intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng phương pháp giảng dạy theo hình thức kết hợp giữa phương pháp sermina và phương pháp thuyết trình nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn sinh học di truyền cho sinh viên năm thứ nhất

Chia sẻ: Hasinhvat@gmail.com Hasinhvat@gmail.com | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:14

69
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với mong muốn lựa chọn được hình thức dạy học phù hợp nhất với nội dung môn học, giúp người học vừa nắm vững được kiến thức cơ bản của môn học, vừa rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu - điều thật sự cần thiết với sinh viên năm thứ nhất, tạo tiền đề cho các em học tốt trong những năm tiếp theo, vì thế sáng kiến được hình thành và thực hiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng phương pháp giảng dạy theo hình thức kết hợp giữa phương pháp sermina và phương pháp thuyết trình nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn sinh học di truyền cho sinh viên năm thứ nhất

  1. 02­BCSK SÁNG KIẾN I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến Khi nói về thế kỷ 21, nhiều nhà chiến lược đã cho rằng “giáo dục là con chủ  bài để đưa nhân loại tiến lên”. Trong giáo dục nói chung, giáo dục đại học đóng vai  trò nòng cốt, là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hiểu   được điều này vào tháng 11/2005 Chính phủ ra Nghị quyết 14 về “Đổi mới cơ bản  và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006­ 2020” và vào tháng 11/2013  Chính phủ  lại ra Nghị  quyết 29 về  “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào  tạo, đáp  ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nhằm mục tiêu tạo được  chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế  quốc tế và nhu   cầu học tập của nhân dân. Muốn đạt được điều đó thì giáo dục đại học phải tập   trung đào tạo nhân lực trình độ  cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và   năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hòa chung theo sự chuyển mình của hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam,   trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã chuyển từ  đào tạo theo hình thức niên   chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ vì hiện nay học chế tín chỉ  là hình thức đào  tạo được xem là tiên tiến trên thế giới, mục đích đào tạo của nó là hướng vào sinh   viên, coi người học là trung tâm trong quá trình dạy ­ học. Với hình thức này, người   học chủ  động hơn trong việc tiếp thu kiến thức, quản lý thời gian (chủ  động lựa  chọn môn học, giảng viên, giờ học...), nâng cao khả năng tự  học, tự nghiên cứu và   người dạy phải hiểu biết về các phương pháp dạy­ học, kiểm tra­ đánh giá tiên tiến  như  yêu cầu của hệ thống tín chỉ, có kỹ  năng sử  dụng các thiết bị  giảng dạy hiện  đại,… Môn Sinh học­ Di truyền là môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo   của trường Đại học Điều dưỡng Nam Định do bộ môn Sinh vật đảm nhiệm. Trước  năm 2014 môn học này được các giảng viên giảng dạy theo hình thức thuyết trình 
  2. 02­BCSK truyền thống, nhưng bắt đầu từ  năm 2014 khi nhà trường chuyển từ  đào tạo theo  niên chế sang hình thức tín chỉ, với mong muốn tăng tính tự học, tự nghiên cứu của   sinh viên, trong đề cương chi tiết môn Sinh học – Di truyền các giảng viên đã giảng   dạy theo phương pháp sermina. Tuy nhiên dù phương pháp giảng dạy đã thay đổi  theo hướng lấy người học làm trung tâm nhưng thực tế giảng dạy cho thấy phương  pháp serminar đang áp dụng vẫn bộc lộ  những nhược điểm, có  ảnh hưởng nhất   định đến khả năng nhận thức và kết quả học tập môn học của sinh viên. Với mong muốn lựa chọn được hình thức dạy học phù hợp nhất với nội  dung môn học, giúp người học vừa nắm vững được kiến thức cơ bản của môn học,  vừa rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu ­  điều thật sự cần thiết với sinh viên   năm thứ nhất, tạo tiền đề cho các em học tốt trong những năm tiếp theo, vì thế sáng  kiến được hình thành và thực hiện. II. Mô tả giải pháp  1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến  * Trước năm 2014, môn Sinh học – Di truyền được các giảng viên dạy theo   phương pháp thuyết trình (PPTT) truyền thống. Trong phương pháp này, giảng viên  dạy và sinh viên được dạy; giảng viên suy nghĩ và sinh viên buộc phải nghĩ theo  cách của giảng viên; giảng viên nói và sinh viên lắng nghe; giảng viên quyết định  (chọn lựa) và sinh viên phải làm theo. Nhìn chung, giảng viên là chủ  thể  còn sinh  viên là khách thể của quá trình dạy – học. Giảng viên quan tâm trước hết đến việc   truyền đạt kiến thức, hướng đến mục tiêu làm cho sinh viên hiểu và ghi nhớ  kiến   thức. Ưu điểm của phương pháp thuyết trình: ­ Chủ động trong tiến trình đào tạo:   tập trung vào chủ  điểm, kiểm soát được nội dung và thứ  tự  thông tin truyền đạt  trong thời gian định trước; ­ Truyền đạt được khối lượng kiến thức trong một thời  gian giới hạn; ­ Phù hợp với số đông người học, thiếu lớp, thiếu phương tiện. Nhược điểm của phương pháp thuyết trình: ­ Chỉ  có thông tin một chiều,   người học bị  động; ­ Khó nắm được hiệu quả  của bài giảng, người học dễ  bị  “ù 
  3. 02­BCSK lỳ” khi nghe quá lâu; ­ Không phát triển được kỹ năng cho người học. * Sau năm 2014, khi trường chuyển từ  đào tạo theo hệ  thống niên chế  sang   hệ thống tín chỉ, các giảng viên đã thay đổi phương pháp giảng dạy để phù hợp với   mục tiêu hướng người học làm trung tâm, phát huy tối đa tính chủ  động, tích cực  trong hoạt động lĩnh hội tri thức của người học, và bộ  môn đã chọn phương pháp   sermina (PPSER) để giúp sinh viên học tập tốt hơn. Serminar là hình thức học tập,  trong đó người học chủ động hoàn toàn từ khâu chuẩn bị tài liệu, trình bày nội dung  đưa dẫn chứng, trao đổi thảo luận với các thành viên khác và cuối cùng tự rút ra nội   dung bài học hay vấn đề  khoa học cũng như  đề  xuất các ý kiến để  mở  rộng nội   dung. Trong hình thức serminar, sinh viên buộc phải tìm hiểu trước vấn đề  sẽ thảo  luận một cách chủ động như: đọc giáo trình bài giảng, đọc tài liệu có liên quan, suy   nghĩ về  những vấn đề  được thảo luận. Từ  đó, sinh viên lựa chọn cho mình một   cách hiểu và bảo vệ được quan điểm của mình.  Ưu điểm của phương pháp sermina: ­ Tạo được cơ  hội cho mọi người học   đều tham gia, khai thác được tiềm năng của mỗi cá nhân; ­ Chủ  động trong điều   chỉnh nhận thức của người học; ­ Rèn luyện được nhiều kỹ năng mềm. Nhược điểm của phương pháp sermina: ­ Tính hệ  thống của bài học không  được thể  hiện rõ ràng; ­ Sự  thống nhất quan điểm giữa các sinh viên, giữa người   dạy và người học thường không triệt để; ­ Những sinh viên yếu, kém khó tiếp thu  bài học; ­ Gây khó khăn cho những giảng viên có trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ  trung bình hoặc yếu. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 2.1. Vấn đề cần giải quyết Đưa ra được hình thức giảng dạy phù hợp khắc phục được nhược điểm của  phương pháp sermina và tận dụng những  ưu điểm của phương pháp thuyết trình  truyền thống. Qua đó giúp sinh viên chủ  động trong học tập và rèn luyện kỹ  năng  làm việc nhóm từ  đó sinh viên sẽ  có kiến thức trong việc giao tiếp, thiết lập mối   quan hệ và khả năng quản lý công việc sau này.
  4. 02­BCSK 2.2. Tính mới của giải pháp mới so với giải pháp cũ Giải pháp này được thực hiện dựa trên cơ  sở  thay đổi một vài điểm của  phương pháp sermina kèm theo kết hợp với những điểm mạnh của phương pháp   thuyết trình.  Ưu điểm của giải pháp này so với giải pháp cũ được thể  hiện qua  bảng 1:  Bảng 1. So sánh giải pháp cũ và giải pháp mới STT Giải pháp cũ Giải pháp mới - Sinh viên lên thuyết trình về nội dung mà ­  Sinh viên lên thuyết trình về nội dung mà nhóm mình được giao, giảng viên nhận xét nội nhóm mình được giao, giảng viên nhận xét nội 1 dung bài, cách thuyết trình và tiến hành thảo dung bài, cách thuyết trình và tiến hành thảo luận luận. Sau đó giảng viên tóm tắt để sinh viên nắm được nội dung cơ bản của bài học. - Sinh viên không nắm rõ mục tiêu bài học - Sinh viên nắm rõ mục tiêu, nội dung cơ bản của bài thông qua quá trình giảng viên thuyết trình và tổng kết bài học - Người học chủ động trong quá trình thu nhận 2 kiến thức, khai thác được tiềm năng của mỗi cá nhân, giúp sinh viên phát triển tốt một số kỹ năng mềm, là nền tảng để học tốt những môn học tiếp theo. - Một số người học không tham gia hoạt động - Thông qua hoạt động giảng viên chỉ định một nhóm sinh viên bất kì của nhóm lên trình bày bài 3 thuyết trình và trả lời câu hỏi sẽ hạn chế được hiện tượng sinh viên trây ì, không tham gia hoạt động nhóm 4 - Hứng thú của sinh viên đối với môn học ít - Hứng thú của sinh viên với môn học tăng do người học và người dạy cùng nhau chia sẻ hiểu biết của mình về nội dung bài học góp phần giảm sự nhàm chán của môn học. Hơn nữa giúp mối quan hệ thầy- trò gần gũi, thân
  5. 02­BCSK thiện hơn. - Thời gian sinh viên dành để chuẩn bị bài dài - Thời gian chuẩn bị bài ngắn đi, do giảng viên 5 chỉ giao chủ đề với nội dung rất ngắn. - Thời gian soạn bài của giảng viên ít, giảng - Bắt buộc giảng viên luôn luôn cập nhật kiến 6 viên hài lòng với kiến thức mà mình đã có thức mới để giải đáp những thắc mắc của sinh viên Nói tóm lại phương pháp giảng dạy theo hình thức sermina có điều chỉnh có  rất nhiều  ưu điểm, thích hợp để áp dụng trong việc giảng dạy kiến thức theo hình   thức đào tạo tín chỉ như hiện nay nhằm tăng cường khả năng tự học, tự nghiên cứu  và trang bị cho sinh viên một số kỹ năng để học những môn học khác tốt hơn, cũng  là hành trang giúp các em tự tin hơn trong cuộc sống.  2.3. Các bước thực hiện sáng kiến Các bước thực hiện một buổi học theo hình thức kết hợp giữa phương pháp  sermina và phương pháp thuyết trình. Bước 1: Chuẩn bị ­ Chia nhóm: Dựa vào điểm đầu vào đại học môn sinh học, giảng viên chia   lớp học làm 8 nhóm (mỗi nhóm 7­8 sinh viên), sao cho mỗi nhóm đều có điểm đầu   vào cao, trung bình, thấp tương đương nhau.  ­ Giao chủ đề: Chủ đề là những vấn đề cơ bản của nội dung bài học (không  phải là tất cả nội dung bài học của buổi học hôm sau); đại diện nhóm chọn chủ đề  trong phạm vi chủ đề giảng viên đưa ra (chủ đề khác nhau giữa các nhóm). ­ Nghiên cứu tài liệu: Tất cả sinh viên ít nhất đều phải đọc trước nội dung  bài học hôm sau trong giáo trình, tìm hiểu thêm vấn đề nhờ các công cụ  khác nhau   để có được kiến thức tổng quát về nội dung bài. 
  6. 02­BCSK ­ Viết bài thuyết trình: Giảng viên gợi ý cấu trúc, độ  dài và hình thức trình   bày; hướng dẫn cách làm bài thuyết trình; giảng viên không cần đọc duyệt nội dung   bài thuyết trình, để cho sinh viên tập bảo vệ quan điểm của mình. Bước 2: Thực hiện ­ Lớp học sắp xếp theo hình chữ U để tạo cảm giác đối thoại thân thiện. Các  thành viên trong một nhóm phải ngồi gần với nhau để  có thể  trao đổi, thảo luận  được. Giảng viên chọn một chỗ ngồi thích hợp giữa các sinh viên sao cho vừa gần   gũi vừa dễ dàng điều khiển buổi học. ­   Đại   diện   mỗi   nhóm   lên   trình   bày   nội   dung   nhóm   mình   chuẩn   bị   trong   khoảng 5­10 phút. Để  tránh hiện tượng có những sinh viên không chuẩn bị  bài  trước, giảng viên chỉ  định bất kì một thành viên nào của nhóm đứng lên trình bày   nội dung và trả lời những vấn đề mà các bạn trong lớp và người dạy thắc mắc về  nội dung mình mới trình bày. ­ Sau khi sinh viên thuyết trình xong, giảng viên nhận xét sơ  lược về nội  dung và cách trình bày và chuyển qua phần thảo luận.  ­ Sinh viên khác trong lớp (có thể là cả giảng viên) đặt câu hỏi liên quan đến  đề tài vừa được thuyết trình cho người trình bày hoặc nhóm chuẩn bị đề tài. Giảng  viên hướng dẫn câu hỏi không nên chỉ tập trung vào câu hỏi nhận diện, câu hỏi chất  vấn – giải thích, mà chủ  yếu là câu hỏi phân tích lý giải, câu hỏi so sánh – đối  chiếu, câu hỏi liên hệ – phát triển. ­ Các thành viên trong nhóm thảo luận với nhau trong một thời gian nhất định  rồi cử người đại diện đứng lên trả lời câu hỏi. Giảng viên khẳng định lại ý kiến đã   trả lời, bổ sung, mở rộng, nâng cao ở những chỗ cần thiết.  ­ Giảng viên khái quát về nội dung mà nhóm vừa trình bày, sau đó giảng viên   thuyết trình về vấn đề tiếp theo trong nội dung bài học. Việc này giúp người học có  cái nhìn tổng quát về nội dung mà bạn trong lớp vừa trình bày vừa nắm được nội   dung tiếp theo của bài học vì người trình bày có nhiều bạn còn rụt rè, nhút nhát nên   nói bé, nói không rõ ràng.
  7. 02­BCSK ­ Giảng viên tiếp tục chỉ định người trình bày của nhóm tiếp theo. Trình tự  lại diễn ra như ở trên cho đến khi hết nội dung bài học. Các hiệu quả của sáng kiến được đánh giá sơ  bộ  qua phiếu phỏng vấn sinh  viên của 06 lớp học phần (n= 356 sinh viên). Kết quả  thu được  ở  các bảng dưới   đây.  Trong bộ câu hỏi khảo sát chúng tôi đưa ra 5 sự lựa chọn ( 5: rất đồng ý; 4:   đồng ý; 3: phân vân; 2: không đồng ý; 1: rất không đồng ý) cho các nội dung như ở  bảng 1. Trong quá trình nhập số liệu chúng tôi mã hóa: rất đồng ý với ý kiến này =   5 điểm ; đồng ý với ý kiến này = 4 điểm ; phân vân với ý kiến này = 3 điểm; không   đồng ý với ý kiến này = 2 điểm; rất không đồng ý với ý kiến này = 1 điểm, sau đó  tính điểm trung bình (viết tắt là ĐTB) và độ lệch chuẩn (viết tắt là Std) cho một nội   dung của mỗi một phương pháp, chúng tôi có được bảng 2: Bảng 2. Đánh giá của sinh viên về các phương pháp dạy­ học (tính theo điểm  trung bình chung) PP thuyết  PP kết  PP sermina trình hợp TT Nội dung ĐTB Std ĐTB Std ĐTB Std ­   Hiểu   rõ   hơn   về   nội   dung,   mục   tiêu   của  1 4.37 0.487 4.23 0.503 4.22 0.428 môn học ­ Tự  tin khẳng  định bản thân, phát  biểu  ý   2 2.70 0.768 4.07 0.672 4.00 1.085 kiến cá nhân 3 ­ Phát triển năng lực tư duy của bản thân 3.11 0.965 4.16 0.594 4.11 0.832 ­ Rèn luyện kỹ năng thảo luận, làm việc tập  4 2.17 0.841 4.23 0.625 4.56 0.616 thể ­   Giúp   vận   dụng   hiệu   quả,   hợp   lý   những   5 3.87 0.754 4.04 0.650 3.83 0.857 kiến thức môn học vào trong thực tế ­ Tìm tòi, phát hiện những vấn đề  mới liên   6 3.07 1.043 4.16 0.642 4.44 0.616 quan đến môn học
  8. 02­BCSK Kết quả cho thấy khi sinh viên được dạy­ học theo phương pháp giảng dạy  tích cực (PPSER và PPKH) thì họ  nhận thấy bản thân tự  tin khẳng định bản thân,  phát biểu ý kiến tốt hơn so với PPTT (ĐTB 4.0 và 4.07 so với 2.7). Tương tự  như  vậy PPSER và PPKH cũng giúp sinh viên rèn luyện tốt kỹ năng thảo luận, làm việc   tập thể hơn so với PPTT (ĐTB 4.56 và 4.23 so với 2.17); ngoài ra ĐTB của PPSER   và PPKH đối với nội dung: khả năng tìm tòi, phát hiện những vấn đề mới liên quan  đến môn học; khả năng phát triển năng lực tư duy của bản thân và giúp người học   vận dụng hiệu quả , hợp lý những kiến thức môn học vào thực tế  cao hơn so với   ĐTB của PPTT (cụ thể: 4.44, 4.16 so với 3.07; 4.11, 4.16 so với 3.11 và 3.83, 4.04 so   với 3.87). Điều này hoàn toàn hợp lý vì khi sinh viên được dạy­ học bằng phương   pháp tích cực thì bản thân mỗi sinh viên phải tự tìm tòi, tự tư duy đế làm bài thuyết  trình mà thầy cô giao về nhà, hơn nữa các sinh viên trong cùng một nhóm lại phải  làm việc nhóm cùng nhau, đưa ra ý kiến, thảo luận để  quyết định xem trong bài   thuyết trình cần phải có những nội dung nào cho thích hợp.  Tuy nhiên rất nhiều cuộc hội thảo trong nước về vấn đề  chúng ta nên dạy­  học theo phương pháp nào là tốt nhất thì các chuyên gia không ai bác bỏ  hoàn toàn  vai trò của phương pháp thuyết trình, vì PPTT cũng có mặt mạnh của nó, cụ  thể  trong điều tra của chúng tôi sinh viên nhận thấy khi dạy­ học bằng PPTT thì sinh   viên hiểu rõ về nội dung, mục tiêu môn học hơn so với PPSER và PPKH (ĐTB 4.37  so với 4.22 và 4.23).  Khi khảo sát về  các kỹ  năng mà sinh viên đạt được qua các phương pháp   giảng dạy, chúng tôi đưa ra 4 sự  lựa chọn: kỹ  năng đạt được tốt, khá, trung bình,  yếu và  mã hóa như sau: tốt = 4 điểm ; khá = 3 điểm; trung bình = 2 điểm; yếu = 1   điểm, sau đó tính điểm trung bình và độ lệch chuẩn cho một kỹ năng của mỗi một   phương pháp, chúng tôi thu được kết quả như ở bảng 3. Bảng 3. Đánh giá của sinh viên về các kỹ năng đạt được qua các phương pháp  dạy – học (tính theo điểm trung bình chung) TT Nội dung PP thuyết  PP kết  PP sermina trình hợp
  9. 02­BCSK ĐTB Std ĐTB Std ĐTB Std 1 Kỹ năng phân tích và lý giải vấn đề 1.56 0.604 2.96 0.633 3.00 0.594 2 Kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm 1.74 0.650 3.35 0.589 3.39 0.698 3 Kỹ năng hệ thống hóa lại kiến thức đã học 3.00 0.727 3.19 0.658 2.55 0.583 4 Kỹ năng trình bày các vấn đề 1.70 0.717 3.38 0.598 3.39 0.608 5 Kỹ năng giải quyết các vấn đề 2.28 0.627 2.99 0.646 3.11 0.676 6 Kỹ năng giao tiếp 1.91 0.708 3.35 0.659 3.33 0.686 7 Kỹ năng lập kế hoạch học tập 2.67 0.727 3.20 0.680 3.23 0.840 8 Kỹ năng nghe, ghi và hiểu bài giảng tại lớp 3.39 0.596 3.27 0.642 3.06 0.639 Từ  kết quả  bảng 3 chúng tôi thấy kỹ  năng đạt được của sinh viên với mỗi   phương pháp giảng dạy là khác nhau, cụ thế: ­ Kỹ năng phân tích và lý giải vấn đề; Kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm;  kỹ năng trình bày vấn đề; kỹ năng giao tiếp khi dạy­ học bằng PPSER và PPKH cao   hơn nhiều so với dạy – học bằng PPTT (ĐTB: 3.0 và 2.96 so với 1.56; 3.39 và 3.35   so với 1.74; 3.39 và 3.38 so với 1.7; 3.33 và 3.35 so với 1.91). Nếu trong PPTT, người  học chỉ nghe thầy cô trình bày vấn đề thì dạy­ học theo PPSER và PPKH các thành  viên trong một nhóm có cơ  hội đưa ra quan điểm của mình đối với chủ  đề  thảo   luận, mặt khác nó nâng cao được tính tương tác giữa các thành viên nhằm tác động  tích cực đến người học như: Tăng cường động cơ  học tập, nảy sinh những hứng   thú mới, kích thích sự  giao tiếp, chia sẻ tư  tưởng và khích lệ  mọi thành viên tham   gia học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phát triển được các mối quan hệ  và quan tâm   đến nhau. ­ Riêng đối với kỹ năng nghe, ghi và hiểu bài tại lớp thì thấy ĐTB của PPTT   cao hơn so với ĐTB của PPKH và PPSER (ĐTB 3.39 so với 3.27 và 3.06). Như vậy   là khi giảng viên thuyết trình thì sinh viên nắm được nội dung bài tốt hơn so với  sinh viên tự mình thuyết trình. Hơn nữa trong quá trình diễn ra buổi học chúng tôi quan sát sự hứng thú của  sinh viên đối với từng phương pháp dạy học (bảng 4), nhận thấy khi dạy­ học bằng   phương pháp sermina và phương pháp thuyết trình sinh viên hứng thú học tập hơn  so với phương pháp thuyết trình. Trong đó phương pháp kết hợp vượt trội hơn bởi 
  10. 02­BCSK nhóm giảng viên chúng tôi quan sát thấy sinh viên chú ý hơn vì có sự  tham gia  thuyết trình của giảng viên, điều này giúp sinh viên tổng hợp được nội dung bài   học. Bảng 4. Giảng viên đánh giá sự  hứng thú của sinh viên đối với từng phương   pháp dạy – học (tính điểm trung bình chung cho 6 lớp học phần) STT Sự biểu hiện PP thuyết  PP kết  PP sermina trình hợp 1 Tập trung, chú ý trong giờ học 7.8 8.8 6 2 Nghe giảng và ghi chép bài theo cách hiểu của mình 8.1 8.1 7.7 3 Đưa ra câu hỏi cho giảng viên 3 8.2 8 4 Đưa ra câu hỏi cho các bạn trong lớp 0 8 8 5 Suy nghĩ, tự tìm tòi lời giải đáp đối với một số vấn đề  5 8 7.7 giảng viên đưa ra 6 Suy nghĩ, tự tìm tòi lời giải đáp đối với một số vấn đề  2 8.1 7.9 các bạn trong lớp đưa ra 7 Trao đổi với bạn bè để  làm sáng tỏ  một số  vấn  đề  2 8 8 trong bài học 8 Đọc nội dung bài học trước khi đến lớp 5 8.4 8 9 Tham gia với các bạn trong nhóm để chuẩn bị bài giảng  0 9.5 8.2 viên giao về nhà 10 Tìm kiếm thông tin mới có liên quan đến bài học trên   3 9 8.5 mạng internet Ngoài ra chúng tôi còn điều tra mong muốn của sinh viên về  phương pháp  dạy­ học môn Sinh học­ Di truyền (bảng 5). Kết quả chúng tôi thấy có đến 79.8%  sinh viên mong muốn được dạy­ học bằng phương pháp kết hợp, cao gấp 15 lần so   với phương pháp sermina và cao gấp 5 lần so với phương pháp thuyết trình.  Bảng 5. Mong muốn của sinh viên về phương pháp dạy­ học môn Sinh học Di  truyền TT Phương pháp dạy­ học n % 1 Phương pháp thuyết trình 54 15,2 2 Phương pháp kết hợp 284 79,8 3 Phương pháp sermina 18 5,1
  11. 02­BCSK Tổng 356 100 Sự thành công của việc dạy­ học phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp dạy   học được giảng viên lựa chọn, cùng một nội dung nhưng tùy thuộc vào phương   pháp sử dụng thì sẽ có những kết quả khác nhau. Phương pháp giảng dạy tích cực   nói chung và phương pháp kết hợp ở đây nói riêng là một trong những phương pháp  dạy học được áp dụng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay nhằm phát   huy được tính tích cực của người học, dạy học hướng về  người học. Ngày nay,  ngoài kiến thức mà giáo trình cung cấp thì yêu cầu về các kỹ năng mà sinh viên đạt   được sau khi ra trường càng cao hơn, do đó khi học theo phương pháp dạy học tích  cực thấy đem lại kết quả tốt nhất, phát triển khá toàn diện cả  hai yêu cầu đặt ra:  nắm được kiến thức và phát triển kỹ năng, hơn nữa nó còn tạo ra được niềm vui và  sự  hứng thú trong học tập cho sinh viên. Trên cơ  sở  đó, nhóm sáng kiến chúng tôi   dựa vào kết quả điều tra nhận thấy mong muốn học tập của sinh viên kết hợp với  các kỹ  năng chúng tôi lựa chọn giảng dạy nội dung môn Sinh học­ Di truyền theo   phương pháp kết hợp (phương pháp thuyết trình kết hợp với phương pháp sermina). 2.4. Điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến  ­ Số  lượng sinh viên trong một lớp học không được quá đông, chỉ  từ  55­65  sinh viên/1 lớp học phần. ­ Giảng đường phải có projector, màn chiếu và máy tính để bàn (khi buổi học   thực hiện theo phương pháp sermina và phương pháp kết hợp). ­ Có phiếu phỏng vấn dành cho sinh viên để đánh giá hiệu quả phương pháp   giảng dạy.
  12. 02­BCSK ­ Có bảng quan sát sự hứng thú của sinh viên đối với phương pháp dạy­ học  (dành cho giảng viên đánh giá). 2.5. Khả năng áp dụng vào thực tế  Sáng kiến đã được áp dụng vào giảng dạy thực tế để  tăng cường hiệu quả  học tập môn Sinh học­ Di truyền cho sinh viên Đại học chính quy năm thứ nhất.  Điều kiện để  áp dụng sáng kiến không khó, hầu hết các lớp học phần đều  có số lượng sinh viên vừa phải, các giảng đường đa phần đều đã được nhà trường  trang bị projector, màn chiếu và máy tính để bàn. Phương pháp giảng dạy này hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu học tập của sinh  viên nên khi áp dụng đã tạo được sự hứng thú học tập cho người học. 2.6. Khả năng áp dụng cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức khác  Có thể áp dụng phương pháp giảng dạy này cho các môn học khác trong trường   Đại học Điều dưỡng nói riêng  và các trường cao đẳng, đại học khác nói chung. III. Hiệu quả xã hội do sáng kiến đem lại  Phương pháp giảng dạy theo hình thức kết hợp giữa thuyết trình và sermina   hấp dẫn, lôi cuốn người học chủ động trong quá trình học tập. Tính chủ động cao là  tiền đề cho sự hình thành khả năng tư duy độc lập. Tư duy độc lập là nền tảng của  sáng tạo.
  13. 02­BCSK Khi dạy­ học theo phương pháp kết hợp sinh viên phát triển rất tốt kỹ năng,   nhất là các kỹ năng mềm, ví dụ như kỹ năng phân tích, lý giải vấn đề, kỹ năng hợp   tác, làm việc theo nhóm, kỹ năng tìm kiếm tài liệu, kỹ năng trình bày vấn đề trước   đám đông…. trong khi đó phương pháp giảng dạy truyền thống chỉ cung cấp được  kỹ năng cứng, hoàn toàn không quan tâm đến phát triển kỹ năng mềm.  Khi giảng viên dạy học bằng phương pháp kết hợp, người học thấy bản  thân “được học” chứ  không phải “bị  học”. Người học  được chia sẻ  những kiến  thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ  sung những kiến thức, kinh   nghiệm không chỉ từ người thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp. Dạy­ học bằng phương pháp giảng dạy kết hợp chính là tìm mọi cách giúp  người học được chủ  động trong việc học, cho họ được làm việc, được khám phá  tiềm năng của chính mình. Người dạy cần giúp người học có được sự  tự  tin, có  trách nhiệm với bản thân để  từ  đó chia sẻ  trách nhiệm với cộng đồng. Charles   Handy, nhà triết lý kinh doanh nổi tiếng người Anh, đã nói: “Để làm cho tương lai  trở thành hiện thực, chúng ta cần phải tự tin và tin tưởng vào giá trị của chính mình.  Đó là điều mà các trường học phải dạy cho mọi người”.  Chỉ khi người học được tự  khám phá kiến thức, tự  học, tự  làm và tự  bổ  sung cho nhau thì kiến thức mới trở  thành tri thức của người học, chuyển thành hành động, thành thói quen hàng ngày  của họ. Ngoài ra khi dạy – học theo lối học thụ  động (nghe giảng, đọc, nhìn), sinh   viên học được nhiều nhất là 50% lượng kiến thức, điều này phần nào giải thích 
  14. 02­BCSK được vì sao phương pháp giảng dạy truyền thống không mang lại hiệu quả  cao.   Với phương pháp giảng dạy kết hợp, nhấn mạnh sự tham gia của sinh viên vào quá   trình học, lôi cuốn sinh viên chủ  động trong học tập, thì kết quả  khác biệt hết sức   rõ ràng: có thể đạt được mức độ tiếp thu kiến thức rất cao, có thể lên đến 90%. Khi áp dụng phương pháp giảng dạy kết hợp, giờ  giảng của mỗi giáo viên   trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò, uy   tín của người thầy cũng được đề  cao hơn. Bên cạnh đó, khả năng chuyên môn của   người thầy sẽ  tăng lên nhờ  áp lực của phương pháp, bởi nội dung kiến thức của  từng giờ giảng phải được cập nhật liên tục để đáp ứng các câu hỏi của người học  trong thời đại thông tin rộng mở. Dạy học là quá trình trao đổi kiến thức giữa thầy và trò. Mối quan hệ  thầy   trò sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp qua việc giải quyết các tình huống liên quan đến nội   dung bài học và cuộc sống của người học. Qua đó có thể  giáo dục các em về  sức   khỏe giới tính, hướng dẫn sinh viên áp dụng những kiến thức đã học vào thực tế  như nhận biết các bệnh tật di truyền, tư vấn di truyền, tư vấn và giải thích chế độ  dinh dưỡng phù hợp với từng giai đoạn, từng lứa tuổi phát triển của cơ thể.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2