intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh tại trường THPT Tương Dương 1 trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:41

32
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh tại trường THPT Tương Dương 1 trong giai đoạn hiện nay" nhằm tìm ra các giải pháp mới nhằm mang lại hiệu quả tích cực trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh tại trường THPT Tương Dương 1 trong giai đoạn hiện nay

  1. A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt nam, Người đã đi xa nhưng đã để lại cho dân tộc, cho nhân loại một tài sản tinh thần vô giá đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào, trở thành nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên đối với mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân Việt Nam trong quá trình rèn luyện, tu dưỡng để trở thành những công dân tốt, người lao động tốt. Quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, trong đó, việc tổ chức giáo dục, học tập cho thế hệ trẻ được coi trọng. Đặc biệt là đối với các trường phổ thông, việc đưa nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào dạy học một cách có hiệu quả là hết sức cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, nhất là khi chúng ta đang thực hiện đổi mới giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ: “Tiếp tục chỉ đạo biên soạn chương trình, giáo trình về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân và các học viện, trường chính trị, trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, bảo đảm phù hợp với từng cấp học, bậc học và với yêu cầu giáo dục, đào tạo. Đối với học sinh phổ thông, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, học tập về đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với giáo dục công dân, đạo đức nghề nghiệp”. Là đảng viên, là một giáo viên dạỵ lịch sử, là một cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh bản thân tôi luôn trăn trở tìm tòi, nghiên cứu, thực nghiệm, đôn đốc để tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Trường THPT Tương Dương 1- đơn vị tôi đang công tác, trong công tác giáo dục vẫn luôn chú trọng giáo dục đạo đức cho học sinh. Thấm nhuần lời răn dạy của Bác “đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng”; “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, mỗi cán bộ, đảng viên, giáo viên nhà trường đều chăm lo công tác giáo dục, thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học của trường. Với những nỗ lực không ngừng, chất lượng giáo dục ở trường chúng tôi đã thực sự khởi sắc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu chung của xã hội. Điều đó khiến tôi cũng như nhiều đồng nghiệp khác day dứt, trăn trở. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh tại trường THPT Tương Dương 1 trong 1
  2. giai đoạn hiện nay” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm trao đổi cùng đồng nghiệp, để nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh THPT. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục tiêu - Tìm ra các giải pháp mới nhằm mang lại hiệu quả tích cực trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn. - Thu thập, đánh giá kết quả áp dụng các giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Căn cứ từ thực tế quá trình giảng dạy, thực hiện để đúc kết kinh nghiệm, tìm ra những khó khăn trong quá trình làm việc, thông qua đó rút ra một số kinh nghiệm chung có thể áp dụng rộng rãi trong trường vào thực tiễn nơi tôi đang công tác. 3. Đối tượng nghiên cứu Các giải pháp nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, tôi tập trung nghiên cứu, áp dụng cho học sinh Trường THPT Tương Dương 1. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu giáo trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.Tham khảo sáng kiến, kinh nghiệm của đồng nghiệp. Tham khảo tư liệu thông qua mạng Internet, tạp chí giáo dục..... -Phương pháp quan sát: Thông qua quan sát quá trình hoạt động học tập của học sinh - Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc dạy học bộ môn. Qua kinh nghiệm trao đổi, học tập với đồng nghiệp. Qua trò chuyện, trao đổi với học sinh. - Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài thông qua kết quả rèn luyện đạo đức, học tập của học sinh. 6. Tính mới của đề tài - Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 2
  3. B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1.1. Một số khái niệm chung 1.1.1. Đạo đức Đạo đức là một khái niệm hiện đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Đạo đức được hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và toàn xã hôi. Tuy nhiên, trong mỗi lĩnh vực chuyên sâu, đạo đức được hiểu cụ thể hơn. Đạo đức là một từ Hán Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố trong tính cách và giá trị của một con người. Đạo là con đường, đức là tính tốt hoặc những công trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn. Trong tâm lý học, đạo đức được định nghĩa như sau: Nghĩa hẹp: Theo Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng "Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội ". Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình. Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2002: “Đạo đức là những nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”, “là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những chuẩn mực đạo đức mà có”. Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề tốt - xấu, hơn nữa xem như là đúng - sai, được sử dụng trong 3 phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này. Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. 3
  4. 1.1.1.1. Giáo dục đạo đức Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm về giáo dục: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ngày nay, phương châm: “Dạy người, dạy chữ, dạy nghề” cũng thể hiện rõ tầm quan trọng của giáo dục đạo đức, như Bác Hồ đã dạy: “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định...”. Giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục lòng trung thành đối với Đảng, hiếu với Dân, yêu quê hương đất nước, có lòng vị tha, nhân ái, cần cù liêm khiết và chính trực. Đó là đạo đức xã hội chủ nghĩa là đạo đức của cá nhân, tập thể và chủ nghĩa nhân đạo mang tính chân thực, tích cực, khác với đạo đức vị kỷ, cá nhân. Giáo dục đạo đức học sinh gắn chặt với giáo dục tư tưởng - chính trị, giáo dục truyền thống và giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc, giáo dục pháp luật nhà nước xã hội chủ nghĩa, cung cấp cho học sinh những phương thức ứng xử đúng đắn trước vấn đề của xã hội,…. giúp cho các em có khả năng tự kiểm soát được hành vi của bản thân một cách tự giác, có khả năng chống lại những biểu hiện lệch lạc về lối sống. 1.1.1.2. Sự cần thiết phải giáo dục đạo đức học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Một trong những vấn đề đáng lo ngại hiện nay là đạo đức học đường của một bộ phận học sinh đang xuống cấp dẫn đến bạo lực học đường xảy ra ngày càng phổ biến. Đó không chỉ là những biểu hiện lệch lạc trong hành vi, nhân cách đạo đức như: thiếu lễ độ với người lớn, tụ tập gây gổ đánh nhau, thói lười học, ham chơi, sống đua đòi và vi phạm pháp luật... mà còn là hồi chuông cảnh báo xuống cấp về lối sống đạo đức, nhân cách của học sinh. Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là giúp cho học sinh có nếp sống giản dị, lành mạnh, trong sáng. Đồng thời góp phần chấn chỉnh đạo đức nếp sống trì trệ, thờ ơ, vô cảm. Hạn chế những hành vi, suy nghĩ tiêu cực ở học sinh thông qua tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các em có suy nghĩ, việc làm đẹp, thể hiện quan niệm sống nhân văn và ý thức công dân cao hơn. Quan niệm “Gương sáng để học tập” là quan niệm sống, là triết lí sống mà con người Á Đông đã nhận thức, phát huy tự bao đời nay. Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất tích cực đối với việc nâng cao lý tưởng và nhận thức của học sinh hiện nay. Đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ giúp cho các bạn trẻ nâng cao thế giới quan, nhân sinh quan mà còn có lý tưởng, nhận thức, lối sống phù hợp. Chẳng hạn, đạo đức Hồ Chí Minh về lòng yêu thương con người giúp cho các bạn trẻ giàu lòng nhân ái hơn, quan tâm hơn đến người khác, sống có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và xã hội. Hay đạo đức Bác Hồ về tiết kiệm rất phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay; bản thân những lời dạy của Bác cũng rất gần gũi, có thể áp dụng trong đời sống thực tiễn. Không chỉ vậy, với học sinh, những người đang hoàn thiện nhân cách, thì đạo đức Bác Hồ là chuẩn mực để các em học tập và noi theo. 4
  5. Thực hiện những tiêu chuẩn về đạo đức và nguyên tắc rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ tạo ra phong trào thi đua rèn luyện đạo đức mới, là một biện pháp tốt để xây dựng đạo đức trong tình hình hiện nay. Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc học tập và thực hành theo tấm gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, trước hết phải thấm nhuần tư tưởng của Người về vai trò và các phẩm chất đạo đức, đặc biệt kiên quyết khắc phục những biểu hiện xuống cấp về đạo đức con người nói chung, đạo đức học sinh nói riêng. Đây là một quá trình tạo ra những chuẩn mực giá trị đạo đức mới phù hợp với tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức 1.2.1. Vai trò của đạo đức Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức chính là gốc của con người. Điều này không chỉ thể hiện trong suốt cuộc đời thực hành đạo đức mẫu mực của Người mà còn được nhận thấy rất rõ qua các tác phẩm Người để lại cho chúng ta. Với mỗi người, Bác so sánh đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Vai trò của đạo đức còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ nhưng ai giữ được đạo đức là người cao thượng. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, không phải một chiều phụ thuộc vào tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng tác động tích cực trở lại, cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần một khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất. Chính vì vậy mà Người luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho cán bộ, Đảng viên. Người yêu cầu mỗi cán bộ Đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Đảng phải quan tâm chăm lo giáo dục đạo đức cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xă hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Ngoài ra, quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng người có tài năng mà không có đạo đức thì đó là người vô dụng, nhưng ngược lại, người có đạo đức mà không có tài năng thì trong bất kể công việc nào cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. 1.2.2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản 1.2.2.1. Trung với nước, hiếu với dân Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác. Trung, hiếu 5
  6. là những khái niệm đạo đức trong xã hội phong kiến phương Đông. Trên cơ sở kế thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, khắc phục, vượt qua những hạn chế của truyền thống đó, Hồ Chí Minh khẳng định trung với nước, hiếu với dân là một trong những phẩm chất của đạo đức cách mạng Việt Nam. Từ chỗ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu với dân” là một sự đảo lộn trong quan niệm đạo đức truyền thống. Hồ Chí Minh đã viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” . Theo Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là phải suốt đời đấu tranh cho cách mạng, ra sức làm việc, giữ vững kỷ luật, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Người dạy rằng, hiếu với dân thì phải hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ xung quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng; phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đảng, Nhà nước hoạt động phải gần dân, thân dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân, phải biết làm học trò dân mới làm được thầy học của dân. Chỉ có thực hiện được như thế thì người cách mạng mới được dân tin yêu, cách mạng mới đi đến thành công. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước. 1.2.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư “Cần” tức là lao động cần cù, siêng năng, cố gắng dẻo dai, làm việc có năng suất, hiệu quả, không lười biếng, không hiệu quả, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”. “Kiệm” là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thưc, không liên hoan, chè chén lu bù. Vì theo Người, “hoang phí là một tội ác”. Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác. “Liêm” là liêm khiết, trong sạch, không cậy quyền cậy thế mà đục khoét của dân, “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại”. “Chính”, “nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót người trên, 6
  7. không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với công việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì thì quyết làm cho kì được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”. Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ. Hồ Chí Minh không chỉ giải thích nghĩa mà Người còn nêu lên mối quan hệ giữa bốn phẩm chất đó: “Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn” , và nếu như “thiếu một đức, thì không thành người”. Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc. Người viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Cần, kiệm, liêm, chính, vì vậy là “nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc”; là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán’, đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. Chí công, vô tư là “lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào”. Điều mà Phạm Trọng Yêm đời Tống đã nói: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” đã được Hồ Chí Minh đưa thành nội dung phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh đòi hỏi, thực hành chí công vô tư là phải “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân là trái với chủ nghĩa tập thể, trái với đạo đức cách mạng. Muốn “ chí công, vô tư” phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ cán cân công lí”, không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật. Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công, vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. 1.2.2.3. Yêu thương con người, sống có tình có nghĩa Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Con người không phải thần thánh, có tốt có xấu ở trong lòng. Dù văn minh hay dã man, tốt hay 7
  8. xấu, đều có tình. Chúng ta cần làm cho trong mỗi con người phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chung chung trừu tượng kiểu tôn giáo, mà trước hết dành cho những người mất nước, người cùng khổ. Hồ Chí Minh yêu thương con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la, vừa gần gũi, bao trùm cả cộng đồng đến từng số phận con người. Người thức tỉnh, tái tạo lương tâm, vạch hướng đi, đánh thức những gì tốt đẹp nhất trong mỗi con người, tạo điều kiện cho con người đứng dậy, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Hồ Chí Minh yêu thương những con người đang sống trên trái đất này. Đó là tình yêu thương gắn liền với hành động cụ thể để mang lại cơm ăn, nước uống, trả lại nhân phẩm cho con người. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh vượt ra ngoài phạm vi dân tộc, mang tính nhân loại, vừa bốn biển năm châu, vừa bốn phương vô sản. Đó chính là một nội dung cơ bản của tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung. Hồ Chí Minh là bậc đại nhân, thể hiện tinh thần phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Đó cũng chính là phẩm chất đạo đức cách mạng “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục” mà người cộng sản quyết tâm thực hiện để phục vụ quần chúng nhân dân. 1.2.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan điểm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Tinh thần quốc tế trong sáng là tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam với tất cả các dân tộc tiến bộ trên thế giới vì độc lập dân tộc, vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. Tinh thần này đã được Người nêu lên bằng mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”. Đây chính là là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Tóm lại, bốn phẩm chất đạo đức này là những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới, để vươn tới Chân, Thiện, Mỹ của cuộc sống con người, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạnh. Bởi muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có những con người mới xã hội chủ nghĩa, với bốn phẩm chất đạo đức cơ bản trên. 1.2.3. Một số nguyên tắc xây dựng, rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh 1.2.3.1. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời 8
  9. Đạo Đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người day: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định con người không ai hoàn hảo, ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có cái thiện, cái ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc bản thân mà phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy rõ cái dở để khắc phục. Vậy nên đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi quan hệ xã hội. Không những thế, nguyên tắc tu dưỡng đạo đức suốt đời phải được thường xuyên chăm lo tu dưỡng hàng ngày; phải kiên trì, bền bỉ suốt đời. Tinh thần vượt khó, kiên trì tu dưỡng đạo đức được thể hiện rõ trong bài thơ “Nghe tiếng giã gạo” trích trong tập thơ “Nhật ký trong tù” của Người: “Gạo đem vào giã bao đau đớn Gạo giã xong rồi trắng tựa bông Sống ở trên đời người cũng vậy .Gian nan rèn luyện mới thành công” (Nghe tiếng giã gạo) 1.2.3.2. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với hành động thì mới có thể đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân và có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng. Nêu gương về đạo đức có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống, có ý nghĩa thúc đẩy xã hội phát triển. Trong gia đình, bố mẹ làm gương cho con cái, anh chị làm gương cho em nhỏ; trong nhà trường, thầy cô giáo phải làm gương cho học sinh; trong cơ quan, tổ chức, người lãnh đạo làm gương cho nhân viên, cấp trên làm gương cho cấp dưới; trong xã hội, mỗi người đều có thể làm tấm gương cho người khác, không phân biệt tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội; thế hệ đi trước làm gương cho thế hệ đi sau …. Đối với cán bộ, đảng viên, không chỉ nói phải đi đôi với làm mà “Người cách mạng phải luôn luôn nói và hành động một cách có ý thức”. Tấm gương đạo đức của Hồ Chủ Tịch là tấm gương sáng ngời cho cả dân tộc, cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau. Bất kể là ai, bất kể tổ chức nào, đã nói, đã hứa thì phải làm cho tốt. Có như vậy mới có thể nêu gương đạo đức. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã.” 9
  10. 1.2.3.3. Xây đi đôi với chống Trong cuộc sống hàng ngày, những hiện tượng tốt – xấu, đúng – sai, cái có đạo đức, cái vô đạo đức luôn tồn tại đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của con người. Trước những hiện tượng phức tạp và đa chiều như vậy, phải giữ vững đạo đức, vận dụng hiểu biết để thực hiện xây đi đôi với chống, dùng chống để bảo vệ những gì đã được xây. Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã hội. Những phẩm chất chung, mang tính khái quát, phải được cụ thể hóa chi tiết cho phù hợp với từng đối tượng. Trong việc giáo dục đạo đức mới, phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi con người để mỗi người tự giác nhận thức được trách nhiệm của mình. Trong khi xây dựng, nồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới phải đồng thời chống lại cái ác, cái sai, cái vô đạo đức. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc chống chủ nghĩa cá nhân. Một người mang nặng chủ nghĩa cá nhân thì lúc nào cũng nghĩ về bản thân mình, ngại khó, ngại khổ, mất đoàn kết, khó có thể giúp người khác cùng tiến, cùng đạt được nhiều lợi ích như mình, Người coi chủ nghĩa cá nhân là một thứ bệnh nguy hiểm vì từ nó sẽ sinh ra nhiều thứ bệnh khác như thói tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tự cao tự đại, chuyên quyền, tham danh, trục lợi... 1.2.4. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Đảng ta chủ trương: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lê nin, đưa việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với từng lứa tuổi và bậc học...”. Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã xác định: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục và đào tạo là nhằm xây dựng con người mới và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật, có sức khỏe, là những người kế thừa và xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”. Đại hội Đảng lần thứ XI đã định hướng phát triển, nâng cao chất lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Đẩy mạnh đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu của đất nước, môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây 10
  11. dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. Ngoài ra, Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục đã chỉ rõ: Giáo dục thế hệ trẻ yêu quê hương, tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản, ý thức làm chủ tập thể, tinh thần đoàn kết, thân ái, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, có ý thức kỷ luật, tôn trọng và bảo vệ của công, đức tính thật thà, khiêm tốn, dũng cảm… Theo chỉ thị số 2737/CT-BGDĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2012-2013, đã nêu: Tiếp tục triển khai có hiệu quả, sáng tạo việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03- CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị gắn với đặc thù của ngành, chú trọng công tác giáo dục đạo đức, nhân cách, giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên; nâng cao đạo đức nghề nghiệp của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; tổng kết 5 năm thực hiện cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường trung học phổ thông có nhiều cấp học, đưa ra tiêu chuẩn về hoạt động giáo dục học sinh như sau: Giáo dục kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng ra quyết định, suy xét và giải quyết vấn đề, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng ứng phó, kiềm chế, kỹ năng hợp tác và kỹ năng làm việc theo nhóm cho học sinh; Giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh thông qua giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông, cách tự phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác, thông qua việc thực hiện các quy định về cách ứng xử có văn hóa, đoàn kết, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau; Giáo dục và tư vấn về sức khỏe, thể chất và tinh thần, giáo dục về giới tính, tình yêu, hôn nhân, gia đình phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH TẠI TRƯỜNG THPT TƯƠNG DƯƠNG 1 TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.1. Đặc điểm tình hình chung của địa phương và của trường Tương Dương là huyện miền núi, vùng cao biên giới nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An, là nơi khởi nguồn của dòng sông Lam, có quốc lộ 7 đi qua từ đầu đến cuối huyện chia Tương Dương thành hai mảnh, mảnh phía Nam và mảnh phía Bắc. Tương Dương có vị trí địa lý giới hạn như sau: Phía Tây giáp huyện Kỳ Sơn, phía Đông giáp huyện Con Cuông, phía Nam giáp nước bạn Lào, có đường biên giới ngăn cách bởi dãy Trường Sơn, phía Bắc giáp ba huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp. Tương Dương cũng là huyện có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời. Hiện nay Tương Dương có 17 xã thị trấn, có 6 dân tộc sinh sống: Thái,TàyPoong, Khơ Mú, H Mong, Ơ Đu, các dân tộc ở Tương Dương sống hòa thuận, cùng chung tay góp sức xây dựng quê hương Tương Dương ngày càng phát triển. 11
  12. Giáo dục Tương Dương những năm gần đây đã đạt những thành tích đáng khích lệ, có nhiều thay đổi tích cực nhưng chất lượng giáo dục vẫn còn thấp, đặc biệt là chất lượng học sinh đại trà. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, bằng các chương trình, mục tiêu về xoá đói, giảm nghèo, chương trình xoá tranh, tre, nứa, mét cho các trường học, chương trình thay sách giáo khoa, chương trình đào tạo bồi dưỡng giáo viên cho nên giáo dục Tương Dương đã có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là chất lượng giáo dục và đội ngũ giáo viên THPT. Trường THPT Tương Dương 1 đóng trên địa bàn thị trấn Thạch Giám huyện Tương Dương. Trường bao gồm: 40 phòng học, trong đó có 40 phòng kiên cố và 03 phòng bán kiên cố, một phòng Tin, 01 phòng Tiếng Anh. Ngoài ra, còn có 1 phòng thư viện, 3 phòng thiết bị, 1 phòng y tế, 1 phòng tư vấn tâm lí học đường, phòng đa chức năng. Số lượng học sinh của trường là 987 em với 30 lớp. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Sở GD&ĐT, Huyện uỷ, HĐND - UBND huyện, sự nỗ lực của toàn ngành giáo dục, sự ủng hộ của toàn xã hội, giáo dục huyện Tương Dương luôn luôn quán triệt các quan điểm phát triển giáo dục của Đảng ta: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, theo định hướng XHCN”, “Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”. Giáo dục huyện Tương Dương đã có những bước phát triển vượt bậc. Thực hiện có kết quả các mục tiêu giáo dục: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 2.1.1. Thuận lợi Trong những năm qua giáo dục Tương Dương nói chung, giáo dục THPT nói riêng đã đạt được những thành tựu cơ bản trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ban thường vụ huyện ủy đã ban hành nhiều chương trình, kế hoạch nhằm thực hiện Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. - Về phía nhà trường: + Về quy mô, cơ sở vật chất của trường phát triển theo hướng đa dạng, được sắp xếp hợp lý đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của học sinh các dân tộc trong huyện. Sở GD&ĐT Nghệ An cấp thiết bị 2 phòng thực hành Vật lý-CN, Sinh học-CN và 16 máy vi tính cho 1 phòng thực hành Tin học. + Trường cũng đã vận động tài trợ lắp 30 ti vi kết nối internet tạo điều kiện cho việc áp dụng CNTT trong dạy và học, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Ban lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm, chia sẻ, động viên giáo viên và học sinh; luôn trăn trở để tìm giải pháp nâng cao chất lượng dạy - học. Những năm qua, chất lượng giáo dục của trường có sự chuyển biến rõ rệt, chất lượng giáo dục đảm bảo ổn 12
  13. định và được nâng cao. Chất lượng đội ngũ đảm bảo đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới: 100% giáo viên có trình độ đại học, 11/72 giáo viên có trình độ thạc sĩ, có 10/72 giáo viên có trình độ lí luận chính trị trung cấp. Trong năm học 2020 - 2021 Trường có 100% GV tham gia bồi dưỡng chương trình giáo dục phổ thông 2018 đạt khá trở lên. - Về phía học sinh: Tỉ lệ hạnh kiểm: Tốt 70,12%; khá 22,63%; trung bình 7,13%; yếu 0,11%. Tỉ lệ xếp loại học lực: Giỏi 4,68%; khá 58.42%; trung bình 36,68%; yếu 0.22%; không có học sinh kém.Thi HSG tỉnh đạt 01 giải nhất môn Sinh học; 02 giải ba (môn Hóa học, môn Ngữ văn); 03 giải khuyến khích (môn Toán, môn Tiếng Anh, môn Địa lí), 100% học sinh được lên lớp (chỉ tiêu là 98); học sinh bỏ học 2,007% so với chỉ tiêu là dưới 2%. Tỉ lệ TN THPT đạt 97,11% so với chỉ tiêu là 93% , giảm so với năm 2020 (98.97%) là 1,86%. Giáo dục nghề phổ thông: 100% tham gia học và dự thi cấp chứng chỉ và 100% đạt loại khá, giỏi, trong đó giỏi chiếm 335/336=99,7%. Đây là những thành quả rất đáng trân trọng và tự hào của cán bộ, giáo viên của nhà trường đối với một địa bàn miền núi còn có nhiều khó khăn. 2.1.2. Khó khăn Chất lượng học sinh còn thấp, thi tuyển hay xét tuyển đều còn thiếu chỉ tiêu. Điều kiện CSVC nhà trường, kinh tế địa phương, phụ huynh còn nhiều khó khăn nên đầu tư cho việc nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục gặp nhiều khó khăn. Đa số học sinh của trường THPT Tương Dương 1 đều là con em đồng bào các dân tộc thiểu số. Các em đến trường với lòng ham học hỏi và niềm tin sâu sắc về tương lai phía trước. Đa số các em đều là con em các gia đình khó khăn, điều kiện kinh tế vô cùng thiếu thốn, bố mẹ phải đi làm ăn xa. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức cũng như học hành bố mẹ ít quan tâm. Tất cả các hoạt động của con em phần phó mặc thẳng cho nhà trường, xem như đó là trách nhiệm và nghĩa vụ mà nhà trường phải lo. Bên cạnh đó, xã hội đang từng ngày, từng giờ thay đổi, cơ chế thị trường cạnh tranh quảng cáo, phim ảnh, báo mạng, các trò chơi điện tử trên mạng ảnh hưởng không ít đến tâm lý các em. Nước ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, do đó không tránh khỏi việc các tệ nạn xã hội từ bên ngoài xâm nhập vào Việt Nam, mà đối tượng dễ xâm nhập nhất là học sinh THPT. Tập làm người lớn trong khi nhận thức về mọi lĩnh vực còn hời hợt, đơn giản dẫn đến một số học sinh tha hoá về đạo đức; ăn nói tục tĩu, trốn học đi đánh điện tử, đánh nhau, trộm cắp vặt… Trong những năm vừa qua, trường THPT Tương Dương 1 đã rất quan tâm đến việc giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh. Nhà trường đã tổ chức quán triệt Chỉ thị 06, giúp các em hiểu rõ và sâu sắc nội dung đạo đức Hồ Chí Minh và từ đó vận dụng vào thực tế. Những phẩm chất đó đã được vận dụng vào cuộc sống, tạo 13
  14. nên một phong trào thi đua, tự giác học tập rèn luyện sôi nổi giữa lớp này với lớp khác, giữa các em học sinh với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chưa được thường xuyên, quán triệt một cách triệt để, chu đáo nên chưa mang lại hiệu quả cao. Với câu hỏi: Theo các em cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có cần thiết với học sinh hay không? Qua khảo sát 150 học sinh trong 3 khối lớp, lớp 10, 11, 12, chúng tôi có các số liệu sau đây: Bảng 1: Nhận thức về tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Mức độ đánh giá % Học sinh Có cũng Rất quan Không quan Quan trọng được, không trọng trọng cũng được Lớp 68 4 0 0 chọn Lớp bình 65 12 1 0 thường Kết quả trên cho thấy việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là rất quan trọng và cần thiết. Do đó để việc vận dụng, thực hiện có hiệu quả cao cần phải tuyên truyền, quán triệt đầy đủ những nội dung, phẩm chất đạo đức cho học sinh và trên cơ sở đó vận dụng vào việc học tập, công tác hàng ngày. Với câu hỏi: Các em đánh giá như thế nào về nội dung công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường ta hiện nay?Qua khảo sát 200 học sinh của 3 khối lớp, chúng tôi thu được kết quả cụ thể như sau: Bảng 2: Đánh giá nội dung công tác giáo dục đạo đức Học sinh Mức độ đánh giá % Không phong Phong phú Đầy đủ Không đầy đủ phú Lớp 10 66 34 57,5 42,5 Lớp 11 60 40 60,5 39,5 14
  15. Lớp 12 56,5 43,5 70,5 29,5 Kết quả trên cho thấy việc giáo dục đạo đức cho học sinh đã được nhà trường quan tâm, chú ý nhưng kết quả chưa cao. Nội dung đạo đức chưa thực sự phong phú, đa dạng. Bởi đánh giá tính không phong phú, không đầy đủ ở mức độ khá cao. Do đó đòi hỏi nhà trường cần phải quan tâm, chú trọng hơn nữa trong công tác giáo dục đạo đức. Với câu hỏi: Từ những nguồn nào, các em có được thông tin về nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh? Bảng 3: Đánh giá nguồn thông tin về nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh Nguồn thông tin về đạo đức % Đối tượng Đài Nghe Sinh Sinh Truyền Sách, Nghe phát Internet báo hoạt hoạt hình báo giảng thanh cáo lớp đoàn Lớp 10 50,5 58,5 56,5 36 4,5 31 27 44 Lớp 11 60,5 70 71 40,5 6,5 33 30,5 55,5 Lớp 12 55,5 73 72,5 50 6 35,5 32 50,5 Qua bảng số liệu trên ta thấy học sinh thu nhận được nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua nhiều kênh thông tin, nhưng chỉ có nguồn thông tin từ đài phát thanh, truyền hình và sách báo là đạt tỷ lệ trên 50%. Còn các nguồn như qua nghe giảng, sinh hoạt lớp đều ở mức thấp, đặc biệt là qua nghe báo cáo còn quá thấp, chứng tỏ học sinh tự tìm hiểu là chính, do đó hiệu quả chưa đồng đều, chất lượng chưa cao. 2.2. Nguyên nhân của kết quả Trước hết, công tác giáo dục đạo đức học sinh của trường đạt kết quả khả quan như trên là do nhà trường nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh và luôn quan tâm chỉ đạo sát sao. Nhà trường luôn liên lạc và kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, hội phụ huynh học sinh để quản lí và giáo dục các em. Ngay từ đầu năm trong kế hoạch hoạt động của trường đã đề ra một số giải pháp cụ thể trong giáo dục đạo đức cho học sinh, trong đó chú trọng lựa chọn và phân công các giáo viên có kinh nghiệm, tâm huyết, có năng lực sư phạm nắm bắt tâm lý học sinh, hoàn cảnh học sinh, có biện pháp giáo dục phù hợp, hiệu quả để làm công tác chủ nhiệm. 15
  16. Đầu tư, tổ chức nhiều hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh bằng nhiều hình thức phong phú, phù hợp với đặc điểm tâm lí để cuốn hút và nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Đội ngũ giáo viên rất nhiệt tình, giàu lương tâm, trách nhiệm luôn phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể trong nhà trường và giáo viên chủ nhiệm để đạt hiệu quả trong việc giáo dục đạo đức học sinh. Bên cạnh đó, bản thân mỗi giáo viên đều cố gắng rèn luyện, hoàn thiện nhân cách, đạo đức của mình để trở thành tấm gương mẫu mực cho học sinh noi theo. 2.3. Hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của hạn chế 2.3.1. Hạn chế còn tồn tại Chất lượng giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng đã được nâng lên nhưng vẫn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội. Một số biểu hiện tiêu cực trong đạo đức học sinh đã có giảm đáng kể, tuy nhiên ở một số học sinh cá biệt vẫn còn vi phạm nội quy trường học, không ngoan như: việc nói năng vô lễ theo thói quen; nghỉ học không có lí do hoặc là do ảnh hưởng tình huống nhất thời khi bị điểm kém, vi phạm nội quy bị thầy cô nhắc nhở, nghiện đánh điện tử. Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng ở một số học sinh vẫn còn tình trạng vi phạm quy định giao thông như: đi xe máy điện, không đội mũ bảo hiểm hoặc gửi xe máy, xe máy điện ở xung quanh nhà dân. Vẫn còn tình trạng ăn quà vặt, uống các loại nước ngọt không rõ nguồn gốc gây mất vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù có đội cờ đỏ theo dõi trừ điểm các học sinh hay ăn quà vặt nhưng tình trạng này vẫn chưa được chấm dứt. Tinh thần tự giác và ý chí vươn lên của một số bộ phận học sinh còn hạn chế; chưa thật sự quan tâm đến việc học, còn đối phó, học chay, học vẹt, không tích cực, sáng tạo, một số ỉ lại cho thầy cô, nhờ bạn bè. Coi việc học không phải của mình.Tác động của cơ chế thị trường, sự phát triển của khoa học công nghệ, tác động đến lối sống thực dụng, ưa hưởng thụ, hám vật chất, xem nhẹ lời khuyên của cha mẹ, thầy cô, dẫn đến những biểu hiện lệch lạc về chuẩn mực đạo đức. Hiện tượng một bộ phận học sinh thích “sống ảo”, dành thời gian quá nhiều vào facebook bình luận, post ảnh... gây sao nhãng việc học. 2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế Có thể nói là có nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường PTTH Tương Dương 1 hiện nay. Những nguyên tồn tại này là do mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang tác động đến tư tưởng lối sống của một bộ phận học sinh là thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước. Trong đó nổi lên một số nguyên nhân chính sau đây: Một số giáo viên trẻ thiếu kinh nghiệm, không có tính sáng tạo trong việc đề ra các biện pháp giáo dục học sinh đôi khi còn quá coi trọng thành tích của lớp, dẫn đến hiện tượng cứng nhắc, gò ép học sinh. Việc lồng ghép giáo dục đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh trong một số bộ môn 16
  17. còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: năng lực, trình độ của giáo viên, sự tâm huyết của giáo viên bộ môn, việc giảng dạy đạo đức còn khô khan, phương pháp giảng dạy chưa hiệu quả… Còn một số giáo viên chủ nhiệm chưa thực sự có uy tín với học sinh, chưa có năng lực làm công tác chủ nhiệm, tính thuyết phục với học sinh chưa cao, chưa phát huy được hiệu quả của giờ sinh hoạt lớp; nội dung giờ sinh hoạt chủ yếu là thu các khoản tiền đóng góp, thiếu quan tâm đến nguyện vọng tâm sinh lý học sinh. Địa bàn dân cư là huyện miền núi, lại ở vùng khó xa trung tâm, đa số phụ huynh có trình độ nhận thức còn sai lệch, chưa thực sự quan tâm đến việc học cũng như giáo dục đạo đức của con em, phó mặc cho thầy cô giáo. Những em có dấu hiệu vi phạm đạo đức trong thời gian qua đều do gia đình thiếu quan tâm chăm sóc, giúp đỡ, một số gia đình do kinh tế khó khăn ,bố mẹ đi làm ăn xa chỉ biết đóng tiền cho con; một số gia đình bố mẹ bỏ nhau ở với ông bà già yếu, nên không có phương pháp quản lý giáo dục con, cháu dẫn đến tình trạng để cho học sinh tự do, buông lỏng. Bản thân học sinh đang ở lứa tuổi dậy thì, tình cảm chưa bền vững, không ổn định, khả năng làm chủ bản thân còn yếu trước những tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài, không có sự rèn luyện tốt, dễ bị lôi kéo tới các hành vi tiêu cực. Sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ: điện thoại, internet, làm cho một số học sinh trốn học chơi game, vào các trang mạng xã hội.... CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH TẠI TRƯỜNG THPT TƯƠNG DƯƠNG 1 TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1. Phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Đây là giải pháp quan trọng nhất để giáo dục học sinh ý thức tự giác, tự tu dưỡng theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Học sinh với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, của hoạt động học tập, được giáo dục bởi nhà trường, gia đình và xã hội. Và theo Hồ Chí Minh, sự kết hợp giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội là hết sức quan trọng, nhưng việc tự rèn luyện, tự giáo dục của học sinh giữ vai trò quyết định. Bởi vì “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” . Qua việc giáo dục và tự giáo dục đó mà học sinh với những nét đặc thù về tâm sinh lý lứa tuổi, với trình độ nhận thức và tư duy nhất định sẽ tiếp thu, lĩnh hội tri thức, tự hoàn thiện nhân cách của mình sao cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Vì thế, đối với mỗi học sinh, việc tu dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, yêu thương con người phải được thực hiện trong hoạt động học tập và mọi hoạt động khác, trong mọi mối quan hệ từ gia đình đến xã hội, từ nhỏ đến lớn; từ quan hệ với ông bà, cha mẹ, anh 17
  18. chị em, thầy cô giáo, bạn bè… Qua khảo sát thực tế, đa số học sinh trường THPT Tương Dương 1 được sinh ra trong những gia đình bố mẹ làm nông dân hoặc là công nhân đi làm xa nhà nên không có nhiều thời gian quan tâm, dạy dỗ, chăm sóc con cái. Đời sống phần lớn phụ huynh học sinh còn khó khăn, sự phối kết hợp với nhà trường chưa đạt hiệu quả cao. Do đó, các giải pháp của gia đình, nhà trường và xã hội dẫu có làm thật tốt cũng không thể thay thế vai trò tự giáo dục, rèn luyện của bản thân học sinh. Vì vậy, cùng với giáo dục cần phải biết khích lệ, phát huy ý thức tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện của học sinh là yêu cầu cấp thiết. Nói đến sự tự giác trong học tập là nói đến nỗ lực, sự cố gắng, tính tích cực và chủ động của mỗi học sinh, là phát huy vai trò của ý thức, trong đó có ý thức đạo đức. Giáo viên đã hướng dẫn học sinh phải biết xây dựng kế hoạch học tập hợp lý, biết sắp xếp thời gian, đặc biệt phải biết làm chủ bản thân trong quá trình học tập và rèn luyện. Từng bước khắc phục tư tưởng coi thường một số môn học, coi thường việc học tập đạo đức, chỉ có như vậy mới tạo cho học sinh nề nếp, thái độ nghiêm túc, hiệu quả. Phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong quá trình học tập để không rơi vào tình trạng tiếp thu một chiều. Hướng dẫn, định hướng học sinh nghiên cứu tài liệu trước khi đến lớp, cần tích cực tham gia xây dựng bài bằng cách trả lời các câu hỏi của giáo viên. Học sinh có thể trả lời sai hoặc đúng, nhưng điều quan trọng là giáo viên đã giúp học sinh khả năng chủ động tiếp cận vấn đề, chủ động trong quá trình nhận thức, tự tạo niềm say mê hứng thú học tập trong giờ giảng của giáo viên. Tập trung nghe giảng ở trên lớp giúp học sinh có những kiến thức cơ bản của bài học sau giờ giảng đó để giúp học sinh ứng dụng vào thực tế cuộc sống. Muốn tự giáo dục thành công, phải rèn luyện cho học sinh có ý thức tự giác cao, có ý chí nghị lực phấn đấu vươn lên, phải biết xấu hổ với những việc làm trái đạo đức và kiên quyết đấu tranh với những thói hư, tật xấu của bản thân; phải biến những tri thức đạo đức đã tiếp thu thành tình cảm, niềm tin đạo đức và được thể hiện ở hành vi đạo đức của chính mình. Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của học sinh được đặt trong ba mối quan hệ chủ yếu là: đối với mình, đối với người và đối với việc. Đối với mình: học sinh cần rèn luyện thái độ nghiêm khắc đối với chính bản thân, luôn chịu khó học tập, kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi cái dở của bản thân; chống tự kiêu, tự mãn, vì người tự kiêu, tự mãn sẽ không nhận thấy cái hay của người khác để học tập, cái dở, cái hạn chế của mình để khắc phục. Bên cạnh đó, học sinh cần phải rèn luyện tính tự tin để có nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Trong quan hệ với mọi người: học sinh cần có thái độ, hành vi ứng xử đúng mực, khiêm nhường. Phải có lòng bao dung, vị tha, nhân ái, đoàn kết, biết quan tâm và giúp đỡ mọi người; không đố kỵ, dối trá, khinh thường người khác cũng như thái độ thờ ơ, bàng quan trước nỗi đau, sự bất hạnh của con người. 18
  19. Đối với việc: học sinh phải đặt việc học lên hàng đầu, phải rèn luyện tính kiên trì, nhẫn nại, trung thực, say mê, sáng tạo trong học tập; không ngừng rèn luyện đạo đức, tác phong, thực hành lối sống văn minh, tiến bộ. Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng, việc tu dưỡng đạo đức phải dựa trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Nhưng tốt, xấu, hiền, dữ, thiện, ác đều lệ thuộc vào sự rèn luyện và giáo dục mà nên. Người quan niệm: “Hiền, dữ đâu phải tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên” Vấn đề là dám nhìn thẳng sự thật bản thân con người mình và dựa vào tập thể để thấy cái hay, cái tốt để phát huy, cái xấu, cái ác để khắc phục. Đã là con người thì khó tránh khỏi vấp phải khuyết điểm, sai lầm.Vấn đề là phải dũng cảm nhìn nhận sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục. Tự giáo dục và rèn luyện phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đòi hỏi học sinh phải tích cực thực hiện hành vi đạo đức và có thái độ nghiêm túc với bản thân trong kiểm điểm, đánh giá hành vi của mình. Trước những hành vi đúng đắn, phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội mà mình đã làm được, học sinh cảm thấy hài lòng, vui vẻ, thoả mãn với chính mình, thấy mình hạnh phúc. Lúc đó các em đang ở trạng thái thanh thản của lương tâm. Ngược lại, khi cá nhân có các hành vi sai lầm, vi phạm các chuẩn mực đạo đức thì các em luôn bị đeo đẳng với cảm giác áy náy, ray rứt, ăn năn và hối hận. Đó là trạng thái cắn rứt lương tâm. Lương tâm dù ở trạng thái nào, nhưng khi được đánh thức thì đều có ý nghĩa tích cực đối với cá nhân, giúp cá nhân điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Ngày nay, tình hình kinh tế - chính trị xã hội trong nước và trên thế giới đang có những biến động mới, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng. Các thế lực thù địch vẫn điên cuồng chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”, với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt và quyết liệt hơn. Chúng tấn công mạnh mẽ vào thế hệ trẻ, trong đó có học sinh, sinh viên. Điều đó, đang đặt ra cho cách mạng nước ta những yêu cầu, nhiệm vụ và thách thức mới, đòi hỏi học sinh cũng phải có những nhận thức mới cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, phải nêu cao ý thức tự học tập, tu dưỡng và rèn luyện trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ đáp ứng ngày một cao của tình hình, nhiệm vụ mới. 19
  20. Hình ảnh học sinh nâng cao ý thức tự học ngoài giờ lên lớp HS kí túc xã rèn luyện ý thức tự học HS kí túc xã rèn luyện ý thức tự học 3.2. Quan tâm hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh trong nhà trường Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức tác phong Hồ Chí Minh cho học sinh. Lập trường chính trị, ý thức, nhận thức của mỗi con người có vai trò tiên quyết tạo nên hiệu quả trong hành động, hoạt động của mỗi người. Đúng như lời dạy của cha ông cha xưa “tư tưởng không thông vác bình đông không nổi”. Kịp thời phổ biến, quán triệt để cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh nắm vững và chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chủ trương, nhiệm vụ của nhà trường. Nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của học sinh để giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong học tập cũng như trong cuộc sống nhằm cổ vũ, động viên 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2