intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Toán ở trường Trung học cơ sở

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

50
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là tìm ra những giải pháp có hiệu quả phù hợp với thực tế nhà trường và học sinh mình đang trực tiếp giảng dạy, đồng thời tìm ra cách để làm thay đổi theo hướng tích cực hơn nữa ý thức, tư tưởng, cách học của từng dạng học sinh, đặc biệt là dạng học sinh yếu – kém trong năm học 2017 - 2018.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Toán ở trường Trung học cơ sở

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số:…………………………………………………………… Tên sáng kiến: Biện pháp nâng cao chất lượng bộ  môn Toán  ở  trường  Trung học cơ sở 1. Lĩnh vực áp dụng: Môn Toán  2. Mô tả bản chất của sáng kiến 2.1. Tình trạng giải pháp đã biết  Qua vài tiết học đầu năm, tôi nhận thấy học sinh học bộ môn Toán ở mỗi lớp có  1 khoảng   số học sinh học yếu môn Toán. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu   3 thực tiễn tại trường trung học cơ sở, tôi nhận thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững   kiến thức cơ  bản của môn Toán. Qua đó cho thấy phản  ứng từ  phía học sinh là: học   sinh khó tiếp thu, lượng kiến thức trong giờ  học nhiều mà lại khô khan, không hấp   dẫn.... Điều đó nảy sinh trong tôi những trăn trở: Làm thế nào để nâng cao chất lượng   bộ môn? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học môn Toán? Có biện  pháp nào để  tạo niềm say mê cho các em?.....Với mong muốn tìm ra những đáp án đó  đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn  Toán ở trường Trung học cơ sở”.   * Ưu điểm ­ Ban giám hiệu nhà trường quan tâm nhiều đến bộ môn Toán. ­ Cơ sở vật chất nhà trường đầy đủ, đảm bảo được trong công tác giảng dạy. ­ Đồng nghiệp nhiệt tình trong công tác, luôn  ủng hộ  và sẵn sàng trao đổi kinh  nghiệm với nhau trong giảng dạy. ­ Nâng cao được trình độ  của giáo viên. Giáo viên phải dành nhiều thời gian  nghiên cứu, tham khảo các tài liệu hướng dẫn, sách giáo khoa để dạy phù hợp với trình  1
  2. độ của học sinh. Từ đó giúp các em học sinh hiểu cặn kẽ từng bài, từng nội dung kiến  thức, thu hút sự hứng thú học tập của  học sinh. Cụ thể là học sinh yếu – kém * Khuyết điểm Một số học sinh chưa xác định động cơ  học tập, nên thái độ  học tập chưa tốt,   chưa tích cực, thiếu sự quan tâm của gia đình dẫn đến học sinh lười học, mê chơi nên   học phụ đạo không thường xuyên làm công tác giảng dạy phụ đạo của giáo viên không  liên tục và theo kịp chương trình giảng dạy tại lớp 2.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến 2.2.1. Mục đích của giải pháp  Đề  tài này tôi biết là đã có nhiều người nghiên cứu và có nhiều hướng giải   quyết, song bám sát thực tế  nhà trường và tâm lí, hoàn cảnh đối tượng học sinh của   mình, tôi mạnh dạn nghiên cứu theo quan điểm của bản thân  tìm ra những giải pháp có  hiệu quả  phù hợp với thực tế nhà trường và học sinh mình đang trực tiếp giảng dạy,   đồng thời tìm ra cách để  làm thay đổi theo hướng tích cực hơn nữa ý thức, tư  tưởng,  cách học của từng dạng học sinh, đặc biệt là dạng học sinh yếu – kém trong năm học   2017 ­ 2018 Trong năm học 2017 ­ 2018 đề  tài sẽ   được áp dụng với đối tượng là học sinh   yếu­ kém, mục tiêu là hạn chế  tối thiểu tỉ  lệ học sinh yếu kém, góp phần nâng chất   lượng bộ môn toán ở trường trung học cơ sở. 2.2.3. Nội dung của giải pháp Công tác tư tưởng, tổ chức quản lý lớp và cách thức giảng dạy của giáo viên, cả  ba mặt này không thể tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được phối   hợp hài hòa một cách có chủ định vì công tác tư tưởng là biện pháp hàng đầu, còn biện  pháp tổ chức quản lý và cách thức giảng dạy là nhân tố quyết định.            1. Công tác tư tưởng:           Đây là biện pháp hàng đầu để hổ trợ cho việc tổ chức và quản lý học sinh. Theo   tôi cần thực hiện các bước như sau:    1.1. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình:  2
  3. Giáo viên bộ môn cần phối hợp với giáo viên chủ nhiệm nắm rõ hoàn cảnh gia  đình các em để có cách giáo dục hợp lí            1.2. Giáo dục tính chuyên cần, tính kỷ luật và tính tự giác cho học sinh:  Đi học đầy đủ là điều kiện tất yếu để học sinh học tốt. Cần quan tâm đến việc   vắng mặt của học sinh trong lớp, vì phần lớn những học sinh cúp tiết là những em học  yếu, chán học, sẽ có nguy cơ bỏ học. Những trường này, giáo viên bộ  môn cần thông  báo kịp thời cho giáo viên chủ nhiệm để báo cho phụ huynh học sinh ngay nhằm giúp  các em chấn chỉnh lại, đưa các em trở lại lớp học.  Thế thì vai trò của giáo viên chủ nhiệm là rất quan trọng. Phải làm tốt công tác  tư tưởng cho các em. Công tác này được hiểu là nằm trong công tác giáo dục đạo đức   học sinh. Giáo dục đạo đức cho học sinh là công tác song hành với công tác giáo dục trí   dục cho các em.  Theo tôi đây là hai nội dung quan trọng trong giáo dục toàn diện học sinh gồm:  Trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục để cuối cùng hướng các em tới “Chân, thiện, mỹ”.   Thực ra khi lên lớp giáo viên bộ môn bao giờ cũng tích hợp giáo dục tư tưởng cho học   sinh vào từng bài dạy.  Tuy nhiên công tác này được làm thường xuyên nhưng không sâu sát bằng giáo  viên chủ  nhiệm bởi vì mỗi tiết dạy chỉ  có 45 phút, nếu phát hiện một vài học sinh   chưa ngoan mà cứ ôn tồn giáo dục thì làm sao kịp thời gian thực hiện tiết dạy? Công tác giáo dục tư tưởng còn được lồng ghép trong tiết giáo dục ngoài giờ lên   lớp, tiết sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt đội, sinh hoạt lớp Như chúng ta đã biết có 3 môi trường giáo dục học sinh: Gia đình, nhà trường và  xã hội. Cho nên ban giám hiệu nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn cần   kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục trên thì công tác giáo dục đạo đức học sinh mới đạt  hiệu quả Thực  tế  có  những trường hợp phụ  huynh không quan tâm,  phán trắng trách  nhiệm cho nhà trường thì tôi nghĩ rằng trong phương pháp phối hợp chúng ta cần nhờ  sự hỗ trợ của địa phương. Phát hiện học sinh có nguy cơ bỏ học để kịp thời động viên  giúp đỡ  các em. Trường hợp vận động được học sinh bỏ học trở lại lớp thì giáo viên   3
  4. phải có biện pháp phân công các bạn giúp đỡ để các em thấy được sự cần thiết và yêu   thích học tập. 1.3. Xây dựng tốt mối quan hệ Thầy ­ Trò:  Học sinh yếu kém thường mang nhiều mặt cảm. Các em có hai mặt tâm lý đối  nghịch nhau: Một số em quậy phá, nghịch ngợm, trốn học, bỏ tiết và một số rút vào cái  vỏ  của mình qua những biểu hiện như: Nhút nhát, không phát biểu, xa lánh bạn bè,   thầy cô  Biện pháp cần đặt ra  ở  đây là giáo viên phải thường xuyên quan tâm, gần gũi,  trò chuyện với các em. Học sinh yếu thường phạm nhiều khuyết điểm kéo dài cả  về  học tập lẫn đạo đức, chúng ta không thành kiến với các em, không vội vàng cho điểm  xấu mà phải tạo cơ hội cho các em gở điểm, tìm cách giúp đỡ để các em vượt qua khó  khăn, ham thích học tập hơn.  Không cáo gắt, không chê bai các em mà trái lại có phê bình nhưng phải cố gắng  tìm cho được những  ưu điểm, những cơ  hội để  khen ngợi nhằm động viên khích lệ  giúp các em thấy rằng mình vẫn còn có những  ưu điểm chứ  không đến nỗi tệ. Tuyệt   đối không được cho học sinh ra khỏi lớp khi các em có biểu hiện không tốt hoặc không  thuộc bài.  Bởi vì làm như  vậy là sai phương pháp giáo dục, mất hình tượng người thầy,   người cô, làm cho học sinh thiếu tôn trọng và khi đó người thầy, người cô đã thất bại   trong phương pháp giáo dục của mình vì đã hết cách mới cho trò ra khỏi lớp. Thật vậy,  xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy với trò, giữa trò với trò là một việc làm rất   cần thiết   1.4. Nêu tấm gương sáng:  Nêu những tấm gương sáng trong lớp, đồng thời khen thưởng những em yếu   kém có tiến bộ nhằm khích lệ, động viên tinh thần của các em.  1.5. Nêu cao tinh thần trách nhiệm của người thầy, cô:   Thầy cô giáo là người cha, người mẹ thứ hai của học sinh cho nên phải gương   mẫu, là tấm gương cho học sinh noi theo. Phải có tác phong chững chạc, nói năng mực  thướt, giải quyết vấn đề phải thật khách quan công tâm. Người thầy phải có tinh thần  4
  5. trách nhiệm cao, không thành kiến bỏ  rơi một học sinh nào dù rằng em ấy nghèo khó   hay học kém.  Luôn tìm tòi học hỏi không ngừng để cải tiến phương pháp, dùng nhiều phương  pháp giảng dạy khác nhau sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.  Đặc biệt lời giảng của thầy trên lớp, kiến thức của thầy truyền đạt cho học  sinh không thể  nào nhầm lẫn mà phải tuyệt đối chính xác. Muốn được như  vậy thì  người thầy phải không ngừng học tập để  nâng cao trình độ  chuyên môn của mình,  phải phấn đấu dạy giỏi.             2. Công tác tổ chức và theo dõi học sinh yếu kém:          Đây là biện pháp hàng đầu để hổ trợ cho việc tổ chức và quản lý học sinh. Theo   tôi cần thực hiện các bước như sau:  2.1. Đánh giá chất lượng học tập của học sinh:  Nhằm đánh giá đúng mức độ học tập của học sinh, vào đầu năm học nhà trường  thường tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm. Từ đó giáo viên bộ môn phân định từng  đối tượng học sinh ở mỗi lớp: Giỏi – Khá – Trung bình – Yếu kém Giáo viên bộ môn lập danh sách theo dõi học sinh yếu kém, quan sát ở từng tiết   học, ghi nhận kết quả  qua từng kỳ kiểm tra để  nắm được các mặt hạn chế  của học   sinh nhằm kịp thời phụ đạo  2.2. Phụ đạo học sinh yếu kém:  Đây là một công tác cần phải có đối với những học sinh yếu kém. Ngay từ  bài  khảo sát chất lượng đầu năm và căn cứ vào tình hình học tập ở lớp, giáo viên bộ môn   lập danh sách những em học yếu để dạy phụ đạo.  Dựa vào danh sách học sinh yếu kém của từng lớp. Giáo viên bộ môn lập danh   sách đưa cho giáo viên chủ  nhiệm để  giáo viên chủ  nhiệm kịp thời thông báo cho   những phụ  huynh của những học sinh yếu kém đó để  nắm bắt kịp thời việc học tập  của con em mình. Từ sự phối hợp trên, việc dạy phụ đạo cho học sinh cũng góp phần   hạn chế được hạn học sinh yếu  5
  6. Để công tác dạy phụ đạo có hiệu quả thì đòi hỏi các em phải dự đầy đủ. Giáo  viên dạy phải lập sổ theo dõi học sinh và kịp thời báo với giáo viên chủ nhiệm những  học sinh vắng học để giáo viên chủ nhiệm kịp thời phối hợp với gia đình  Cần lưu ý rằng số  tiết phụ  đạo không nên quá nhiều vì rằng các em vốn dĩ đã  học yếu, tham gia quá nhiều loại hình học tập ở lớp mà còn đi học phụ đạo nhiều buổi  thì các em không đáp  ứng nổi đành phải trốn học. Theo tôi thời lượng phụ đạo 2 tiết   trong tuần là cân đối. Có thể xen vào những tiết trống để hạn chế đến mức tối đa việc   học trái buổi của học sinh.   3. Phương pháp dạy học Toán cho học sinh trung bình­ yếu – kém: Một trong những hoạt động cơ  bản của học sinh trong học tập môn  Toán ở  trường phổ thông là hoạt động giải toán. Để thích ứng với quá trình học tập đó của đa   số học sinh, phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng là một điều rất quan  trọng. Đối với những HS có học lực trung bình , yếu kém cần được tiến hành theo 4   giai đoạn như sau:         3.1  Giai đoạn 1: Quan sát, tiếp thu Giáo viên cần kết hợp vừa giảng vừa luyện, phân tích chi tiết, cụ thể, giúp học  sinh hiểu khái niệm.    Đồng thời với cung cấp kiến thức mới là củng cố  khắc sâu thông qua ví dụ  .  Chú ý phân tích các sai lầm thường gặp.  Tổng kết tri thức và các tri thức phương pháp có trong bài.            Đây là giai đoạn khó khăn nhất, giai đoạn làm quen tiến tới hiểu kiến thức mới,   đồng thời là giai đoạn quan trọng nhất, giai đoạn cung cấp kiến thức chuẩn cho học   sinh. Khi hoàn thành tốt giai đoạn này học sinh sẽ tiếp thu tốt hơn ở các giai đoạn sau.           3.2 Giai đoạn 2: Làm theo hướng dẫn Giáo viên cho ví dụ tương tự, sau đó gọi những học sinh khá ­ giỏi nêu trình tự  các bước giải một bài toán, từ  đó các em trung bình ­ yếu bước đầu làm theo hướng  dẫn, chỉ đạo của giáo viên.  6
  7. Học sinh bước đầu vận dụng hiểu biết của mình vào giải toán. Giai đoạn này  thường vẫn còn lúng túng và sai lầm, do học sinh chưa thuộc, chưa hiểu sâu sắc. Tuy  nhiên giai đoạn 2 vẫn có tác dụng tạo động cơ cho giai đoạn 3.            3.3 Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu  Giáo viên ra một bài tập khác, học sinh tự làm theo mẫu mà giáo viên đã đưa ra   ở giai đoạn 1 và giai đoạn 2.  Giáo viên tạm đứng ngoài cuộc. Ở giai đoạn này học sinh độc lập thao tác. Học   sinh nào hiểu bài thì có thể hoàn thành được bài tập, học sinh nào chưa hiểu bài sẽ còn   lúng túng. Giáo viên có thể nắm bắt được việc học tập cũng như mức độ hiểu bài của  cả  lớp và từng cá nhân thông qua giai đoạn này, từ  đó đề  ra biện pháp thích hợp cho   từng đối tượng.           3.4 Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập  Giáo viên nên ra cho học sinh:  Hoặc là một bài tập tương tự khác để học sinh làm ngay tại lớp.  Hoặc là bài tập ra về nhà tương tự với bài được học, nhằm rèn luyện kĩ năng.   Hoặc là bài kiểm tra thử.  3.5 Giai đoạn 5: Hứng thú học môn toán với trò chơi sáng tạo Mỗi người giáo viên đều có phương pháp riêng phụ  thuộc vào điều kiện cơ sở  vật chất và đối tượng học sinh mà mỗi giáo viên sẽ có những trò chơi khơi dậy hừng   thú học tập khác nhau. Riêng tôi khi dạy thường chọn cho mình phương pháp khơi dậy  hứng thú học môn toán với trò chơi sáng tạo như sau: Để lựa chọn trò chơi phù hợp giáo viên cần xác định được mục tiêu của trò chơi   đưa ra là gì, hình thành, luyện tập, củng cố kiến thức nào, giáo dục kĩ năng gì, phẩm  chất gì?... Điều này được xác định dựa trên mục tiêu bài học.          Trò chơi đưa ra phải đa dạng, phong phú, hấp dẫn; luật chơi đơn giản dễ hiểu,   dễ chơi, phải phù hợp với chủ đề bài học với đặc điểm và trình độ  học sinh, với quỹ  thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, có tác dụng khích lệ tinh thần   học tập cho tất cả  các đối tượng học sinh trong lớp, tránh bỏ  rơi học sinh yếu kém  7
  8. ngoài cuộc. Đặc biệt, trò chơi phải không gây nguy hiểm cho học sinh và môi trường   xung quanh.           Không nên chọn những trò chơi chỉ được mặt vui nhộn, nhưng lại thiếu tác dụng   giáo dục về kiến thức, phẩm chất cũng như kĩ năng học tập. Trò chơi phải được luân   phiên thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho học sinh.           Để phương pháp trò chơi phát huy hiệu quả trong dạy học Toán đặc biệt môn   Hình học, người giáo viên cần lưu ý những nguyên tắc sau: Có sự  chuẩn bị  tốt, mọi học sinh đều hiểu trò chơi và tham gia dễ  dàng, học  sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng, tuân thủ luật chơi. Giáo viên cần quy định rõ thời gian chơi, không lạm dụng quá nhiều kiến thức   và thời lượng bài học. Phải phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của học sinh,   tạo điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu, từ  chuẩn bị,  tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi. Tác phong giáo viên chững chạc, nghiêm túc nhưng lại vui vẻ, gần gũi, hòa đồng  với học sinh; lời nói phải rõ ràng, dễ hiểu, ấn tượng, luôn tạo sự hấp dẫn và pha trộn  ít hài hước trong mỗi trò chơi. Sau mỗi trò chơi phải có thưởng phạt phân minh. Tuy nhiên, nên tránh xử  phạt  đối với đội thua, người thua, mà tập trung tuyên dương, khen thưởng (nếu có) đối với  người thắng, đội thắng. Sau khi chơi, giáo viên cần cho học sinh thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục  của trò chơi. Về cách chơi, trước hết, giáo viên phải chia được các đội chơi phù hợp, cân đối  lực lượng, hợp với yêu cầu trò chơi. Sau đó, giới thiệu trò chơi, luật chơi, quán triệt ý thức kỷ  luật khi chơi. Đây là   khâu rất quan trọng, giáo viên nên giới thiệu trò chơi một cách ngắn gọn, súc tích, dễ  hiểu, thu hút và hấp dẫn người chơi (nếu luật chơi khó thì giáo viên có thể  chơi mẫu   trước). Động viên học sinh chơi nhiệt tình, hết mình, chơi đẹp, đảm bảo nề nếp, nội  quy nhà trường. Sau đây là một số trò chơi mà bản thân tôi đã áp dụng rất hiệu quả:  8
  9. Trò chơi “Chạy tiếp sức”: Giáo viên chuẩn bị sẵn một số bài Toán hoặc câu  hỏi có nội dung liên quan đến tiết dạy. Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, phấn, bút dạ. Cách chơi: Giáo viên đưa đề  bài lên bảng phụ (hoặc màn hình chiếu); cho các   đội thảo luận làm bài theo dãy hoặc khu vực (tương đương với số  nhóm đề  bài giáo  viên đưa ra); học sinh trao đổi một số phút (tùy mức độ yêu cầu). Giáo viên bốc thăm chọn ra 2 (hoặc 3) đội chơi. Khi có hiệu lệnh của giáo viên,  lần lượt từng thành viên của 2 (hoặc 3) đội dùng phấn (bút) lên viết đáp án tương ứng  vào phần bảng của đội mình. Mỗi lần lên bảng chỉ  được ghi một câu trả  lời (hoặc một bước trong toàn bộ  công việc của đội). Học sinh này ghi xong, chạy về trao phấn cho bạn để bạn đó được  lên bảng. Người lên sau có thể  sửa kết quả  của người lên trước, nhưng khi sửa thì  không được làm thêm việc khác, hết lượt có thể vòng lại lượt 2, 3...). Thời gian chơi được quy định trước (nên từ  khoảng 1 ­ 3 phút), đội nào xong   trước là đội giành chiến thắng về mặt thời gian. Khi hết giờ  chơi, giáo viên ra hiệu lệnh dừng cuộc chơi. Giáo viên và cả  lớp   cùng đánh giá, cho điểm, đội chiến thắng là đội hết ít thời gian mà có kết quả tốt nhất. Trò chơi “Ai nhanh mắt hơn”: Giáo viên chuẩn bị sẵn một số nội dung kiến  thức cần kiểm tra (bằng chữ  hoặc hình vẽ) để  đưa lên màn hình máy chiếu (hoặc  bảng phụ). Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, bút dạ. Cách chơi: Giáo viên chiếu nội dung kiến thức cần kiểm tra lên màn hình; yêu  cầu học sinh tìm và liệt kê những hình, những số, những vấn đề liên quan đến bài học   vào bảng nhóm. Trong vài phút, đội nào tìm được nhiều hình, hoặc nhiều số… (ghi lên  bảng nhóm) chính xác hơn thì đội đó sẽ thắng cuộc. Trò chơi “Thử  tài ghi nhớ”:  Giáo viên chuẩn bị  một số  nội dung kiến thức   cần thiết liên quan đến bài học (đưa vào máy tính hoặc ghi sẵn lên bảng phụ). Học  sinh chuẩn bị bảng nhóm, bút dạ. 9
  10. Cách chơi: Giáo viên đưa nội dung cần thử trí nhớ lên màn hình (hoặc treo bảng   phụ) cho các nhóm quan sát trong vòng vài giây đến vài chục giây, sau đó, cất bảng phụ  (chuyển slide). Giáo viên yêu cầu học sinh ghi lại những nội dung mà mình đã nhìn thấy. Học  sinh các nhóm thi nhau ghi lên bảng nhóm của nhóm mình. Nhóm có nội dung ghi lại   đúng và được nhiều hơn là nhóm giành chiến thắng. Trò chơi “Nhà sáng tạo trẻ”: Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, bút dạ. Cách chơi: Để  củng cố  kiến thức bài dạy, giáo viên cho học sinh giải một số  bài tập đơn giản liên quan. Sau đó yêu cầu các đội đặt một bài toán có nội dung tương  tự bài tập đã giải, trong đó đã có sáng tạo cho khác đi. Giáo viên cùng nhóm học sinh khác xem xét, kiểm định, đánh giá đề  Toán của  các đội, rồi đưa ra kết luận đội nào đạt danh hiệu “Nhà sáng tạo trẻ” Ngoài ra còn có rất nhiều trò chơi khác như: Hái hoa dâng chủ, ngôi sao mai mắn  (bông hoa mai mắn), đoán hình nền, ……..  2.3. Khả năng áp dụng của giải pháp               Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng bộ  môn Toán  ở  trường Trung học cơ  sở” đang trình bày nói chung không nặng tính lí luận mà chủ  yếu đi vào thực tế  giảng dạy. Do đó mọi giáo viên làm công tác giảng dạy hầu như  đều có thể áp dụng ngay trong công tác giảng dạy của bản thân tại bất kì đơn vị nào.  Cách dạy học Toán theo bốn giai đoạn như  trên, tuy chưa thoát ly nhiều so với  cách dạy học truyền thống, nhưng đã phần nào tỏ  ra có hiệu quả  thiết thực đối với  sách giáo khoa đã được biên soạn lâu nay, phù hợp với hình thức dạy học theo tiết (45   phút), phù hợp với trình độ  nhận thức của đối tượng học sinh diện đại trà trong học   tập môn toán.           Với mục đích giảm tỉ lệ học sinh yếu kém, ngoài việc theo dõi thường xuyên giáo   viên cần tạo cho các em sự  hứng thú trong học tập thông qua các bài tập  ở  mức độ  nhận biết, thông hiểu và vận dụng thấp.            Để có thể dạy học theo bốn giai đoạn như trên đòi hỏi giáo viên phải:  10
  11.               Hiểu sâu sắc kiến thức và vận dụng phương pháp.                Trong soạn bài, giáo viên cần chuẩn bị cả bốn loại bài tập cho 4 giai đoạn,   bên cạnh đó còn phải biết phân loại bài tập phù hợp cho từng đối tượng học sinh trong  lớp.                Và phải biết điều hành các đối tượng học sinh trong một lớp cùng hoạt động   bằng cách giao cho mỗi loại đối tượng một dạng bài tập phù hợp với nhận thức của  họ, có như thế giờ học mới sinh động và lôi cuốn.                Trong mỗi tiết dạy, bên cạnh những bài tập nâng cao dành cho những học sinh   khá ­ giỏi, giáo viên còn sử dụng những học sinh này làm nguồn định ra hướng giải cho   các em học sinh yếu để các em vận dụng tính tương tự khi làm bài tập.   2.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự  kiến có thể  thu được do áp dụng   giải pháp            Sau khi thực hiện các biện pháp trên, bản thân nhận thấy bộ  môn mình giảng   dạy có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, chất lượng học tập của học sinh được   nâng cao. Đồng thời, người giáo viên cũng cần đầu tư  thật nhiều vào công tác giảng  dạy, phải thâm nhập vào tư tưởng ở mỗi học sinh, nắm bắt kịp thời ở từng đối tượng  học sinh đặc biệt là học sinh yếu , kém để  tìm ra cách dạy phù hợp, hiệu quả, nhằm  giảm tối đa tỉ lệ học sinh yếu kém trong tưng năm hoc.  ̀ ̣            Học sinh đã có thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết học, chủ động   nêu lên những thắc mắc, khó khăn về  bộ  môn với giáo viên, các em hưởng  ứng rất   nhiệt tình. Bên cạnh đó bài tập giao về nhà đã được các em làm một cách nghiêm túc,  tự giác học bài và nắm được kiến thức cơ bản sau mỗi bài học.             Tóm lại, bản thân vận dụng các biện pháp trên khi dạy học sinh thì rõ ràng các  bài kiểm tra đã được nâng lên. 2.5. Tài liệu kèm theo: Không                                               11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2