5. Cấu trúc của đề tài 2 B- NỘI DUNG 6 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 7 1. Cơ sở lí luận 3 8 2.Cơ sở thực tiễn 5 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TRANH BIẾM HỌA ĐỂ PHÁT TRIỂN 9 TƢ DUY PHÊ PHÁN CHO HỌC SINH QUA 7 DẠY HỌC CHƢƠNG III. LỊCH SỬ VIỆT NAM (1945 -1954) (LỊCH SỬ 12 CƠ BẢN) 1. Kĩ thuật khai thác tranh biếm họa vào dạy học lịch 10 7 sử. 1.1. Nguyên tắc lựa chọn tranh biếm họa 1.2. Ý nghĩa của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử để phát triển tư duy phản biện cho học sinh 1.3. Vai trò quan trọng của năng lực tư duy phản biện lịch sử 2. Kĩ thuật sử dụng tranh biếm họa trong các khâu 11 9 của quá trình dạy học dạy học lịch sử. 2.1 Sử dụng tranh biếm họa để tạo động cơ học tập, thu hút sự chú ý của học sinh. 2.2 Sử dụng tranh biếm họa hướng dẫn học sinh nghiên cứu kiến thức mới. 2.3 Sử dụng tranh biếm họa để củng cố bài học. 2.4 Sử dụng tranh biếm họa hướng dẫn học sinh tự học. 2.5 Sử dụng tranh biếm họa trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. 2.6 Sử dụng tranh biếm họa để rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh. 1
  4. 3. Thực nghiệm: Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học 13 Chương III. Việt Nam từ 1945 -1954 (Lịch sử 12 Cơ 18 bản) 3.1 Đối tượng thực nghiệm 3.2 Phương pháp thực nghiệm 3.3 Kết quả thực nghiệm C- KẾT LUẬN 14 Tài liệu tham khảo 21 PHỤ LỤC 1. Những bức tranh biếm họa được sử dụng trong đề 15 I tài 16 2. Đề kiểm tra VI 17 3. Phiếu khảo sát ý kiến của học sinh VIII 2
  5. A - PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài Trong bối cảnh hội nhập quốc tế với những ảnh hưởng của xã hội tri thức và toàn cầu hóa đang tạo ra những cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo dục Việt Nam trong việc đào tạo đội ngũ lao động. Thực hiện Nghị quyết 29/NQ- TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, nhấn mạnh chuyển từ giáo dục trang bị chủ yếu kiến thức, kĩ năng sang phát triển phẩm chất, năng lực người học, nền giáo dục nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc. Trải qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, ngày 25-26/12/2018, Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể và Chương trình phổ thông môn Lịch sử đã chính thức được ban hành xác nhận mục tiêu, yêu cầu cốt lõi là sự phát triển năng lực và phẩm chất. Để năng lực và phẩm chất được hình thành và phát triển ở người học thì việc sử dụng đồ dùng trực quan là cần thiết. Hiểu rõ điều đó,các giáo viên lịch sử đã biết khai thác tối đa những tiện ích của khoa học công nghệ, của hệ thống tranh ảnh, bản đồ để bài giảng trở nên sinh động hơn.Trong những công cụ giảng dạy đó, tranh ảnh chuyên chở một giá trị đặc biệt của tính trực quan và tính hứng thú.Qua thực tế giảng dạy, có thể đánh giá được ý nghĩa to lớn của hệ thống tranh ảnh trong dạy học lịch sử, đặc biệt là một hệ thống tranh ảnh khá mới mẽ - tranh biếm họa. Tranh biếm họa là một công cụ dạy học được sử dụng nhiều ở các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Đức, Mĩ… và nó đã khẳng định mang lại nhiều giá trị to lớn. Cuối thập niên 70, các nhà nghiên cứu giáo dục học nói chung và giáo dục Lịch sử nói riêng của nước này đã hoàn thiện các nghiên cứu về việc sử dụng tranh biếm họa như một loại tài liệu trong dạy học Lịch sử. Do đó, đến thập niên 80, hầu hết SGK Lịch sử ở Tây Đức đều sử dụng tranh biếm họa như một loại kênh hình phổ biến, bên cạnh các tài liệu khác như tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, sơ đồ, tài liệu chữ viết... Thông thường, mỗi cuốn SGK Lịch sử ở CHLB Đức dày từ 180 đến 350 trang với khoảng 300 hình thì có khoảng 30 - 45 tranh biếm họa. Tranh biếm thực ra đã có từ những ngày đầu tiên khi báo chí mới xuất hiện tại Việt Nam. Trong lịch sử báo chí Việt Nam, những bức tranh biếm đả kích chế độ thực dân hay lên án những thói xấu, sự tham lam của nhiều người đã được báo chí phản ánh mạnh mẽ. Theo cuốn “Lịch sử tranh biếm họa Việt Nam” do họa sỹ Lý Trực Dũng chủ biên thì người đầu tiên có tranh biếm họa được đăng báo là Nguyễn Ái Quốc với nhiều bức biếm họa được Bác đăng trên báo Le Paria (Người cùng khổ) vào những năm 1922-1926. Thông qua những bức tranh đả kích, Bác Hồ đã lên án mạnh mẽ chế độ thực dân thời bấy giờ với những áp bức, bóc lột người dân thuộc địa hay là những nô dịch về văn hóa...Trong những năm kháng chiến, tranh biếm họa vẫn xuất hiện đều đặn trên các trang báo, từ việc lên án sự tàn bạo của kẻ thù cho tới chuyện phê phán thói hư tật xấu của con người, 3
  6. rồi cổ vũ cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc... Những họa sỹ như Phan Kích, Mai Văn Hiến, Nguyễn Bích, Võ An Lai... rồi sau này là những Ớt, Chóe... đã thành danh nhờ những bức tranh biếm họa đầy sắc bén, góp phần mạnh mẽ trong việc thống nhất và xây dựng đất nước. Nhiều họa sỹ Việt Nam đã có tranh biếm trên các báo nước ngoài, được triển lãm và lưu trữ tại nhiều bảo tàng tranh biếm trên thế giới. Theo họa sỹ Lý Trực Dũng - Người được coi là cây bút biếm họa hàng đầu Việt Nam hiện nay thì “Một tranh biếm bằng cả ngàn câu chữ”. Tuy nhiên, ở nước ta, tranh biếm họa còn là một công cụ đầy mới mẻ trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng.Thực tế dạy học lịch sử cho thấy, tranh biếm họa giống như các loại tranh ảnh khác, nó mang đầy đủ những ưu điểm của đồ dùng trực quan, góp phần khắc sâu sự kiện lịch sử, nâng cao năng lực tái hiện kiến thức. Ngoài ra, tranh biếm họa còn nâng cao sự hứng thú, giúp giáo dục tư tưởng, óc thẩm mĩ, phát triển tư duy phản biện cho học sinh. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử để phát triển tư duy phản biện cho học sinh qua Chương III. Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 (Lịch sử lớp 12 cơ bản)” và đạt được một số thành công nhất định. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục đích - Thấy được vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng tranh biếm họa để phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử trung học phổ thông (THPT). - Đề xuất một số phương pháp để sử dụng có hiệu quả tranh biếm họa để phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử THPT. 2.2. Nhiệm vụ - Đưa ra cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng tranh biếm họa để phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử. - Nghiên cứu, điều tra những điều kiện cơ bản để tổ chức giờ học lịch sử có sử dụng tranh biếm họa một cách hiệu quả. - Đưa ra những phương pháp sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử THPT (Áp dụng vàoChương III. Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 (Lịch sử lớp 12 cơ bản). 3. Đối tƣợng và phạm vi của đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò và triển vọng của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử THPT đồng thời đưa ra những gợi ý về mặt phương pháp sử dụng tranh biếm họa một cách hiệu quả. 4
  7. 2.Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ dừng lại ở việc sử dụng dòng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử chương III Lịch sử Việt Nam (1945 -1954) của Sách giáo khoa Lịch sử 12 ban cơ bản. 4. Phƣơng pháp thực hiện đề tài - Phương pháp phân tích hệ thống: nghiên cứu hệ thống các loại tranh biếm họa cho học sinh trong dạy học lịch sử THPT. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tìm hiểu cơ sở khoa học của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử và lựa chọn các phương pháp sử dụng hiệu quả. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: thu thập các tài liệu thực tế cần thiết cho đề tài nhằm phân tích và lý giải các vấn đề đặt ra thông qua quan sát, giảng dạy trực tiếp, phỏng vấn thăm dò ý kiến của học sinh và giáo viên đối với tranh biếm họa. - Phương pháp thực nghiệm: kiểm chứng các kết quả nghiên cứu lý thuyết thu thập thông tin, kiểm tra và phân tích mức độ tin cậy của các giả thuyết và bổ sung thêm những vấn đề mà lý thuyết chưa đề cập tới. 5. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của đề tài được cấu trúc thành 2 mục chính sau đây: I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử THPT. II.Một số giải pháp khai thác và sử dụng tranh biếm họa để phát triển tư duy phản biện cho học sinh qua dạy học Chương III. Lịch sử Việt Nam (1945-1954)- Lịch sử 12 ban cơ bản. B - PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lí luận 1.1. Khái niệm về tranh biếm họa Khái niệm “biếm họa”, tiếng Latinh là Carrus, tiếng Italia là Caricare sử dụng đầu tiên cuối thế kỉ XVI, nghĩa là “cường điệu”. Ở Đức, thuật ngữ Karrikature, có nghĩa là “tranh biếm họa” xuất hiện giữa thế kỉ XIX.Theo từ điển tiếng Đức, đó là những bức tranh hài hước, phóng đại về một người, một vật hay sự kiện thông qua sự hài hước hoặc nhấn mạnh châm biếm bằng cách chú trọng vào một số tính chất hoặc đặc trưng để chế giễu và đặc biệt là “nhạo báng”. Ở Việt Nam, người ta thường dùng từ “tranh châm biếm”, tranh đả kích, tranh vui, hí họa. Tranh biếm hoạ là một loại hình nghệ thuật dùng ngôn ngữ tạo hình đặc biệt vạch ra, biểu đạt một cách 5
  8. cường điệu, khuếch đại các mâu thuẫn nội tại trong các quan hệ chính trị, xã hội, giá trị đạo đức…Nhìn chung, tranh biếm họa có các đặc điểm cơ bản sau: -Về hình thức, đó là một loại tranh (để phân biệt với ảnh chụp). -Về nội dung, là loại tranh trong đó có yếu tố được phóng đại chi tiết nào đó của đối tượng bị châm biếm, đả kích. Cũng chính vì thế, hầu hết tranh biếm họa đều gây cười. - Về mục đích, nhằm châm biếm, chế giễu những thói hư tật xấu trong xã hội. - Về chủ đề thì không có biên giới, bất kể chủ đề gì liên quan đến con người, quan hệ giữa con người với con người trong đời sống xã hội. Tóm lại, có nhiều quan niệm khác nhau về tranh biếm họa, có khái niệm vắn tắt hoặc chi tiết, nhưng gần như đồng nhất về nội hàm, đó là tranh châm biếm, chế giễu thông qua yếu tố hài hước, xuất phát từ sự phóng đại yếu tố đặc trưng của đối tượng bị châm biếm. Tranh biếm hoạ lịch sử phản ánh nội dung cụ thể về nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. Tranh biếm hoạ gắn liền với các sự kiện thời sự, chính trị, xã hội quan trọng; được coi là một “vũ khí sắc bén” của nhiều lĩnh vực. Tranh biếm hoạ không chỉ minh hoạ về một sự kiện, hiện tượng lịch sử mà còn thể hiện chính kiến, nhận xét của các nhà sử học đối với các sự kiện lịch sử. Sử dụng tranh biếm hoạ trong dạy học lịch sử có thể phát huy tư duy độc lập, phản biện và sáng tạo của học sinh. Mặc dù loại tranh này ít nhiều mang tính chủ quan của tác giả, nhưng nó cũng có ý nghĩa sư phạm to lớn, đặc biệt trong dạy học Lịch sử trên cả 3 mặt: Kiến thức, thái độ và kĩ năng. Về kiến thức, khi xem xét một tranh biếm họa, muốn hiểu được những biểu hiện trong đó nói lên điều gì, học sinh phải đặt nó trong tổng thể kiến thức. Bên canh phân tích, học sinh phải thiết lập các mối liên hệ, giả thuyết giữa hình ảnh và nội dung bài học để phán đoán và kết luận... học sinh khi xem xét một bức TBH, muốn hiểu được những biểu hiện trong đó nói lên điều gì, buộc học sinh phải đặt nó trong tổng thể kiến thức. Bên cạnh việc phải phân tích, học sinh phải thiết lập các mối liên hệ, các giả thuyết giữa hình ảnh và nội dung bài học để phán đoán và kết luận. Như vậy, khi sử dụng TBH, học sinh được tái hiện một lần nữa những kiến thức liên quan đến hình ảnh và qua quá trình suy luận, kiến thức dễ khắc sâu hơn rất nhiều so với việc sử dụng các kênh hình thông thường. Về thái độ, tranh biếm họa mang đến sự hấp dẫn và cuốn hút bởi chính đặc thù của tranh. Học sinh, nhất là học sinh THPT bị lôi cuốn vào yếu tố hài hước, trào phúng hay sự thể hiện biếm họa độc đáo trong bức tranh. Học sinh từ chỗ tò mò, hiếu kì về những yếu tố đặc biệt trong tranh, đi đến muốn tìm hiểu nội dung ẩn giấu trong đó... TBH mang đến sự hấp dẫn và cuốn hút học sinh bởi chính đặc thù của TBH. Học sinh, nhất là học sinh THPT dễ bị lôi cuốn vào yếu tố hài hước, trào phúng hay sự thể hiện biếm họa độc đáo trong bức tranh. Học sinh từ chỗ tò mò, 6
  9. hiếu kỳ về những yếu tố đặc biệt trong tranh, đi đến muốn tìm hiểu nội dung ẩn giấu trong bức tranh đó là gì? Có một số TBH, khi mới nhìn học sinh có thể bật cười vì sự trào phúng của nó, nhưng sau tiếng cười sảng khoái đó, các em sẽ phân tích, tổng hợp kiến thức, liên hệ để giải thích sự ẩn dụ trong đó. Sau cùng học sinh sẽ bày tỏ được quan điểm và thái độ của mình đồng tình hay phản đối với vấn đề được đề cập. Về kĩ năng, việc sử dụng thích hợp tranh biếm họa đã thúc đẩy học sinh không thể làm việc đơn giản thông qua phân tích văn bản hay nghe giảng đơn thuần mà đòi hỏi thổng hợp các kĩ năng: Phân tích hình ảnh, đọc văn bản, liên hệ kênh chữ và kênh hình, phán đoán, liên hệ, suy xét và kết luận. Các hình ảnh mang yếu tố trực quan đánh thức tư duy, đưa học sinh đi từ biết đến hiểu sâu sắc kiến thức. việc sử dụng thích hợp các TBH đã thúc đẩy học sinh không thể làm việc đơn giản thông qua việc phân tích văn bản (kênh chữ) hay nghe giảng một cách đơn thuần mà nó đòi hỏi tổng hợp các kỹ năng: phân tích hình ảnh, đọc văn bản, liên hệ kênh chữ và kênh hình, phán đoán, liên hệ, suy xét và kết luận. Các nhà giáo dục học gọi chung quá trình phân tích một bức TBH là “sự giải mã”, bởi bức TBH càng đơn giản thì nó lại là sự mã hóa nội dung lịch sử bằng hình ảnh ở mức cao nhất. Khi giải mã bức tranh, tức là học sinh được lần lượt thực hiện các kỹ năng nói trên, và khi lặp lại nhiều lần, các kỹ năng của học sinh sẽ trở nên thành thục. Mặt khác, tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh được phát triển trong việc đánh giá TBH. Các hình ảnh mang yếu tố trực quan đánh thức tư duy, đưa học sinh đi từ biết đến hiểu sâu sắc kiến thức. 1.2. Ý nghĩa của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử để phát triển tư duy phản biện cho học sinh Tư duy phản biện là kĩ năng vận dụng tư duy để hình thành và đưa ra các ý kiến lập luận của bản thân nhằm giải quyết các vấn đề trong giao tiếp. Việc rèn luyện các kĩ năng tư duy trong đó có tư duy phản biện cho học sinh là cần thiết, phù hợp với yêu cầu của việc đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học. Trong đó, việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử có nhiều ưu thế để phát triển tư duy phản biện cho học sinh. Thứ nhất, tranh biếm họa mang đầy đủ những ưu điểm của đồ dùng trực quan. Tranh biếm họa thực chất cũng là một loại đồ dùng trực quan, có vai trò quan trọng trong việc mở đầu quá trình nhận thức - “trực quan sinh động”. Bên cạnh đó, tranh biếm họa lại có yếu tố cường điệu, sự hài hước, lạ lẫm thu hút học sinh. Vì vậy, với tranh biếm họa, học sinh không chỉ đơn thuần quan sát tranh và liên hệ đến nội dung kiến thức mà còn phải lý giải, phân tích, đánh giá những nội dung kiến thức được “cường điệu” trong tranh. Thứ hai, tranh biếm họa góp phần khắc sâu sự kiện lịch sử, nâng cao năng lực tái hiện lịch sử. Tranh biếm họa với những chi tiết phóng đại sẽ gây ấn tượng với người xem, duy trì sự chú ý và làm chỗ dựa cho sự ghi nhớ. Theo quy luật ưu tiên của trí nhớ, sự ghi nhớ sẽ có chọn lọc với các mức độ khác nhau tùy 7
  10. thuộc vào đặc điểm thông tin. Sự ghi nhớ sẽ ưu tiên cho những điều cụ thể, hình ảnh trực quan, sự vật, hiện tượng càng sinh động, hấp dẫn càng gây hứng thú, càng dễ ghi nhớ. Những đặc điểm đó sẽ góp phần giúp học sinh tái hiện kiến thức khi cần thiết, khắc sâu sự kiện lịch sử hơn, tạo biểu tượng lịch sử ở học sinh. Thứ ba, tranh biếm họa góp phần phát triển óc quan sát và tư duy cho học sinh. Tranh biếm họa có đặc trưng là tính tính biểu tượng và logic vấn đề cao, luôn có một lớp nghĩa ẩn dưới các hình vẽ, nên để hiểu được tranh biếm họa thì học sinh cần có nền tảng tốt, cộng thêm tư duy logic và tư duy phản biện cao. Do đó, sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử còn giúp thúc đẩy tư duy phản biện, chính kiến và sự logic trong nhận thức của học sinh. Thứ tư, tranh biếm họa có khả năng kích thích sự thảo luận và tranh luận trong lớp học cũng như tạo ra một không khí học tập sôi nổi. Những cách nhìn khác nhau, những quan điểm trái chiều…. là những vấn đề mà chúng ta phải đối mặt khi sử dụng tranh biếm họa. Điều đó lại thúc đẩy học sinh phải tranh luận cũng nhưđưa ra những lập luận chặt chẽ để bảo vệ quan điểm của mình. Sự phản biện và những tiếng cười của học sinh là những nhân tố quan trọng để tạo ra một bầu không khí học tập sôi nổi. Đó là nền tảng của việc tiếp thu kiến thức một cách tích cực, là biểu hiện của sự hứng thú trong học tập và là tín hiệu của những hành động đúng. 1.3. Vai trò quan trọng của năng lực tƣ duy phản biện lịch sử Tư duy phản biện là hành động nhận thức diễn ra trong tư duy, là khả năng sử dụng các thao tác tư duy (thu thập, phân tích, đánh giá thông tin) để đưa ra những nhận xét, đánh giá hoặc kết luận. Tư duy phản biện còn là quá trình sáng tạo để dự đoán hệ quả, rút ra ý nghĩa và bài học kinh nghiệm cho một vấn đề. Tư duy phản biện là quá trình hình thành các câu hỏi liên quan đến vấn đề phản biện, dự trên nền tảng là kỉ năng tư duy và năng lực ra quyết định để khẳng định vấn đề được phản biện đúng hay chưa đúng. Tư duy phản biện không phải là quá trình hình thành các quan điểm trái ngược, chống đối hay phá hoại vấn đề được phản biện, mà đó là quá trình nhằm tìm kiếm các căn cứ khoa học để làm sáng tỏ các vấn đề, tìm ra chân lí của vấn đề. Tư duy phản biện một trong 4 kĩ năng quan trọng của thế kỉ XXI. Nó cũng được đề cập ngày càng nhiều trong chương trình giảng dạy nói chung, trong môn Lịch sử nói riêng. Môn Lịch sử với những đặc điểm riêng của nó sẽ tạo ra rất nhiều lợi thế để hình thành tư duy phản biện cho học sinh. Việc giảng dạy lịch sử sẽ giúp học sinh có khả năng sử dụng tư duy độc lập, thể hiện quan điểm cá nhân về các sự kiện và nhân vật lịch sử hơn là học thuộc những gì được viết trong sách giáo khoa. Năng lực tư duy phản biện là cơ sở tạo nên năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo và tự chủ, tạo điều kiện cho các năng lực khác hình thành và phát triển. Năng lực tư duy phản biện có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới, của 8
  11. cuộc cách mạng công nghiẹp 4.0. Các môn khoa học xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát triển năng lực tư duy phản biện trong đó lịch sử là môn học có nhiều ưu thế giúp học sinh phát triển tư duy này. Các kỹ năng cốt lõi của tư duy phản biện là quan sát, diễn giải, phân tích, suy luận, đánh giá, giải thích, và tổng hợp. Tuy nhiên, một cá nhân hay một nhóm người có năng lực tư duy phản biện thì họ thường chú trọng tới các điểm sau: Minh chứng qua quan sát; Bối cảnh; Những tiêu chí quan yếu và thiết thực để có một nhận định đúng; Những phương pháp có thể áp dụng được hay kỹ thuật xây dựng nhận định; Những cơ cấu lý thuyết có thể áp dụng được để hiểu những vấn đề và câu hỏi trong tầm tay. Ngoài ra, muốn hoạt động phản biện diễn ra hiệu quả, người phản biện cần phải chuẩn bị để sẵn sàng gắn việc giải quyết những vấn đề nêu ra với những kĩ năng tương ứng. Tư duy phản biện vận dụng không chỉ tri thức về logic mà còn những tiêu chí trí tuệ khác như sự rõ ràng, đáng tin cậy, sự xác đáng, sự sâu sắc, tính thiết thực, chiều sâu và tầm rộng, cũng như sự quan yếu và tính công bằng. Lịch sử là nhận thức của con người về cuộc sống đã diễn ra trong quá khứ với những nguồn học liệu phong phú và nhận thức lịch sử đa chiều. Khoa học lịch sử có khả năng nhận thức được lịch sử nhưng không phải là nhận thức trực quan, tuyệt đối mà là quá trình tiệm cận với lịch sử, cho nên cùng một sự kiện, một hiện tượng lịch sử có thể có những quan điểm khác nhau. Năng lực tư duy phản biện lịch sử là một năng lực chuyên biệt ở mức độ tư duy cao. Trong dạy học lịch sử, NLTDPB của HS bộc lộ một trong những dấu hiệu sau: + HS có khả năng tập hợp thông tin và xử lý thông tin, tư liệu lịch sử, có khả năng xem xét thông tin với thái độ hoài nghi. Có khả năng xác định các tiêu chí đánh giá khác nhau, thu thập và xử lý thông tin làm tiền đề cho đánh giá; lựa chọn thông tin đã có, tổng hợp và phân tích thông tin mới để đánh giá vấn đề. + Biết suy xét hợp lí các tiền đề, các mối liên hệ, sự kết nối logic giữa các ý tưởng để tìm ra kết quả, đánh giá vấn đề thông qua các minh chứng, lập luận của bản thân. + Từ nhận thức đúng đắn các vấn đề lịch sử, HS có thể rèn luyện khả năng phán đoán, suy luận các vấn đề đặt ra trong thực tiễn hiện nay. + Biết phân tích vấn đề dưới nhiều góc độ, quan điểm khác nhau; có khả năng đặt ra các câu hỏi. + Có khả năng tranh biện trên cơ sở các thông tin, kiến thức liên quan, khả năng nêu ý tưởng, bảo vệ ý tưởng bằng các luận điểm rõ ràng. + Phát hiện và loại bỏ các thông tin sai lệch và không liên quan, phát hiện các mâu thuẫn trong vấn đề, đề xuất và thực hiện các giải pháp theo hướng khắc phục, hạn chế những nhược điểm đang còn tồn tại trong mỗi vấn đề đang nghiên cứu. 9
  12. + HS vận dụng những quy luật lịch sử để giải quyết vấn đề đặt ra trong lịch sử hoặc đánh giá những quan điểm lịch sử trước. Có năng lực tư duy phản biện, HS sẽ học lịch sử với lăng kính phản biện của nhà sử học để tìm ra nhận thức đúng đắn, khám phá lịch sử với nhãn quan cá nhân. Đồng thời, năng lực tư duy phản biện còn giúp các em đánh giá thông tin, vấn đề trong cuộc sống hiện tại để đưa ra những quyết định đúng đắn nhất. Thông qua hiểu biết về quá khứ mà HS rút ra được những quy luật, bài học lịch sử, kĩ năng phân tích, phán đoán và định hướng cách giải quyết vấn đề. Phát triển năng lực tư duy phản biện cho HS là một trong những giải pháp để HS nhận đúng về các sự kiện lịch sử, rèn luyện những kĩ năng phân tích, đánh giá, dự đoán xu hướng phát triển. - Năng lực tư duy phản biện có tác dụng trong việc giúp HS trao đổi kiến thức lịch sử một cách chủ động, hiệu qủa và chính xác. Khi đánh giá một vấn đề, HS phải có sự hiểu biết sâu sắc, chủ động tìm kiếm và tiếp thu. Qua quá trình tìm kiếm, chọn lọc thông tin, các em đã có những hiểu biết nhất định về các nhân vật, sự kiện, những hiểu biết ấy được kiểm nghiệm, đánh giá thông qua tranh luận, thảo luận với bạn bè, thầy cô. Ngoài tính chủ động, NLTDPB còn giúp HS nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng LS một cách chính xác, khoa học ở nhiều khía cạnh khác nhau, với nhiều cách nhìn khác nhau. Qua những lập luận, tranh luận, HS thu được kiến thức phong phú, sâu sắc, toàn diện về một vấn đề, đó thực sự là kiến thức do chính các em kiến tạo nên. Năng lực tư duy phản biện là công cụ sắc bén để giúp học sinh sử dụng kiến thức từ sách giáo khoa, tài liệu tham khảo trở thành kiến thức của bản thân. Từ đó, học sinh hiểu sâu và nhớ lâu kiến thức trong quá trình học tập. - Năng lực tư duy phản biện trang bị cho HS những kỹ năng cơ bản của tư duy để đưa ra những phán đoán thuyết phục. Trong quá trình giải quyết vấn đề của NLTDPB, HS phải thực hiện nhiều thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, phán đoán, suy luận, lập luận…đó là những thao tác tư duy cần thiết trong học tập nói chung và trong cuộc sống nói riêng. Đồng thời, khi có được TDPB, HS có được nhiều kĩ năng nêu và giải quyết vấn đề, kĩ năng đặt câu hỏi, kĩ năng phân tích và lập luận… - Năng lực tư duy phản biện là cơ sở để học sinh phát triển tư duy sáng tạo trong học tập. Trong qua trình tìm kiếm thông tin để phân tích, đánh giá, học sinh sẽ có cơ hội đề xuất những ý tưởng sáng tạo của mình nhằm tìm ra kết luận đúng nhất. Qua đó, tránh được lối tư duy thụ động, một chiều, sáo rỗng, áp đặt, duy ý chí và ngụy biện, thay vào đó là lối tư duy chủ động, tích cực và sáng tạo để làm chủ thông tin, làm chủ kiến thức. Từ đó, biết vận kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Tư duy phản biện giúp hình thành nên những công dân có trách nhiệm xã hội trên nền tảng những nhận thức khoa học. Từ đó có thái độ tích cực trong việc góp phần xây dựng một cuộc sống tương lai tốt đẹp trên cơ sở kinh nghiệm, bài học từ quá khứ. 10
  13. Ngoài ra, quá trình phát triển năng lực tư duy phản biện còn rèn luyện cho học sinh những kĩ năng như: Kĩ năng nhận diện, xác định vấn đề cần giải quyết; Kĩ năng phân tích mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử; Kĩ năng thu thập thông tin về các vấn đề cần giải quyết; Kĩ năng phát hiện các vấn đề và chỉ ra các mâu thuẫn sai lầm trong quá trình lập luận; Kĩ năng khái quát hóa vấn đề; Kĩ năng rút ra bài học kinh nghiệm, ý nghĩa lịch sử và biết vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Như vậy, việc phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử không chỉ có ý nghĩa trên cả ba mặt: kiến thức, kĩ năng, thái độ mà còn là cơ sở để hình thành và phát triển ở học sinh năng lực chung và năng lực đặc thù như: năng lực tìm kiếm và khai thác thông tin, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học… Phát triển năng lực tư duy pahnr biện cho học sinh trong dạy học lịch sử được cụ thể thông qua các bước cơ bản sau: Bước 1: Nhận diện được vấn đề cần giải quyết nghĩa là xác định được những ý kiến cùng chiều với vấn đề và những ý kiến trái chiều với vấn đề, sau đó tổng hợp các ý kiến khác nhau để tiến hành giải quyết vấn đề. Bước 2: Xây dựng hệ thống các câu hỏi để tiến hành phân tích các ý kiến nhằm tìm ra các câu trẻ lười rõ ràng, chính xác, nghĩa là học sinh phải phân tích những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề. Bước 3: Thu thập các thông tin có liên quan đến vấn đề, học sinh cần thu thập thông tin trên sách, tư liệu, công cụ trên mạng internet…Sau đó, xác định loại thông tin có liên quan đến vấn đề, đánh giá sơ bộ chất lượng và số lượng thông tin (tính khoa học, chính xác, tin cậy). Cuối cùng là chuẩn bị giấy bút, phương tiện, công cụ để thu thập và xử lý thông tin. Bước 4: Đánh giá những luận điểm, luận cứ đã phân tích bằng cách xác định những mâu thuẫn trái chiều, không logic trong các luận điểm, luận cứ. Xác định những luận điểm, luận cứ mang tính chính xác, khoa học có tính thuyết phục. Sơ đồ hóa những luận điểm, luận cứ đã được lựa chọn để phản biện. Bước 5: Trình bày quan điểm cá nhân, việc trình bày nên sử dụng sơ đồ hóa để trình bày nội dung như những điểm không chính xác, nội dung còn thiếu cần bổ sung ý kiến vào vấn đề đang giải quyết hoặc đưa ra kết luận mới cho vấn đề đã nghiên cứu. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thuận lợi - Về điều kiện cơ sở vật chất và hệ thống thông tin: ở trường THPT Quỳ Hợp 3, nơi mà tôi giảng dạy đều đã có đầy đủ (hệ thống các phòng nghe nhìn được trang bị máy tính, máy chiếu, loa, các phòng học đều lắp ti vi…). Mạng Internet có nội dung ngày càng đa dạng và sâu sắc phản ánh nhanh và kịp thời các vấn đề lịch sử. Đặc biệt tranh biếm họa báo chí đã có lịch sử hơn 2 thế kỉ 11
  14. trên thế giới và một thế kỉ ở Việt Nam. Đây chính là cơ hội tốt để giáo viên và học sinh có thể tiếp cận với kho tranh biếm họa để khai thác, phục vụ cho việc dạy và học. - Về trình độ nhận thức của học sinh THPT hiện nay: Các học sinh ở trường tôi giảng dạy đã đạt tới một sự phát triển nhất định về thể chất và tư duy. Do được tiếp cận với công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông từ sớm nên các em đã thu nhận một khối lượng thông tin về cuộc sống xã hội, nên trong tư duy của các em đã hình thành phần nào kĩ năng phản biện. Điều đó giúp các em giải mã những thông điệp mà mỗi bức tranh biếm họa mang đến một cách dễ dàng hơn và chủ động hơn. Hơn nữa, học sinh hiện nay tỏ ra tự tin, bản lĩnh và rất cá tính. Các em cũng tỏ ra quan tâm nhiều đến lịch sử, thích tranh luận để khẳng định các giá trị sống của bản thân. Đây chính là lí do chúng ta có thể kết hợp rất tốt tranh biếm họa với các phương pháp tích cực khác để phát triển tư duy phản biện cho học sinh. - Ngoài ra những định hướng đổi mới trong chương trình và sách giáo khoa cũng là cơ hội tốt để tôi đưa tranh biếm họa vào dạy học lịch sử. Cốt lõi của Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 và Chương trình THPT các bộ môn là hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực cho người học. Phương pháp dạy học lịch sử hiện nay đòi hỏi phải thay đổi theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, tăng cường các hoạt động độc lập của học sinh, giúp học sinh được làm việc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn. Chính vì vậy, khi đưa tranh biếm họa vào dạy học lịch sử, nó sẽ trở thành một công cụ dạy học đắc lực giúp học sinh được suy nghĩ, được tranh luận, được thể hiện quan điểm bản thân từ đó khắc sâu kiến thức, phát triển tư duy phản biện. - Gần đây năm 2019, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã cho xuất bản cuốn sách “Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông” của nhóm tác giả do Tiến sĩ Nguyễn Văn Ninh chủ biên đã giúp cho giáo viên lịch sử ở trường phổ thông có nhiều hơn sự lựa chọn tranh biếm họa để phục vụ đắc lực và hiệu quả dạy học lịch sử. 2.2 Khó khăn - Đối với giáo viên + Đây là một hướng đi mới nên các giáo viên còn gặp nhiều lúng túng trong việc sử dụng tranh biếm họa hiệu quả nhất trong một tiết học. Nhất là trong điều kiện mà tranh biếm họa không được đưa nhiều vào trong chương trình sách giáo khoa hiện hành. Cụ thể, ở lớp 10 chỉ có 02 tranh (Hình 56. Tình cảnh nông dân Pháp trước cách mạng, trang 151 và Hình 59. Vua Lu-i bị xử chém (21/1/1793), trang 156), lớp 11 có 02 tranh (Hình 6. Các nước đế quốc xâu xé “cái bánh ngọt” Trung Quốc, trang 13 và Hình 32. Lạm phát ở Đức, trang 64), lớp 12 trong đó có chương III (Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954) thậm chí không có bức tranh biếm họa nào được đưa vào. 12
  15. + Giáo viên sẽ gặp không ít khó khăn để phát hiện ra được những kiến thức cần phải khắc sâu cho học sinh trong một bối cảnh không quen thuộc của tranh biếm họa khiến cho học sinh thụ động hơn nhiều so với các kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. + Tranh biếm họa kích thích rất mạnh đến thái độ học sinh, vì vậy việc tìm kiếm được một bức tranh biếm họa vừa phù hợp với nội dung bài học, vừa kích thích được thái độ tích cực của học sinh từ đó phát triển tư duy phản biện là điều không dễ dàng. Trong khi số lượng các tranh biếm họa phù hợp với nội dung của bài học hiện nay rất hạn chế, đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị rất công phu và vất vả. + Trong thực tiễn dạy học lịch sử, một số giáo viên vẫn mặc nhiên công nhận những sự kiện, ngại tích hợp kiến thức mới vào giảng dạy dẫn đến HS còn thụ động trong lĩnh hội kiến thức, chưa có cái nhìn đa chiều về sự kiện, hạn chế sự phát triển của NLTDPB. - Đối với học sinh + Bối cảnh trong những bức tranh biếm họa thường được phóng đại, đôi khi khác nhiều so với thực tế đời sống đòi hỏi các em phải có vốn sống nhất định mới có thể phân tích và tìm ra thông điệp của bức tranh. Thực tế, trong năm học 2020 -2021, khi tôi đưa bức tranh biếm họa “Đức tấn công Liên Xô” (Phụ lục 1.1) vào giảng dạy phần diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945), Bài 17, Lịch sử lớp 11 ở 2 lớp 11A1 và 11A4 thì chỉ có 18/75 (22.7%) học sinh hiểu đúng và 57/75(77,3%) em không giải mã được nó để phục vụ cho nội dung bài học. Đây sẽ là khó khăn lớn nhất mà mỗi giáo viên cần lưu ý khi đưa tranh biếm họa vào phục vụ cho dạy học lịch sử. Giáo viên sẽ phải tính toán tầm hiểu biết của học sinh và khả năng thấu hiểu bức tranh để sử dụng sao cho hợp lí. + Năm học 2020-2021, sau khi dạy Chương III. Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 ở 2 lớp 12A4 và 12C1 mà không sử dụng bất kì bức tranh biếm họa nào, tôi đã cho các lớp làm 1 bài kiểm tra trắc nghiệm nhanh (10 phút) (Phụ lục 2) và thu được kết quả như sau. Hiện nay, ở các trường THPT có nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được giáo viên áp dụng vào dạy học, đặc biệt trong môn lịch sử. Trong đó tôi đã tiến hành điều tra thực trạng của dạy học theo hướng phát triển năng lực TDPB như sau: - Mục đích điều tra: Tìm hiểu thực trạng dạy học theo hướng phát triển năng lực tư duy phản biện trong môn lịch sử ở trường THPT. - Đối tượng điều tra: Học sinh lớp 11A2, 10A3, 12A3 trường THPT Quỳ Hợp. - Nội dung điều tra: Điều tra theo mức độ hình thành các dấu hiệu của năng lực tư duy phản biện trong dạy học môn lịch sử. - Kết quả điều tra: 13
  16. Hiếm Thỉnh Thƣờng TT Tiêu chí khi thoảng xuyên 1 GV đưa ra các tình huống có vấn đề. 44% 56% 0% GV đưa ra các vấn đề có quan điểm 2 75% 25% 0% đánh giá đa chiều. Học sinh phải thu thập thêm thông tin, tư liệu để khẳng định những nhận định 3 63% 37% 0% lịch sử hoặc phản biện những nhận định cũ. Học sinh được tổ chức tranh luận, thể hiện quan điểm cá nhân trong giờ học 4 64% 36% 0% lịch sử, được phản bác ý kiến của người khác và bảo vệ ý kiến của mình HS được đặt câu hỏi và được GV giải 5 65% 35% 0% thích về những vấn đề còn hoài nghi GV tổ chức cho học sinh phải huy động 6 kiến thức, kĩ năng lịch sử để giải quyết 53% 47% 0% một vấn đề thực tiễn. Trong kiểm tra đánh giá, HS được thực hiện các bài tập có thể trình bày quan 7 56% 44% 0% điểm cá nhân, tranh luận các vấn đề lịch sử. Học sinh phải phát huy năng lực hợp 8 tác giữa các thành viên trong nhóm để 40% 60% 0% giải quyết một vấn đề lịch sử. Như vậy, qua kết quả điều tra cho thấy, vấn đề dạy học lịch sử ở trường THPT còn nặng về truyền tải kiến thức, chưa phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Học sinh chưa có cơ hội để phát huy năng lực tư duy phản biện. Thực tế việc dạy và học ở Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây vẫn chú trọng giáo dục chương trình, nặng về kiến thức và thiếu nhiều về thực hành cũng như trang bị các kĩ năng nhằm đáp ứng và theo đuổi kịp xu thế giáo dục trên thế giới. Việc dạy học theo định hướng năng lực hiện cũng đang là xu hướng chung của các nước phát triển trên thế giới. Nhằm bắt kịp với giáo dục thế giới, đáp ứng được đòi hỏi của thực tế công việc đối với giáo viên, giáo dục và đào tạo ở Việt Nam cũng đang trên con đường định hướng giáo dục và đào tạo theo năng lực. Như vậy, trong những năm học qua ở trường tôi, chất lượng bộ môn lịch sử là không cao, các em còn thụ động trong học tập, gặp nhiều khó khăn trong các bài kiểm tra trắc nghiệm. Đặc biệt đối 14
  17. với học sinh khối 12, các em sẽ lấy điểm môn lịch sử trong bài thi Tổ hợp Xã hội làm điểm xét tốt nghiệp thì điểm trung bình của trường tôi xếp dưới mức trung bình của toàn tỉnh. Đó luôn là điều trăn trở của các giáo viên lịch sử trường tôi mà với tư cách là nhóm trưởng chuyên môn, tôi lại càng quyết tâm tìm ra những khó khăn của học sinh, giúp các em có hứng thú hơn đối với bộ môn để từ đó nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TRANH BIẾM HỌA ĐỂ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƢ DUY PHẢN BIỆN CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC CHƢƠNG III. LỊCH SỬ VIỆT NAM (1945 -1954) - LỊCH SỬ 12 CƠ BẢN. 1. Kĩ thuật khai thác tranh biếm họa vào dạy học lịch sử. 1.1. Nguyên tắc lựa chọn tranh biếm họa Thứ nhất, cần đảm bảo phù hợp với nội dung lịch sử. Tranh biếm họa giúp khắc sâu kiến thức, do đó, chỉ nên dùng khi kết hợp với các nội dung quan trọng, trọng tâm bài học, tránh phân tán sự chú ý của học sinh. Thứ hai, khi lựa chọn tranh biếm họa dùng trong dạy học lịch sử cần đảm bảo tính vừa sức. Ban đầu, khi mới tiếp cận thì nên lựa chọn những tranh biếm họa đơn giản và kết hợp lời chú dẫn. Sử dụng một bức tranh biếm họa quá trừu tượng, phức tạp có thể quá sức với học sinh, từ đó dẫn đến việc không đạt được mục tiêu dạy học như dự kiến. Thứ ba, tranh biếm họa phải đảm bảo độ tin cậy. Vì tranh biếm họa mang trong nó tính chủ quan của người vẽ nên khi đưa vào bài học cần chú ý ghi cụ thể các thông tin liên quan đến người vẽ, năm ra đời, được in ấn ở đâu, xuất bản trên tạp chí hay tờ báo nào. Từ những thông tin đó, kết hợp với thông tin kênh chữ trong bài học, học sinh sẽ có cái nhìn toàn diện hơn, chính xác hơn về nhân vật và sự kiện trong sự đánh giá của mình. Thứ tư, khi đưa tranh biếm họa vào dạy học cần đảm bảo nguyên tắc hài hòa với các loại kênh hình khác như: tranh, ảnh, bản đồ, lược đồ, bảng thống kê. Trong bài học cần có đầy đủ các loại kênh hình bên cạnh tranh biếm họa để học sinh có thể hiểu thấu đáo nội dung và phát triển đầy đủ kỹ năng tư duy, trong đó có tư duy phản biện. Thứ năm, tranh biếm họa sử dụng trong dạy học cần đảm bảo tính rõ ràng về mặt hình thức, có tính thẩm mĩ cao. Những bức tranh phản cảm về mặt hình thức không những sẽ hạn chế tính giáo dục mà nó còn có thể gây tác dụng ngược. 1.2. Kĩ thuật khai thác tranh biếm họa trong dạy học lịch sử ở trường THPT Có nhiều cách phân tích, giải mã một bức tranh biếm họa và để khai thác và vận dụng hiệu quả ý nghĩa của các bức tranh biếm họa vào dạy học, yêu cầu 15
  18. người giáo viên phải có những hiểu biết về các vấn đề mà bức tranh thể hiện và kỹ năng truyền tải tốt. Đồng thời giáo viên phải có kĩ thuật và phương pháp khai thác tranh thì mới có thể truyền tải hết được những nội dung lịch sử tích hợp trong đó đến với học sinh. Dưới đây là 5 bước cơ bản để có thể khai thác hiệu quả nội dung một bức tranh biếm họa: Bước 1: Mô tả các đối tượng và tình huống trong bức tranh như: không gian, bối cảnh, tư thế, nét mặt, hình dáng, kích thước, màu sắc, hình khối… Bước 2: Đưa ra nhận xét, định hướng ban đầu về nội dung được đề cập trong bức tranh như: Mối liên hệ giữa các đối tượng và bối cảnh trong bức tranh; Xác định nội dung thể hiện mà bức tranh hướng tới. Bước 3: Đưa ra các phán đoán về nội dung thể hiện của bức tranh: Nhận biết và giải mã những biểu tượng được sử dụng trong tranh biếm họa; Tìm hiểu các lời dẫn (nếu có) và phân tích, tìm ra các khả năng mà bức tranh có thể thể hiện. Bước 4: Mục đích thể hiện của bức tranh: Xem cá nhân, nhóm người nào hay một vấn đề nào bị đưa ra phê phán; phán đoán xem có mâu thuẩn nào tồn tại trong bức tranh biếm họa. Bước 5: Đánh giá cuối cùng về nội dung thể hiện của bức tranh: bày bỏ quan điểm đồng ý hay không đồng ý với ý kiến của tác giả hoặc rút ra thông điệp mà bức tranh muốn truyền tải. Ví dụ giáo viên có thể sử dụng bức tranh “Đức tấn công Liên Xô” trong bài 17. “Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 -1945)” (Lịch sử 11 cơ bản), phần diễn biến của chiến tranh. Trước hết giáo viên phát phiếu học tập kết hợp cho học sinh quan sát để xây dựng đoạn miêu tả bức tranh thông qua một số câu hỏi gợi ý về nhân vật, hành động của nhân vật trong tranh (thời gian làm việc là 3 phút), cụ thể như: - Nhân vật trong bức tranh là ai ? Hãy miêu tả động tác tay của nhân vật và dự đoán ý nghĩa của hành động này ? - Hãy tìm ra mối liên hệ giữa hàng lính-hình chữ vạn-bia mộ có ý nghĩa gì ? - Bức tranh phản ánh âm mưu gì của phát xít Đức trong trận Xtalingrat ? Để đối phó với âm mưu đó, quân dân Liên Xô đã làm những gì ? - Bức tranh gợi cho em điều gì về Hít-le và trách nhiệm của chúng ta để giữ gìn hòa bình, chống chiến tranh phi nghĩa. 2. Kĩ thuật sử dụng tranh biếm họa trong các khâu của quá trình dạy học dạy học lịch sử. Muốn có một bài dạy lịch sử hiệu quả cao cũng như để việc sử dụng tranh biếm họa trong bài học trở nên sinh động, hấp dẫn, chúng ta có thể sử dụng linh hoạt tranh biếm họa trong tất cả các khâu của quá trình lên lớp 16
  19. 2.1 Sử dụng tranh biếm họa để tạo động cơ học tập, thu hút sự chú ý của học sinh. Tính tích cực học tập-động cơ-hứng thú có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây chính là ưu thế của tranh biếm họa so với các loại tranh khác. Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử cần kích thích, hướng tới việc tạo động cơ bên trong, sự khao khát, mong mỏi khám phá những điều ẩn chưa đằng sau sự “phóng đại” mà bức tranh thể hiện. Ví dụ 1: Dạy bài Cách mạng tư sản Pháp, để tạo động cơ học tập, GV hướng dẫn HS phân tích, đánh giá bức tranh biếm “Tình cảnh nông dân Pháp trƣớc cách mạng”. Bức tranh miêu tả một người nông dân già nua, ốm yếu nhưng lại phải cõng trên lưng mình hai người đàn ông to béo, khỏe mạnh. Đó chính là hình tượng cho hai đẳng cấp quý tộc, tăng lữ trong xã hội Pháp trước cách mạng. Tác dụng phát triển tư duy phản biện của HS ở chỗ: đánh giá, nhận định về tình cảnh khác nhau của 3 đẳng cấp trong xã hội Pháp, rút ra được nguyên nhân dẫn đến bùng nổ cách mạng. Ví dụ: Dạy bài Trung Quốc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Bức tranh biếm hoạ: “cái bánh ngọt khổng lồ” phản ánh việc Trung Quốc dần biến thành thị trường béo bở và nơi tranh giành của các nước đế quốc. Trung Quốc là một nước lớn, giàu tài nguyên khoáng sản được ví như một “cái bánh ngọt khổng lồ” mà không một đế quốc nào có thể nuốt trôi được. Cái bánh bị cắt thành 6 phần, trên có ghi dòng chữ: Trung Quốc, Mãn Châu, Triều Tiên. Ngồi xung quanh là 6 người với chiếc dĩa nhọn hoắt trong tay. Kể từ trái qua phải đó là chân dung của Hoàng đế Đức, Tổng thống Pháp, Nga hoàng, Nhật hoàng, Tổng thống Mĩ và thủ tướng Anh đương thời. Ví dụ giáo viên có thể sử dụng bức tranh “Mau lên du hành”(Phụ lục 1. 2) của Nguyễn Ái Quốc trong phần khởi động, tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy bài 12. Phong trào dân tộc dân chủ 1919-1925-Lịch sử 12 cơ bản. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh khai thác bức tranh thông qua việc trả lời câu hỏi, yêu cầu học sinh nhận diện các nhân vật và nêu được nội dung phản ánh trong tranh. Sau đó giáo viên dẫn dắt vào cuộc khai thác thuộc địa và các chính sách thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương, hậu quả của chính sách đó đã dẫn đến các phong trào dân tộc dân chủ diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam trong những năm 1919 -1930. Ví dụ: dạy bài Lịch sử lớp 12: Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp ở Đông Dương; GV sử dụng triển lãm tranh minh hoạ đã đăng trên Báo Le Paria, trên 38 số báo xuất bản, Nguyễn Ái Quốc đã vẽ một số tranh biếm họa lên án trực diện chính sách bóc lột thuộc địa tàn bạo của thực dân Pháp, tiêu biểu như những bức Văn minh bề trên (Civilisation supérieure); Triển lãm thuộc địa (Exposition coloniale); Hội nghị An-giê (La Conférence D’Angier); Vi hành (Incognito!...). Những bức biếm họa này được Nguyễn Ái Quốc thể hiện bằng những thủ pháp cường điệu, tập trung vào các hình ảnh tương phản, đối lập rất lớn về kích thước và vị trí giữa phía trên là tầng lớp thống trị và phía dưới, tầng 17
  20. lớp bị trị. Đó là những hình ảnh các ông chủ thực dân giàu có to béo đang cưỡi trên lưng người dân thuộc địa gày gò, đói ăn, rách rưới, những hình ảnh đã vạch trần và tố cáo mạnh mẽ bản chất bóc lột tàn bạo, phi nhân đạo của chế độ thực dân đối với các dân tộc thuộc địa nói chung và với dân tộc Việt Nam nói riêng. Mặc dù những minh họa đó đã được thể hiện bằng các kỹ thuật sáng tác hội họa cường điệu, tuy nhiên chúng vẫn chuyển tải được những ấn tượng hiện thực mạnh mẽ, chân thực đúng như những gì đã diễn ra trong từng trang sử đen tối ở khắp các mảnh đất thuộc địa. 2.2 Sử dụng tranh biếm họa hướng dẫn học sinh nghiên cứu kiến thức mới. Tranh biếm họa được sử dụng trong trường hợp này sẽ đi kèm với gợi ý của giáo viên, câu hỏi hoặc phiếu học tập như một định hướng kích thích tư duy và trí tưởng tượng của học sinh, giúp các em chủ động tham gia vào quá trình lĩnh hội kiến thức, qua đó hiểu rõ nội dung bài học được phản ánh trong tranh biếm họa. Đối với phần kiến thức này giáo viên cần tạo ra các tình huống có tính phản biện để tổ chức cho học sinh nghiên cứu và tham gia phản biện. Ví dụ 1: Khi dạy bài Tây Ây thời hậu kì trung Đại phần các cuộc phát kiến địa lí để làm rõ một trong những hậu quả của cuộc phát kiến địa lí và liên hệ tới Việt Nam giáo viên có thể đưa ra một bức tranh để học sinh tranh luận. Sau khi học sinh chọn theo ý kiến nào thì chia thành 2 nhóm để tranh luận: 1 nhóm theo ý kiến của người dân thuộc địa, 1 nhóm theo ý kiến của bọn tư bản thực dân và bắt đầu tranh luận để bảo vệ các ý kiến của mình. Giáo viên theo dõi để đánh giá nhóm nào đưa ra lý lẽ thuyết phục nhất để bảo vệ ý kiến của nhóm mình. Ví dụ 2: Khi học lịch sử lớp 10 bài học liên quan đến sự thống nhất nước Đức ở Việt Nam, nếu học sinh được xem hình ảnh “Thần chết nói lời cảm ơn Bismarck” thì chắc chắn các em tự đặt ra những câu hỏi suy luận và tìm cách giải thích: Hình ảnh đó liên quan đến cuộc chiến tranh nào? Cuộc chiến tranh đó mang lại điều gì cho nước Đức? Và tại sao Bismarck lại được gọi là Thủ tướng “sắt và máu”? 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2