intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Lỗi chính tả của học sinh lớp 1B trường Tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút - Đắk Nông

Chia sẻ: Nguyễn Lê Huy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

163
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để giúp các thầy cô có thêm kinh nghiệm trong việc giảng dạy cho các em học sinh về cách đọc cũng như cách viết chính tả dưới đây là sáng kiến kinh nghiệm Lỗi chính tả của học sinh lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút –Đắk Nông các thầy cô hãy tham khảo để hoàn thành công việc giảng dạy tốt hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Lỗi chính tả của học sinh lớp 1B trường Tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút - Đắk Nông

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: Lỗi chính tả của học sinh lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút –Đắk Nông
  2. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Khi ca ngợi về tiếng nói của của dân tộc, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã viết: “ Ôi Tiếng Việt suốt đời ta mắc nợ Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn Trời xanh quá, môi tôi hồi hộp quá Tiếng Việt ơi, Tiếng Việt ân tình” ( Lưu Quang Vũ – Tiếng Việt) Quả đúng như vậy, mỗi người dân Việt nam, Tiếng việt là tiếng nói thân thương, kết tụ lại tinh hoa, truyền thống của dân tộc có từ bao đời. Và càng tự hào bao nhiêu chúng ta càng thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, giữ gìn nguồn tài sản quý giá đó để nó không bao giờ bị mai một. Xuất phát từ những suy nghĩ trên, trong quá trình dạy học mỗi nhà giáo chúng tôi đều dành nhiều tâm huyết, công sức để rèn giũa học sinh của mình có được kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) thành thạo. Có thể nói cả 4 kĩ năng trên đều góp phần hỗ trợ đắc lực việc học tập, giao tiếp cho học sinh đồng thời bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của ngôn ngữ dân tộc. và trong đó, phân môn chính tả giữ một vị trí then chốt nhằm phục vụ mục tiêu của môn tiếng Việt. Đây là một việc làm thường xuyên và được thực hiên qua một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải có sự kiên trì, bền bỉ. Nguười ta nói: “ nét chữ là nết người” cũng đúng. Con chữ phần nào thể hiện tính nết của người viết: Cẩn thận hay cẩu thả, chăm chỉ hay lười biếng…Vì vậy rèn luyện kĩ năng chính tả cho học sinh, giáo viên không chỉ rèn cho các em được một kĩ năng sử dụng tiếng Việt, phát triển tư duy mà còn giúp từng em mở rộng hiểu biết về cuộc sống, góp phần hình thành nhân các con nguười mới – con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Là giáo viên nhiều năm liền được dạy khối lớp 1 – lớp đầu tiên của bậc tiểu học, tôi càng chú trọng nhiều hơn đến phân môn chính tả, bởi theo suy nghĩ của tôi:
  3. Đây là năm đầu tiên các em mới bở ngỡ bước vào học tập theo chương trình phổ thông chuẩn, việc học tập và rèn luyện chính tả cần phải được thực hiện ngay từ đầu tạo nền tảng vững chắc cho việc học tập và rèn luyện tiếng việt của các em sau này. Người ta thương nói “măng non dễ uốn” bởi vậy các em học sinh lớp 1 mới bắt đầu làm quen với việc học tập và rèn luyện chữ viết. Nếu chúng ta hình thành cho các em thói quen rèn luyện chữ viết ngay từ đầu thì sau này việc học tập và rèn luyện chữ viết của các em trở thành thói quen và kĩ năng, lúc đo sẽ tạo thuận lợi rất tôt cho việc học tập và giảng dạy phân môn tiếng Việt của thầy và trò. Vì lẽ đó tôi muốn qua đề tài “Lỗi chính tả của học sinh lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút –Đắk Nông” đúc rút những kinh nghiệm suy nghĩ của bản thân trong dạy phân môn chính tả lớp 1 để có dịp nhìn nhận lại quá trình dạy học của mình, từ đó sẽ tiếp tục hoàn thành tốt hơn những nhiệm vụ được giao trong những năm học tiếp theo. 2. Lịch sử vấn đề Tiếng Việt hình thành và phát triển năng lực chính tả cho học sinh ở trường tiểu học thực hiện trong các hình thức dạy cái đúng và sửa chữa khắc phục cái sai. Học sinh được rèn kĩ năng viết qua các hình thức: Tập chép, nghe – viết, nhớ - viết. Trường tiểu học Lê Quý Đôn của chúng tôi trong những năm qua đã đầu tư khá nhiều cho việc dạy chính tả cho học sinh như tổ chức các chuyên đề, các cuộc thi viết về đề tài nghiên cứu…Là một giáo viên có kinh nghiệm, tôi đã tích cực tham gia với khá nhiều đề xuất, giải pháp cụ thể. Vì thế có thể xem các nội dung được nêu trong đề tài này la kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc của tập thể giáo viên trường tiểu học Lê Quý Đôn nói chung và bản thân tôi nói riêng. 3. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 3.1 đối tượng nghiên cứu Đối tượng mag chúng tôi chọn nghiên cứu là lỗi chính tả của học sinh lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông (năm học 2011- 2012) 3.2 Nhiệm vụ Đề tài này thực hiện hai nhiệm vụ chủ yếu: - Phát hiện và chỉ ra những lỗi mang tính phổ biến của học sinh (thuộc địa phương giảng dạy), tìm ra nguyên nhân của những lỗi đó.
  4. - Nêu một số hướng khắc phục đã và đang áp dụng trong việc giảng dạy và bước đầu có hiệu quả, đồng thời đưa ra các đề xuất. 3.3 phương pháp nghiên cứu Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, Tôi sử dụng một số phương pháp cơ bản sau: - Phương pháp thống kê. Tôi thống kê tất cả lỗi chính tả của hóc sinh lớp 1B trong các bài chỉnh tả ở học kì II năm học 2011- 2012 - Phương pháp phân tích ngôn ngữ. Phương pháp phân tích ngôn ngữ được sử dụng để phân tích các lỗi chính tả của học sinh, phân tích nguyên nhân phạm lỗi. - Phương pháp so sánh. Phương pháp này dùng để so sánh các loại lỗi, tình hình phạm lỗi của học sinh,… Kết quả thống kê, phân loại sẽ được trình bày tổ hợp ở bảng thống kê. Nội dung 1. Giới thiệu về trường tiểu học Lê Quý Đôn Như chúng ta đã biết, nước ta là một quốc gia nhiều dân tộc, với 54 dân tộc anh em sinh sống, mỗi dân tộc lại có ngôn ngữ riêng được dùng để giao tiếp với các thành viên trong cộng đồng với nhau. Bên cạnh đó ở từng vùng, miền lại có những phương ngữ với cách phát âm khác nhau. Và chính những thay đổi về phát âm đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh trong quá trình học tiếng Việt và rèn luyện chính tả. Vì lẽ đó qua khảo sát chúng ta sẽ thấy được bên cạnh những lỗi viết mang tính cá biệt còn có những lỗi sai khá phổ biến mà chủ yếu do ảnh hưởng từ phát âm. Những điều phán ánh đó là thực trạng chung của học sinh cả nước nói chung và cũng là của học sinh địa phương chúng tôi dạy nói riêng. Hơn nữa, như tôi đã trình bày ở phần đối tượng nghiên cứu, Đăk Nông là mảnh đất quy tụ nhiều đồng bào anh em ở nhiều vùng miền trong cả nước về đây sinh sống. Nên sự ảnh hưởng của ngôn ngữ của từng dân tộc và phương ngữ của từng địa phương lại càng sâu sắc. Huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông ngoài đồng bào người Êđê là dân tộc tại chỗ, còn có dân tộc Tày, Nùng, Mường, Thái…sinh sống. Còn dân tộc kinh thì từ Bắc chí Nam, nhất là người miền Trung. Vì thế tiếng nói dường như có sự pha tạp rất nhiều, và
  5. chính những điều đó đã gây nên những trở ngại lớn trong quá trình dạy và học tiếng Việt cho giáo viên và học sinh. Qua quá trình giảng dạy và tích lũy kinh nghiệm tôi rút ra được những trở ngại như sau: - Thứ nhất: Sự ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương quá lớn trong một lớp học, đưa đến nhiều lỗi sai khác nhau khi học sinh viết chính tả. - Thứ hai: Học sinh dân tộc Êđê học tiếng Việt khó khăn hơn rất nhiều so với học sinh các dân tộc khác (từ phát âm, diễn đạt, đến chữ viết,…). Nguyên nhân một phần do ở gia đình hầu như người Êđê không dùng ngôn ngữ toàn dân mà họ giao tiếp bằng thứ tiếng của dân tộc mình. Học sinh chỉ học tiếng Việt ở trên trường học hoặc giao tiếp ngoài xã hội. Vì thế việc các em đọc không có thanh điệu, viết không có dấu là chuyện bình thường và rất khó sửa. - Thứ ba: Giáo viên cũng đến đây từ nhiều miền quê khác nhau, ngay từ giọng nói giữa thầy và trò cũng có những khoảng cách nhất định, có khi giáo viên giảng mà học sinh vẫn không nghe. Mặc dù mỗi giáo viên đều cố gắng khắc phục, hạn chế âm sắc địa phương (nhất là tiếng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định…) nhưng khó đạt đến trình độ chuẩn mực. Điều này cũng là một trở ngại rất lớn tác động vào chất lượng viết chính tả của học sinh, nhất là khi đọc – viết. Tất cả những trở ngại trên đã tác động trực tiếp vào quá trinh viết chính tả của học sinh mà qua khảo sát tôi đã thu được. 2. Số liệu thống kê Thống kê kết quả kháo sát tôi có số liệu như sau: Tổng số bài khảo sát: 480 bài. Số bài phạm lỗi: 424 bài (chiếm tỉ lệ 88,33%) Số bài không phạm lỗi: 56 bài (chiếm tỉ lệ 11,66 %) Thống kê theo từng loại cụ thể như sau: Tên bài Tổng Số bài Số bài Số Số Tần T/T số bài không phạm tiếng tiếng số bị lỗi trong bị viết xuất phạm bài sai hiện lỗi 1 Trường em 24 1 23 26 4 38
  6. 2 Tặng cháu 24 2 22 28 5 41 3 Bàn tay mẹ 24 1 23 35 7 45 4 Cái Bống 24 3 21 28 5 49 5 Nhà bà ngoại 24 2 22 27 5 36 6 Câu đố 24 3 21 16 3 23 7 Ngôi nhà 24 4 20 16 3 17 8 Quà của bố 24 3 21 20 3 44 9 Hoa sen 24 4 20 28 4 37 10 Mời vào 24 3 21 30 4 45 11 Chuyện ở lớp 24 5 19 20 5 41 12 Mèo con đi học 24 2 22 24 6 36 13 Kể cho bé nghe 24 3 21 20 4 29 14 Hồ Gươm 24 1 23 32 5 43 15 Lũy tre 24 2 22 36 6 54 16 Cây bàng 24 6 18 20 5 41 17 Đi học 24 3 21 36 6 33 18 Bác đưa thư 24 3 21 40 6 44 19 Loài cá thông minh 24 4 20 39 5 29 20 Ò… ó …o 24 1 21 27 5 32 3. Lỗi chính tả của học sinh Từ thực tế giảng dạy tôi thấy rằng lỗi trong bài viết chính tả của học sinh hết sức phức tạp, trong đó có các lỗi phố biến sau: - Lỗi do học sinh chưa nắm vững mặt chữ. - Lỗi do sai quy tắc hiện hành. - Lỗi do ảnh hưởng của phát âm địa phương. 3.1 Lỗi chính tả do học sinh chưa nắm vững mặt chữ. Lỗi này do học sinh chưa hình thành được một cách rõ ràng biểu tượng âm thanh thính giác và chưa nắm vững quy tắc ghép chữ cái âm tiết.Vì các em mới bước vào lớp 1 nên việc học tập viết chính tả là một việc làm vô cùng mới mẻ và bỡ ngỡ. Nên đã dẫn đến việc viết sai chỉnh tả rất nhiều và lỗi các lỗi khác. 3.2 Lỗi do sai quy tắc chính tả hiện hành.
  7. Lỗi do học sinh viết ẩu, cấu thả, lẫn lộn giữa chữ viết in và chữ viết thường, chữ viết hoa và chữ không viết hoa. 3.3 Lỗi do ảnh hưởng của phát âm địa phương. Như chúng ta đã nói ở trên, tiếng Việt có nhiều phương ngữ, thổ ngữ nên bên cạnh tính thống nhất cũng có những nét dị biệt khá rõ ràng trong cách phát âm, dùng từ giữa các vùng, miền mà theo như các nhà nghiên cứu đã chia tách nó ra thành ba kiểu: Phương ngữ Bắc Bộ, phương ngữ Trung Bộ, phương ngữ Nam Bộ. Như vậy mỗi vùng phương ngữ có những biến thế tiếng Việt khác nhau và đương nhiên nó phần khác so với phát âm chuẩn của ngôn ngữ toàn dân. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến việc viết sai chính tả của học sinh. Nguyên nhân dẫn đến lỗi này là do ảnh hưởng của việc “nói sao viết vậy” . Vì giọng nói, cách phát âm của một số địa phương lệch so với hệ thống ngữ âm chuẩn nên cùng một tiếng có nhiều sự phát âm khác nhau như: Nội/ lội; anh/ eng; đạp/ độp… Ta có thể chia ra các loại viết sai với lần xuất hiện trên tần số và tỉ lệ theo bảng thống kê sau: Các lỗi sai Tổng số bài Tần số xuất hiện Tỉ lệ Sai cả tiếng 81 156 17,9% Sai phụ âm đầu 152 315 31,7% Sai vần 146 217 30,4% Sai thanh điệu 40 69 8,33% a) Lỗi sai cả tiếng Nguyên nhân của lỗi sai này là do học sinh không chú ý nghe giáo viên đọc, không nhớ chữ cần viết dẫn đến việc viết theo suy luận hoặc nhớ nhầm. Lỗi này rất phố biến đối với học sinh lớp 1 vì các em mới bắt đầu làm quen với môn học này nên mọi cái đang còn bỡ ngỡ, các em chưa hình thành được thói quen và kĩ năng nghe- viết chỉnh tả nên phạm lỗi này rất nhiều. b) Lỗi sai phụ âm đầu
  8. Đây là trường hợp sai nhiều nhất mà chủ yếu là do ảnh hưởng của tiếng địa phương, từ phát âm sai chuẩn dẫn đến viết sai phụ âm đầu, trong đó sai nhiều ở các phụ âm: l/ n, tr/ ch, x/ s, gi/ d… Lỗi này có thể thống kê theo bài như sau: Trường em Trường/ chường, giáo/ dáo. Tặng cháu Yêu/ iêu, lòng/ nòng Bàn tay mẹ Làm/ nàm, giặt/ dặt. Cái Bống sảy/ xảy, ròng/dòng. Nhà bà ngoại Rộng/ dộng, rãi/ dãi Câu đố Gì/ dì, suốt/ xuốt Ngôi nhà Tre/ che Quà của bố Nghìn/ ngìn Hoa sen Trong/ chong, xanh/sanh, trắng/chắng. Mời vào Xem/ sem Chuyện ở lớp Trêu/ chêu, nổi/ lổi. Mèo con đi học Kiếm/ ciếm Kể cho bé nghe Chăng/ trăng, quay/ cuay Hồ Gươm Lấp/ nấp, rễ/ dễ
  9. Lũy tre Sớm/ xớm, rì/ dì Cây bàng Sang/ xang, kẽ/ cé Đi học Trường/ chường,lặng/ nặng, giáo/ dáo. Bác đưa thư Trao/ chao, rồi/ dồi, quýnh/ kính Loài cá thông minh Dạy/ giạy, sống/xống. Ò…ó…o Tre/ che, nảy/ lảy c) Lỗi về phần vần: Học sinh hay viết lẫn lộn giữa vần mang nguyên âm đôi như iê và ê, uô và u, ươ và ư, oa và ao, oe và eo ương và ươn,… Hoặc viết sai các vần chứa các cặp phụ âm cuối như: n/ ng/ ngh, t/ c, ch/ nh… thống kê theo bài như sau: Trường em Hai/ hay, bạn/ bạng, thiết/ thiếc. Tặng cháu Tặng/ tặn, yêu/ iêu, chút/ chúc. Bàn tay mẹ Nhất/ nhấc, hằng/ hàng, biết/ biếc, giặt/ giặc. Cái Bống Bang/ ban, khéo/khóe. Nhà bà ngoại Thoáng/ tháng, khắp/ khắc. Câu đố Suốt/ suốc, vườn/ vường. Ngôi nhà Ngôi/ ngô, mạc/ mạp. Quà của bố
  10. Thương/ thươn, chúc/ chút. Mời vào Tai/ tay, gạc/ gạt. Chuyện ở lớp Vuốt/ vuốc Mèo con đi học Buồn/ buồng Ngưỡng cửa Tiên/tên, tắp/ tắc. Kể cho bé nghe Hay/ hai, quay/ quai. Lũy tre Mặt/ mặc. Cây bàng Chít/ chíp. Đi học Dắt/ dắc Bác đưa thư Quýnh/ kính Chia quà Phương/ phươn, xin/ xinh. Loài cá thông minh Xiếc/ xiết. Ò…ó…o Tiếng/ tiến, hoắt/ hoắc. d) Lỗi về thanh điệu: Học sinh ở tiểu học nói chung và đặc biệt là hoc sinh lớp 1, tình trạng lẫn lộn về thanh điệu xảy ra khá nhiều, nhất là thanh ngã và thanh hỏi, thanh sắc và thanh huyền. Lỗi này chủ yếu do cách phát âm của một số vùng miền có thanh hỏi, thanh ngã hoặc thanh sắc , thanh huyền tương đối gần nhau, khó phân biệt, từ đó dẫn đến việc viết sai về thanh điệu nhiều. Lỗi này có thể thống kê theo bài như sau:
  11. Trường em Giáo/ giảo. Nhà bà ngoại Rãi/ rái, thoáng/ thoảng Hoa sen Trắng/trẳng. Mèo con đi học Kiếm/ kiểm, chữa/ chứa.. Ngưỡng cửa Đã/ đá Kể cho bé nghe ĩ/í Hồ Gươm Dẫn/ dấn, rễ/ rế. Cây bàng Kẽ/ ké. Bác đưa thư Nhễ/ nhế. Loài cá thông minh Dẫn/dấn 4. Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh. Từ sự phân tích trên chúng ta có thể tổng hợp lại các nguyên nhân phạm lỗi của học sinh như sau: - Thứ nhất: Phát âm sai so với chuẩn của ngôn ngữ toàn dân đưa đến việc sai lỗi chính tả do “nói sao viết vậy” - Thứ hai: Học sinh chưa nắm vững hoặc quên một số quy tắc chính tả hiện hành (lẫn lộn chữ viết in và chũ viết thường, giữa các phụ âm, giữa các vần mang nguyên âm đôi,…) - Thứ ba: Do một số học sinh có thói quen cấu thả, không chú tâm đến bài viết. - Thứ tư: do giọng đọc của một số giáo viên chưa chuẩn ,ảnh hưởng của tiếng địa phương nên dẫn đến học sinh nghe không rõ, nhầm lẫn, nhất là giữa các thanh điệu.
  12. Với bốn nguyên nhân chủ yếu trên, theo tôi nguyên nhân thứ ba là dễ khắc phục hơn cả bởi nó phụ thuộc vào ý thức học tập của học sinh. Do đặc trưng lứa tuổi, tâm lý ở đối tượng học sinh này nếu được giáo viên chú trọng hướng dẫn, rèn cho các em có được thói quen tốt, cẩn thận, tập trung trong quá trình học tập thì sẽ thành công. Ba nguyên nhân còn lại đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài, thường xuyên, liên tục và phải đươc thực hiện ngay từ những bài đầu của lớp 1. Bởi thế, tôi xin đề xuất một số biện pháp khắc phục như sau: Một là: Giáo viên cần luyện đọc, phát âm theo đúng chuẩn. Với học sinh lớp 1, thầy cô là: “khuôn vàng thước ngọc”. Trong thực tế, ta thấy sự ảnh hưởng của giáo viên đến từng học sinh là rất lớn, các em học và bắt chước từ cử chỉ đến lời ăn tiếng nói. Vì thế, để rèn học sinh viết đẹp, viết đúng không có cách nào khác là mỗi giáo viên phải tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ. Yếu tố đầu tiên cần quan tâm đó là đọc rõ ràng, phát âm chuẩn, hạn chế sự ảnh hưởng của âm sắc địa phương. Nhờ đó sẽ phần nào giảm bớt sai sót về phụ âm, thanh điệu giúp cho học sinh có giọng đọc đúng. Tuy nhiên, ta cũng thấy rằng: Đây là việc làm không dễ thực hiện, nó đòi hỏi phải có sự kiên trì, nhất là với những giáo viên đã lớn tuổi thì càng khó khăn hơn. Hai là: Cần chú ý nhắc nhở học sinh phân biệt chữ viết thường và chữ viết hoa. Cụ thể hướng dẫn một số quy tắc sau: - Viết hoa ở chữ cái đầu đoạn, sau dấu chấm, dấu chấm than, dấu hỏi chấm. - Viết hoa tên riêng: Tên người, tên địa danh (đất nước, tỉnh, thành phố, núi, sông,…) Ba là: Hạn chế lỗi viết sai phụ âm đầu: Khi dạy chính tả, giáo viên cần chú ý sử dụng các phương pháp dạy học chính tả so sánh, phân tích kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức, giúp học sinh rút ra cái đúng, cái sai trên cơ sở hiểu ý nghĩa của các từ để khắc phục tình trạng viết sai phụ âm đầu. Trong đó chú ý khắc phục tình trạng lẫn lộn giữa các cặp phụ âm như: l/ n, ch/ tr, s/ x, r/ d,… Ví dụ: Phân biệt ch/ tr giáo viên đưa ra những nhận xét để học sinh dễ nhớ: Số tiếng bắt đầu bằng “ch” chỉ tên các vật dụng trong nhà như: chăn, chiếu, chảo, chậu, chén,…, các tiếng bắt đầu bằng “tr” như tranh, tráp…
  13. Qua ví dụ ta thấy: Đây là một ảnh hưởng không nhỏ đến việc viết chỉnh tả của học sinh. Vì vậy cần coi trọng luyện đọc, luyện phát âm, hướng dẫn học sinh đọc đúng thì viết mới đúng. Thế nhưng, ta cũng có thể hình dung làm được điều này không dễ. Bới vì khi bắt đầu tập nói, một số học sinh đã chịu ảnh hưởng một số âm sắc của địa phương qua cách nói năng giao tiếp, qua sự hướng dẫn của những người thân trong gia đình. Từ đó hình thành nên thói quen trong giao tiếp và khi đã trở thành thói quen rồi thì việc sửa chữa, uốn nắn trở nên khó khăn hơn. Đó là chưa kể đến một số học sinh do có giọng nói khác với các bạn bè trong lớp, bị trêu chọc trở nên mặc cảm, rụt rè ít giao tiếp, không giảm phát biểu, ngại nói, ngại đọc,…cũng từ đó giáo viên ít gọi đọc bài, ít cho tham gia phát biểu và cơ hội sửa chữa lỗi phát âm lại càng ít hơn. Để khắc phục điều này, khi trong lớp có học sinh như vậy chúng ta cần dành cho các em sự quan tâm riêng, tăng cường cho các em cơ cơ hội nói năng, hoạt động trước tập thể để uốn nắn, sửa chữa dần. Đồng thời ta cũng phải chú ý hướng dẫn học sinh trong lớp biết giữ phép lịch sự, tôn trọng bạn mình, không nhịa theo giọng nói của bạn. Ở một số tiếng hay bị sai trong phát âm nên cho học sinh luyện đi luyện lại nhiều lần và có sự so sánh với những tiếng có liên quan, nói- đọc gần giống nhau để biệt phân biệt, rút ra quy tắc. 5. Một số kiến nghị. Từ việc điều tra, đánh giá các lỗi chính tả của học sinh ở lớp 1B và dựa vào mục đích, yêu cầu nội dung phương pháp dạy học chính tả cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng tôi xin phép nêu ra một số kiến nghị sau: a) Đối với giáo viên dạy lớp 1: Trước hết cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp khi hướng dẫn học sinh viết chính tả: - Đối với loại bài chính tả tập chép nên cho học sinh luyện đọc nhiều lần để các em nhớ từ, câu để viết đúng, tránh phải nhìn từng chữ, từng nét để viết. - Với bài chính tả nghe viết: Giáo viên cần đọc rõ ràng, phát âm chính xác tốc độ vừa phải theo yêu cầu của bộ giáo dục (20 chữ/15 phút). Muốn đọc đúng theo tốc độ này giáo viên cần phải luyện thử trước qua việc kết hợp luyện đọc và viết. Từ đó cũng phát hiện ra những chữ học sinh hay viết sai, viết nhầm để lưu ý các em viết đúng. - Cần vận dụng tích hợp các biện pháp và phương pháp dạy chính tả như: Thường xuyên ôn lại về cấu tạo âm tiết, các phụ âm, vần đã học để giúp học sinh viết đúng
  14. chính tả. Với học sinh yếu kém, cần thường xuyên theo dõi, động viên giúp các em viết từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Nếu cần thiết, giáo viên có thể cho những học sinh này xem lại bài chỉnh tả trước khi viết để các em ghi nhớ. Cùng với việc rèn luyện ta cần củng cố, tạo sự tự tin, niềm hứng thú cho các em, tránh sự mặc cảm, chán nản; khuyến khích, khen ngợi kịp thời khi các em co biểu hiện tiến bộ. - Để giúp học sinh viết tốt hơn ta nên chọn một số đoạn văn, đoạn thơ mà trong đó có những chữ viết sai cho các em phát hiện lỗi theo hướng loại bỏ cái sai, tìm cái đúng. - Nắm bắt được tâm lý của học sinh lớp 1 là thích được “học mà chơi”. Ngoài ra ta còn có thể lồng ghép việc rèn viết chính tả cho học sinh qua các cuộc thi, các trò chơi nhỏ như: Chọn từ thích hợp để điền vào chỗ trống, tìm phụ âm,vần; đọc diễn cảm, viết chữ đúng, viết chữ đẹp. - Bên cạnh đó chúng ta cũng không quên trang bị đầy dủ kiến thức về ngữ học, từ vựng học tích lũy kinh nghiệm, tổng hợp được các từ hay viết sai để lưu ý, tăng cường luyện tập liên quan đến các từ đó ở các lớp sau. - Giáo viên cũng nên thường xuyên phối hợp với gia đình, cùng phụ huynh hướng dẫn học sinh biết phát âm đúng, viết đẹp. b) Đối với nhà trường: - Lồng ghép trong các hoạt động của chuyên môn, đội thiếu niên,…các hoạt động vui chơi bổ ích như: Thi viết chữ đẹp, đọc diễn cảm,…tìm từ có phụ âm đầu dễ lẫn như: l/ n, ch/ tr, x/ s,…ngoài việc thi giữa học sinh với học sinh còn có thể tổ chức thi giữa giáo viên với giáo viên như: Đọc, viết, dạy chính tả, mở chuyên đề,… - Tổ chức điều tra lỗi sai chỉnh tả của học sinh ở các lớp. Qua đó thống kê các từ sai, tần số sai sót và việc làm này phải được tổ chức thường xuyên.liên tục để có hệ thống đánh giá, so sánh, cung cấp tư liệu cho trường, tổ chuyên môn và từng giáo viên để giúp họ định hướng tốt hơn trong dạy học chính tả, hạn chế lỗi sai trong bài của học sinh. - Thư viện nhà trường cần bổ sung các tư liệu, tài liệu, cẩm nang phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho từng bộ môn. c) Đối với các cấp quản lý giáo dục: Tôi có mấy đề xuất như sau:
  15. - Cần có sự quy định thật cụ thể trong việc dạy một số âm mà còn tồn tại ở những cách viết khác nhau như: i/ y, ng/ ngh, gi/ d (ví dụ: kĩ thuật/ kỹ thuật, vật lí/ vật lý, giao/ dao,…) - Nên tổ chức một số chuyên đề về hướng dẫn học sinh viết chính tả, trong đó cung cấp những kiến thức cơ bản, thiết thực cho giáo viên, nhằm giúp mỗi người năng cao hơn nhận thức về cơ sở lý luận và kĩ năng. - Bên cạnh đó, các tập san của ngành, Báo giáo dục thời đại cũng nên có chuyên mục riêng về tiếng Việt trong đó có các nội dung các nhà giáo trao đổi với nhau về kinh nghiệm giảng dạy và có những điều gay cấn cần tháo gỡ. - Trong biên soạn sách giáo khoa cần có một hệ thống bài tập kết hợp giữa tập đọc – tập viết – chính tả - tập làm văn – luyện từ và câu; chú ý giúp cho học sinh thường xuyên ôn luyện các quy tắc chính tả để các em lưu ý và nhớ lâu. - Trong các trường sư phạm khi đào tạo các giáo viên trẻ tương lai cần chú ý trang bị phương pháp dạy từng môn, trong đó có cả phương pháp dạy học chính tả, yêu cầu sinh viên nắm vững cả kiến thức lẫn kĩ năng. Kết luận Đề tài của tôi thực hiện là sự kết hợp giữa những cơ sở lý luận, yêu cầu đặt ra của việc dạy chính tả và những điều đã rút ra được qua thực tế giảng dạy. Mục đích chủ yếu của tiểu luận này là muốn tìm được tiếng nói chung, cùng đồng nghiệp chia sẻ những suy nghĩ, đánh giá, kinh nghiệm đang dạy một phân môn quan trọng của môn tiếng Việt. Trên đây, tôi đã trình bày một số biện pháp cần thiết góp phần hạn chế lỗi chính tả cho học sinh lớp 1 và hầu như các biện pháp đã nêu trong quá trình giảng dạy tôi đã chú ý vận dụng. Mặc dù hiệu quả chưa được trọn vẹn nhưng qua một năm học cũng mang lại hiệu quả khả quan. Từ chỗ còn khá nhiều em viết sai thì biểu đồ đó ngày càng giảm. Số học sinh viết sai, viết xấu đã hạn chế nhiều, thay vào đó có nhiều em viết không những đúng mà còn viết rất đẹp. Cùng với năng lực chính tả được cải thiện, một số em đọc tiến bộ rõ rệt, hạn chế được ảnh hưởng của âm sắc địa phương. Các em hòa đồng, gắn bó hơn với bạn bè trong lớp. Như vậy, những lỗi của học sinh trong bài chính tả, chúng ta có thể sửa được, tuy nhiên đòi hỏi giáo viên phải kiên trì luyện cho trò và luyện cho chính mình.
  16. Bên cạnh đó tôi cũng đã đề xuất một số kiến nghị cho từng giáo viên, nhà trường và cho ngành giáo dục. Có thể nó còn mang tính phiếm diện, chủ quan,có thể đôi điều chưa phù hợp với thực tiễn nhưng it ra qua đó thêm một lần nữa định hướng cho tôi những việc nên làm và có sự đầu tư đúng mức. Bước đầu nghiên cứu, khảo sát, thống kê, đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong được đón nhận những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô, đồng nghiệp. Những góp ý đó sễ giúp tôi rât nhiều trong qúa trình giảng dạy của mình. Tiếng Việt chúng ta giàu và đẹp. Sự giàu có, phong phú đó thể hiện rất sinh động trong lời ăn, tiếng nói hàng ngày, qua văn chương và qua những lời viết của học sinh. Trách nhiệm của mỗi người là góp phần để gìn giữ cho tiếng Việt luôn giữ được sự giàu có, vẻ đẹp của mình. Và với mỗi nhà giáo, trách nhiệm đó càng lớn lao hơn bởi chúng ta không chỉ làm tốt bổn phận của một người dân yêu nước, yêu tiếng mẹ đẻ của mình mà còn dẫn dắt gợi lên từ trong bao tâm hồn trẻ thơ tình yêu, sự gắn bó, tự hào về tiếng Việt, hướng dẫn cho các em biết sử dụng ngôn ngữ dân tộc một cách thành thạo, chuẩn xác, khéo léo, giữ cho tiếng Việt luôn trong sáng, có sức sống trường tồn cùng với thời gian. Tài liệu tham khảo $1 $1 Lê A (chủ biên), Phương pháp dạy học tiếng Việt, NXB ĐH Sư phạm Hà Nội, năm 2003. $2 $2 Bộ giáo dục và đào tạo, chương trình giáo dục phổ thông – bậc tiểu học, NXB Giáo dục 2006. $3 $3 Nguyễn Đức Dương, Vấn đề sửa lỗi chính tả cho học sinh phổ thông. $4 $4 Lê Trung Hoa, mẹo luật chính tả, NXB trẻ, 1984. $5 $5 Đỗ Đình Hoan, Một số vấn đè cơ bản của chương trình tiểu học mới, NXB Giáo dục, 2002. $6 $6 Phan Ngọc, chữa lỗi chính tả cho học sinh (in lần thứ hai), NXB Giáo dục, 1997. $7 $7 Hoàng Văn Thung, Đỗ Xuân Thảo, dạy học chính tả ở tiểu học. $8 $8 Lê Ngọc Trụ, Chính tả Việt ngữ, Sài Gòn, 1960.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0