SKKN: Một hoạt động thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh - môn Ngữ văn
lượt xem 10
download
Việc kiểm tra, đánh giá học sinh là yêu cầu thiết yếu và thường xuyên, gắn liền với hoạt động dạy và học từ xưa đến nay. Mấy năm gần đây, vấn đề này được ngành Giáo dục nghiên cứu, quan tâm, đặt lên hàng đầu. Là một giáo viên, mục tiêu cuối cùng là học sinh của mình đạt được thành tích học tập tốt đẹp. Muốn vậy, cần phải luôn luôn trăn trở, tìm tòi những phương pháp mới phù hợp với môi trường giảng dạy, đối tượng học và xu thế chung của xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Một hoạt động thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh - môn Ngữ văn
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO AG TRƯỜNG THPT NGUYỄN BỈNH KHIÊM Đề tài: Giáo viên: Lâm Thị Thanh Trúc Năm học: 2011-2012 1
- Đơn vị: THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm 2
- Giáo viên: Lâm Thị Thanh Trúc Môn: Ngữ văn Năm học: 2011 - 2012 Đề tài: MỘT HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN “ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ HỌC SINH” MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI II- PHẠM VI VÀ MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI B. PHẦN NỘI DUNG I- THỰC TRẠNG II- NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH 1. Thời gian thực hiện 2. Yêu cầu của đề 3. Biện pháp tiến hành 4. Minh chứng về Hướng dẫn chấm 5. Minh chứng về một số “lời phê” và điểm số của người chấm III- KIỂM NGHIỆM LẠI KINH NGHIỆM 1. Hiệu quả a. Đối với học sinh b. Đối với giáo viên 2. Khó khăn 3. Kết quả C. KẾT LUẬN 3
- 4
- A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Nhiều năm nay, để đáp ứng xu thế phát triển chung của xã hội và tư duy con người, nhà trường phổ thông phải đổi mới mọi mặt. Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những mục tiêu được quan tâm. Trong đó, đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một trong những hoạt động thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, hướng đến việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường phổ thông. Việc kiểm tra, đánh giá học sinh là yêu cầu thiết yếu và thường xuyên, gắn liền với hoạt động dạy và học từ xưa đến nay. Mấy năm gần đây, vấn đề này được ngành Giáo dục nghiên cứu, quan tâm, đặt lên hàng đầu. Là một giáo viên, mục tiêu cuối cùng là học sinh của mình đạt được thành tích học tập tốt đẹp. Muốn vậy, cần phải luôn luôn trăn trở, tìm tòi những phương pháp mới phù hợp với môi trường giảng dạy, đối tượng học và xu thế chung của xã hội. Bản thân tôi trong mấy năm gần đây cũng có một thử nghiệm trong phạm vi hẹp muốn được trao đổi với anh chị em đồng nghiệp, có lẽ chưa được toàn diện, rất mong được sự chia sẻ. II- PHẠM VI VÀ MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI: Việc Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh có nhiều qui trình và biện pháp. Trong phạm vi bài viết này, tôi trình bày lại một hoạt động nhỏ mà tôi đã và đang thực hiện: Học sinh nhận xét, góp ý, đánh giá cho điểm bài làm văn của bạn để từ đó nhìn lại, tự đánh giá bài làm văn của mình. Đối tượng thực hiện của tôi là học sinh lớp 12. Sử dụng các tiết dạy trái buổi để rèn luyện thêm cho các em kĩ năng làm văn nghị luận, chuẩn bị tốt cho kì thi TN THPT cuối năm. Làm văn là một môn học mang tính chất thực hành tổng hợp giữa Tiếng Việt với Đọc- hiểu văn bản của chương trình ngữ văn. Khi làm một bài tập làm văn, học sinh phải huy động tổng hợp kiến thức Tiếng Việt để viết đúng chính tả, dùng từ chính xác, đặt câu đúng ngữ pháp phù hợp với phong cách văn bản và diễn đạt mạch lạc nhằm đạt được yêu cầu của đề bài. Ngoài những kiến thức và kĩ năng Đọc- hiểu văn bản; khi làm văn, học sinh còn phải huy động năng lực quan sát, trí nhớ, vốn sống và khả năng tư duy của mình để nội dung bài làm có được những nét tinh tế, những vẻ sinh động và một phong cách riêng. Mỗi bài làm văn có thể coi là một “tác phẩm nhỏ” của học sinh. Tác phẩm ấy phản ánh khá rõ ràng nhận thức tình cảm của học sinh đối với vấn đề văn học và cuộc 5
- sống. Nó cũng phản ánh khá rõ năng lực và tư duy, trình độ ngôn ngữ và một phần cá tính của học sinh. Cho nên, hoạt động này tôi chọn thực hiện ở việc chấm chữa bài văn nghị luận ngắn (thời gian làm bài là 45’). Thông qua đó, ngoài mục tiêu cho học sinh tự đánh giá bài làm văn của bạn, tôi còn kết hợp rèn luyện thêm kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh. Bởi vì nếu các em đã biết đắn đo tìm ra ưu diểm, khuyết điểm của bạn để “phê” vào bài, biết cân nhắc để cho vào con điểm đánh giá bài làm của bạn, thì các em sẽ học tập được ưu điểm và có ý thức tránh đi khuyết điểm của bạn trong bài làm của mình sau này. Bên cạnh mục tiêu rèn kĩ năng làm văn cho học sinh, phạm vi đề tài này còn nhằm tích hợp rèn luyện thêm các kĩ năng sống cho học sinh: rèn cho các em có thói quen vận động trí óc khi gặp một vấn đề cần tư duy, rèn cho các em có được kĩ năng làm chủ một tình huống, biết đắn đo cân nhắc và có trách nhiệm trước quyết định của mình. Thông qua hình thức giao tiếp giữa trò – trò, tôi muốn tạo cơ hội cho học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá, giúp học sinh nhận ra những điểm mạnh và điểm yếu của bạn, từ đó soi rọi lại điểm mạnh và điểm yếu của mình, nhằm theo dõi sự tiến bộ của mình… Mặt khác, tôi muốn khuyến khích động viên hứng thú học tập của các em bằng cách cho các em làm “giám khảo” qua một bài làm văn cụ thể. 6
- B. PHẦN NỘI DUNG I- THỰC TRẠNG : Như trên đã nói, việc kiểm tra, đánh giá học sinh là việc làm thường xuyên trong suốt quá trình năm học, nhằm đánh giá kết quả học tập của từng học sinh. Theo quan niệm cũ, giáo viên là người trực tiếp đánh giá, nhận xét, cho điểm học sinh từ kiểm tra thường xuyên (kiểm tra miệng, kiểm tra 15’), đến kiểm tra định kì (kiểm tra 1 tiết, bài viết làm văn). Theo chủ trương đổi mới của ngành, để phát huy vai trò tích cực chủ động của học sinh, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học của mình. Tục ngữ có câu “Trăm hay không bằng tay quen”, muốn làm văn tốt, cần phải đọc nhiều, viết nhiều. Theo PPCT của Bộ Giáo dục, trong suốt năm học, học sinh chỉ làm có 2 bài viết NLXH, 3 bài viết NLVH, cộng với 2 lần kiểm tra học kì, theo cá nhân tôi, thì không đủ để rèn luyện cho các em thành thục hoặc nâng cao các kĩ năng hành văn để chuẩn bị tốt cho các kì thi tốt nghiệp hoặc đại học. Tôi nghĩ, đây là cách để tăng cường việc viết, đọc (thông qua chấm chữa bài) cho học sinh, hiệu quả cũng không kém với các tiết Trả bài viết trong PPCT. II- NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH 1/ Thời gian thực hiện: - Thời gian thực hiện là hai tiết dạy trái buổi (tăng cường luyện tập) của nhà trường (không nằm trong thời lượng phân phối chương trình của Bộ Giáo dục). Hai tiết này ở hai buổi học cách nhau một tuần cho một lớp: tiết thứ nhất giáo viên ra đề cho học sinh viết bài làm văn; tiết thứ hai giáo viên phát bài và hướng dẫn cho học sinh chấm chữa. - Trong năm học, tôi chọn một số thời điểm như sau: + Bài thứ nhất: tuần 5 – 6 (tiến hành trước khi cho học sinh làm Bài viết số 2, theo PPCT) NLXH. + Bài thứ hai: tuần 8 – 9 (tiến hành trước khi cho học sinh làm Bài viết số 3, theo PPCT) NL về thơ. + Bài thứ tư: tuần21 – 22 (tiến hành trước khi cho học sinh làm Bài viết số 5, theo PPCT) NL về văn xuôi. 2/ Yêu cầu của đề: - NLXH: thời lượng làm bài là một tiết nên đề bài như đề thi TN THPT là phù hợp. - NLVH: yêu cầu của đề bài sao cho phù hợp với dung lượng một bài viết ngắn (45’). Đề nhỏ quá thì không có bao nhiêu ý cho học sinh viết, đề rộng quá thì học sinh không đủ thời gian làm bài. Vì đây là tiết rèn luyện, nên tôi cho học sinh sử dụng SGK. 7
- Ví dụ: Đề 1: “Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng” (Lỗ Tấn) Viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên. * Giáo viên gợi ý trước khi học sinh làm bài: 1/ Giải thích: Vì sao nhà văn nói “Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”? - Người lười biếng là … - Thành công là … nghĩa cả câu. 2/ Luận bàn: Con đường dẫn tới thành công là con đường chông gai, đầy khó khăn, thử thách chứ không phải bằng nhung lụa (…) Chứng minh qua thực tế: (…) Vậy, có thành công nào lại thuộc về người lười biếng? Có người lười biếng nào lại vươn tới được thành công? 3/Mở rộng: - Phê phán những kẻ lười biếng: (…) Voltaire từng nói: “Công việc tránh cho ta ba cái hại lớn: buồn chán, hư đốn, túng thiếu”. Lười biếng còn là nguyên nhân của mọi thói xấu khác, làm mòn rỉ trí tuệ, thân thể và nhân cách. - Phương hướng bản thân: Hãy xây dựng ước mơ, hoài bão và nhân cách của mình bằng sức lao động, sự cần cù và chăm chỉ. - Rút ra bài học: Câu nói phê phán thói lười biếng, giáo dục tính siêng năng, cần mẫn để vươn tới thành công. Đề 2: Viết một bài văn ngắn hình dung cuộc hành quân của các chiến sĩ Tây Tiến và nêu suy nghĩ về cuộc hành quân ấy? * Giáo viên gợi ý trước khi học sinh làm bài: 1- Người chiến sĩ Tây Tiến vượt qua những chặng đường hành quân gian khổ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”. - Mệt mỏi, gian lao, bệnh tật… khiến nhiều người hi sinh nằm lại trên đường hành quân: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ, bỏ quên đời” 8
- 2- Nhưng những người còn sống vẫn quả cảm tiến về phía trước, đậm tinh thần bi tráng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” 3- Có những giây phút thật lãng mạn, ấm áp tình người trong những đêm liên hoan, những bữa cơm gạo nếp thơm lên khói, những cuộc vượt thác hoa đong đưa trôi dòng… 4- Nêu suy nghĩ: … 5- Nhận xét về vài nét nghệ thuật: hệ thống từ Hán Việt, các biện pháp tu từ (nhân hóa, điệp từ, đối lập, cường điệu…), chất thơ – nhạc – họa hài hòa (nhiều màu sắc, âm thanh), giọng thơ bi tráng, thiết tha… Đề 3: Viết một bài văn ngắn phân tích niềm khát khao hạnh phúc gia đình thể hiện qua nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân. * Gợi ý: 1- Diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng lúc quyết định “nhặt vợ” và trên đường dẫn vợ về nhà. 2- Diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng vào buổi sáng hôm sau. 9
- 3/ Biện pháp tiến hành: * Tiết Tự chọn tuần trước: Để cho học sinh dễ nhận xét, đánh giá, và tự rút kinh nghiệm cho bản thân, mỗi đợt thực hiện tôi ra cùng một đề. - Giáo viên ra đề, hướng dẫn các luận điểm chính cho học sinh làm bài. - Cả lớp làm bài. - Trình bày tờ giấy: + Để bảo đảm tính khách quan trong lúc học sinh chấm chéo, học sinh chỉ ghi số thứ tự của mình trong sổ Gọi tên ghi điểm, và lớp, không ghi họ tên (ở góc trái tờ giấy làm bài). STT: BÀI VIẾT NGẮN LỚP: ĐỀ BÀI: Người chấm Lời phê: STT: Lớp: Điểm * Tiết Tự chọn tuần sau: - Giáo viên phát bài cho học sinh (các lớp chấm chéo để bảo đảm tính khách quan). VD: + 12B7 chấm bài của lớp 12B8 + 12B8 chấm bài của lớp 12B9 + 12B9 chấm bài của lớp 12B7 - Cho cả lớp thảo luận: (10’) + Tìm hiểu đề. + Lập dàn ý đại cương - Sau khi thảo luận, giáo viên phát Hướng dẫn chấm, có dàn ý, cách cho điểm và cách ghi lời phê cụ thể (GV foto sẵn, phát cho mỗi học sinh – sẽ minh chứng ở phần 4/ ) 10
- - Vì học sinh chưa từng chấm bài, nhất là bài làm văn, nên giáo viên trực tiếp hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ cách ghi lời phê: + Phê cả hai mặt nội dung (ý), và hình thức diễn đạt (từ ngữ, câu chữ, đoạn, bố cục trình bày, cách thức lập luận…) + Không nên chỉ tập trung tìm khuyết điểm, mà phải phê cả ưu điểm lẫn khuyết điểm. - Và cũng để giúp học sinh dễ chấm bài, nên cách cho điểm giáo viên ra thang điểm cụ thể từng phần, từng ý. - Học sinh tiến hành chấm bài, trước khi chấm, học sinh ghi vào ô “Người chấm” số thứ tự của mình trong sổ Gọi tên ghi điểm, và lớp, không ghi họ tên (để tránh cảm tính giữa người chấm và người làm bài, và để giáo viên kiểm tra lại thái độ trung thực, khách quan và tinh thần trách nhiệm của người chấm). - Giáo viên thu bài, về nhà kiểm tra lại. Sau khi giáo viên kiểm tra sẽ chấm lại một số bài điểm và lời phê chưa xác đáng để “người chấm” rút kinh nghiệm qua cách phê, cách cho điểm để từ đó đối chiếu lại bài làm của mình (vì cùng một đề). - Sau đó giáo viên trả bài lại cho học sinh để cho các em đọc lại bài, đối chiếu với đáp án và điểm, lời phê; tự đánh giá, rút kinh nghiệm bài làm của mình. - Điểm số do học sinh chấm không lấy vào sổ, chỉ để “người viết” nhận định lại khả năng tư duy và kĩ năng viết văn nghị luận của mình. 11
- 4/ Minh chứng về Hướng dẫn chấm: Giáo viên foto sẵn, sau khi cho học sinh thảo luận Tìm hiểu đề và Lập dàn ý xong, giáo viên phát ra cho học sinh. VD: Bài thứ nhất (NLXH về tư tưởng, đạo lí) Đề bài: “Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”- (Lỗ Tấn) Viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên. HƯỚNG DẪN CHẤM A- Yêu cầu của đề: - Xác định vấn đề cần nghị luận: Phê phán thói lười biếng. Khẳng định mọi sự thành công đến từ chăm chỉ, cần cù. - Thao tác nghị luận: giải thích, phân tích kết hợp chứng minh, bình luận kết hợp bác bỏ. - Phạm vi tư liệu: Trong đời sống thực tế và sách báo. B- Dàn ý: Mở bài Dẫn đề: Lười biếng là một trong những thói xấu của con người. Lười biếng không những chẳng làm được việc gì nên chuyện mà còn là gốc rễ của mọi thói xấu khác. Nêu vấn đề: Nhà văn Lỗ Tấn đã đúc kết chân lí: “Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”. Chuyển mạch: Câu nói trên có ý nghĩa giáo dục như thế nào đối với mọi người, đặc biệt là thanh niên học sinh chúng ta? Thân bài 1/ Giải thích: Vì sao nhà văn nói “Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”? - Người lười biếng là người lười suy nghĩ, lười học tập, lười lao động và làm việc. - Thành công là mục đích, kết quả mà người ta phải đổ mồ hôi, công sức, thời gian, trí tuệ…; chịu đựng sự gian nan, vất vả, thậm chí phải nếm trải những thất bại mới có được. Vì vậy, nhà văn Lỗ Tấn đã rút ra chân lí của sự thành công: “Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng” 2/ Luận bàn: Con đường dẫn tới thành công là con đường chông gai, đầy khó khăn, thử thách chứ không phải bằng nhung lụa. Đó là cả một quá trình học tập, lao động, 12
- nghiên cứu, sáng tạo không ngừng, đòi hỏi con người phải cần cù, miệt mài, chịu khó và có ý chí quyết tâm cao mới thành. Không có một thành công, thành quả nào mà không phải đổi bằng mồ hôi, công sức. - Người nông dân làm ra hạt gạo phải một nắng hai sương: + Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần + Mồ hôi mà đổ xuống đồng Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương Mồ hôi mà đổ xuống vườn Dâu xanh lá tốt, vấn vương tơ tằm - Một công trình khoa học, một sáng chế ra đời là cả một quá trình nghiên cứu lao động miệt mài của một kĩ sư, một nhà khoa học… mới có được. (ví dụ) - Trở thành một giáo viên, một bác sĩ giỏi, một nhà văn nổi tiếng… được mọi người kính trọng, ngưỡng mộ, đều phải đổi bằng cả tâm huyết cuộc đời cho sự nghiệp. (ví dụ) - Một học sinh muốn học giỏi, có ước mơ, hoài bão cao đẹp, không thể là một người “há miệng chờ sung”, “ôm cây đợi thỏ”… Vậy, có thành công nào lại thuộc về người lười biếng? Có người lười biếng nào lại vươn tới được thành công? 3/Bình luận: - Phê phán những kẻ lười biếng, thói lười biếng có rất nhiều câu nói: + “Làm biếng ngồi ăn lở núi non” (Nguyễn Trãi). + “Lười biếng là mẹ đẻ của thói ăn cắp và sự đói rét” (Vichto Huygo). + “ Lười biếng làm mòn trí tuệ và thân thể” (Phranklin) + “Chồng người đi ngược về xuôi Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo” – ca dao Việt Nam. Rõ ràng, lười biếng là một thói xấu. Câu nói của nhà văn Lỗ Tấn cũng nhằm phê phán thói lười biếng. Lười biếng dẫn người ta đến bần cùng, đói nghèo, buồn chán, Voltaire từng nói: “Công việc tránh cho ta ba cái hại lớn: buồn chán, hư đốn, túng thiếu”. Lười biếng còn là nguyên nhân của mọi thói xấu khác, làm mòn rỉ trí tuệ, thân thể và nhân cách. - Phương hướng bản thân: Hãy xây dựng ước mơ, hoài bão và nhân cách của mình bằng sức lao động, sự cần cù và chăm chỉ. Cần cù chăm chỉ mới trở thành người tài đức, cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc. Hồ Chí Minh nói: “Trong xã hội ta không có nghề nào thấp kém, chỉ có những kẻ lười biếng, ý lại mới đáng xấu hổ”. 13
- Kết bài - Khẳng định lại ý nghĩa câu nói: Bất cứ sự thành công nào cũng cần có sự cần cù, chăm chỉ, kiên trì, chịu khó. Lười biếng, ỷ lại, ngại khó, ngại khổ sẽ chẳng bao giờ làm được việc gì có ý nghĩa. - Rút ra bài học: Câu nói phê phán thói lười biếng, giáo dục tính siêng năng, cần mẫn để vươn tới thành công. CÁCH CHO ĐIỂM I- MB: (1.5đ) Dẫn đề (0.5đ) – Nêu nguyên văn câu nói (0.5đ) – Chuyển mạch (0.5đ) (Các bạn có thể dẫn đề và chuyển mạch khác nhau, chỉ cần phù hợp với vấn đề nghị luận là được) II- TB: 1/ Giải thích: (1.0đ) - Thế nào là người lười biếng? (0.5đ) - Thế nào là thành công? (0.5đ) 2/ Phân tích và chứng minh: (5.0đ) - Phân tích chung: (con đường dẫn tới thành công là con đường chông gai…) (1.0đ) - Mỗi ý nhỏ (1.0đ) (nếu chỉ có ý, không có dẫn chứng thực tế để minh họa thì chỉ đạt 0.5đ) 4 ý nhỏ (4.0đ) 3/ Bình luận: (1.5đ) - Phê phán (1.0đ) (nếu chỉ có ý, không có dẫn chứng thực tế để minh họa thì chỉ đạt 0.5đ) - Phương hướng bản thân: (0.5đ) III- KB: (1.0đ) - Khẳng định ý nghĩa câu nói (0.5đ) - Rút ra bài học (0.5đ) …………………………………………………… * Lưu ý: - Bài văn nào bố cục rõ ràng, chia thân bài thành 3 phần, lập luận mạch lạc, câu văn sáng rõ lưu loát, dùng từ chính xác, ít sai chính tả, dẫn chứng chính xác… thì mới đạt điểm tối đa như trên - Bài văn nào còn mắc một số lỗi diễn đạt kể trên thì trừ từ 0.5đ đến 1.5đ sau khi đã chấm xong phần nội dung. 14
- - Bài văn nào diễn đạt lủng củng, tối nghĩa, viết chữ cẩu thả, sai nhiều từ, nhiều lỗi chính tả… thì trừ 2.0đ sau khi chấm xong phần nội dung. * Lời phê: lưu ý có khen, có chê; phê ở hai mặt: - Nội dung: gợi ý một số cách phê: + Hiểu rõ vấn đề, ý sâu sắc, dẫn chứng phong phú, xác đáng… + Hiểu vấn đề chưa sâu, còn thiếu ý (…), thiếu dẫn chứng (…) + Hiểu vấn đề còn mơ hồ, hoặc chưa hiểu vấn đề, ý lan man, bài viết sơ sài, không có dẫn chứng… - Diễn đạt: gợi ý một số cách phê: + Bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát, dùng từ hay, có chất văn, biết chia đoạn, chuyển ý, lập luận chặt chẽ… + Thân bài không chia đoạn, trình bày ý có chỗ chưa mạch lạc, có câu sai ngữ pháp, sai chính tả… + Văn viết lủng củng, câu tối nghĩa, ý lộn xộn, chữ viết cẩu thả, sai nhiều lỗi chính tả… 15
- 5/ MINH CHỨNG VỀ LỜI PHÊ VÀ ĐIỂM SỐ CỦA NGƯỜI CHẤM: Sau khi GV kiểm tra xác suất một số bài, GV ghi nhận xét về cả chất lượng bài viết và mức độ xác đáng của lời phê – điểm số Đề 1: “Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”- (Lỗ Tấn) Viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên. 51- Người viết 31 lớp 12B9 – Người chấm 01 lớp 12B8: - Chưa dẫn chứng thực tế, hương hướng bản thân, còn sai chính tả, chứng minh chưa đạt, văn viết tốt, cần cố gắng hơn nữa. - Ưu điểm: chia đoạn rõ ràng, phân tích và chứng minh khá, giải thích câu nói của Lỗ Tấn tốt, nêu vấn đề và chuyển mạch tốt. - Nhược điểm: kết bài còn sơ sài, viết còn ẩu. Cần lưu ý: thân bài cần nêu dẫn chứng nhiều hơn. - Điểm: 8.0 - Nhận xét của GV: + Lời phê đủ hai mặt: ưu – nhược. + Chấm điểm rộng so với đáp án (bạn chưa liên hệ thực tế, còn viết suông) + Điểm: 6.5 7.0 52- Người viết 9 lớp 12B8 – Người chấm 03- 12B7: - còn sai lỗi chính tả nhiều, bài viết còn sơ sài, chưa nắm kĩ nội dung, câu văn lủng củng, một số câu còn lặp ý. - Tuy nhiên cũng có những ý hay những bài viết sau cần nêu sâu và rộng hơn vấn đề cần nghị luận. - Điểm: 6.0 - Nhận xét của GV: + Bài viết thiếu liên hệ thực tế, chưa nêu phương hướng bản thân. + Giám khảo chấm cẩn thận, bắt lỗi chính tả, gạch dưới câu lủng củng và câu hay. Tuy nhiên, có vài lỗi chính tả giám khảo không phát hiện: lỗ tấn, buôn xuôi, mặc khác + Điểm: 5.0 53- Người viết 7 lớp 12B8 – Người chấm 13- 12B9: - Chú ý lỗi chính tả, sai quá nhiều. - Cần chấm, phẩy rõ ràng hơn. 16
- - Chú ý cách dùng từ. - Diễn đạt dài dòng, lang mang. - Có dẫn chứng sinh động. - Viết chữ cần rõ ràng. - Nhận xét của GV: + Giám khảo chấm kĩ, sử lỗi chính tả cẩn thận. + Chữ “lang mang” trong lời phê sai chính tả. + Lời phê khá chi tiết, có khen – chê, tuy nhiên cần chú ý nhận xét về “ý” của bài văn. + Điểm chấm xác đáng 54- Người viết 24 lớp 12B7 – Người chấm 16- 12B9: - Cách bố trí bài văn rọn ràng sạch đẹp, hiểu rõ vấn đề, ý sâu sắc, nhưng còn thiếu một số ý: dẫn chứng về sự lười biếng còn quá sơ sài, chưa nêu được ví dụ về sự lười biếng. - Bố cục rõ ràng, biết chia đoạn, chuyển ý, lập luận chặt chẽ, cho tám điểm rưỡi - Điểm: 8.5 - Nhận xét của GV: + Bài viết có đầu tư, trình bày sáng rõ. + Lời phê xác đáng: còn thiếu liên hệ thực tế về người lười biếng. Lời phê sai chính tả: rọn ràng. + Giám khảo không cần “cho tám điểm rưỡi” vào lời phê! + Điểm tương đối rộng: giảm còn 7.0 7.5 17
- Đề 2: Viết một bài văn ngắn hình dung cuộc hành quân của các chiến sĩ Tây Tiến và nêu suy nghĩ về cuộc hành quân ấy? 55- Người viết 9 lớp 12B8 – Người chấm 5- 12B9: - MB: lập luận chưa mạch lạc. - TB: + lập luận lủng củng, chưa mạch lạc. + chú ý chấm hết rõ ràng, viết hoa các danh từ riêng, phải dẫn nguyên văn thơ + cần trao dồi cách lập luận + bài văn có bố cục rõ ràng + biết phân tích từ nghệ thuật đến nội dung - KB: khái quát được vấn đề cần nghị luận - Điểm: 5.5 - Nhận xét của GV: +Chấm sửa lỗi rất cẩn thận. + Lời phê chi tiết, tốt; sai chính tả: trao dồi + Điểm giảm xuống: 4.5 (vì bài có nhiều lỗi diễn đạt, thiếu ý) 56- Người viết 10 lớp 12B7 – Người chấm 02- 12B8: - Hiểu luận đề chưa sâu, phân tích thơ chưa rõ, thiếu ý. - Còn sai chính tả, nên viết hoa tên bài thơ. - Biết chia đoạn, phân chia bố cục rõ ràng. - Nên rèn kĩ năng phân tích thơ. - Chưa nêu được suy nghĩ - Điểm: 5.0 - Nhận xét của GV: + Người viết có đầu tư , viết khá ở hình tượng người lính Tây Tiến, chưa nêu suy nghĩ về cuộc hành quân.. + Người chấm phát hiện lỗi tốt, lời phê cụ thể, chi tiết. Tuy nhiên, bạn cũng đã thể hiện được kĩ năng phân tích thơ (khai thác nghệ thuật để tìm nội dung) ở một vài ý. + Có thể nâng lên 5.5 6.0 18
- III- KIỂM NGHIỆM LẠI KINH NGHIỆM: 1. Hiệu quả: a.Đối với học sinh: - Việc rèn luyện kĩ năng làm văn và đánh giá thường xuyên đã chỉ cho học sinh thấy mình đã tiếp thu điều vừa học đến mức độ nào, còn thiếu sót nào cần bổ khuyết. - Thông qua việc tự viết bài của mình; việc nhận xét đánh giá, cho điểm bài làm của bạn, những hoạt động này đã phát triển năng lực nhận thức: giúp học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt động trí tuệ như tái hiện, đối chiếu, hệ thống hóa kiến thức, tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tế. - Giáo dục học sinh: có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập; có tinh thần học tập không chỉ ở thầy, mà còn học ở bạn; có ý chí vươn lên đạt những kết quả cao hơn, củng cố lòng tin vào khả năng của mình, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan tự mãn. - Đa số học sinh rất thích “làm thầy”, rất hứng thú trong việc “phê” và “cho điểm” vào bài làm của bạn (chấm một bài chê ít, đòi chấm thêm). Tôi nhận thấy phương pháp này góp phần kích thích được hứng thú học tập bộ môn. b.Đối với giáo viên: - Đọc lại những “lời phê”, tôi thấy bản thân mình cũng rất hứng thú, yêu nghề và yêu quí các em thêm. Có em phê ngắn nhưng rất chân thành, xác đáng. - Cung cấp nhiều hơn cho tôi những thông tin "liên hệ ngược ngoài”, thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của cả học sinh “làm bài” và “chấm bài”, giúp tôi điều chỉnh hoạt động dạy cho tốt hơn. 2. Khó khăn: - Một số ít học sinh do biết điểm không lấy để đánh giá kết quả học tập của mình nên “chây lười” làm bài qua loa. Giáo viên phải có biện pháp: bài nào viết ngắn quá, điểm thấp quá (sau khi giáo viên kiểm tra lại), sẽ cho điểm trừ vào cột 15’. - Một số học sinh năng lực kém, không đủ sức nhận ra khuyết điểm và hạn chế trong bài làm của bạn để ghi lời phê, ghi sơ sài. Thậm chí, có vài “giám khảo” ngán ngại khi phải “phê” và “cho điểm” bạn - Một số bài của học sinh khá giỏi, viết tốt nên người chấm khó ghi lời phê (vì thông thường các em chú ý phát hiện lỗi nhiều hơn là ưu điểm). - Có những học sinh kĩ năng viết chính tả và kiến thức ngữ pháp chưa vững nên chưa phát hiện được lỗi cú pháp, hoặc sửa lỗi chính tả “đúng thành sai” gây 19
- nên những tràng cười cho lớp. Để khắc phục tình trạng này, tôi đi vòng quanh lớp trong lúc các em chấm bài để trả lời rất nhiều thắc mắc của “giám khảo”. - Lúc đầu, tôi phân “cặp chấm” (hai em chấm chung hai bài) để rèn kĩ năng tương tác và để các em học hỏi lẫn nhau, nhận xét và cho điểm khách quan hơn, nhưng thường thì em nào tư duy “trội” hơn sẽ chủ động, do tâm lí lứa tuổi hay tự ái nên em còn lại rơi vào thế bị động, hai bài đó cuối cùng chỉ có một người chấm. Cho nên tôi đổi chiến thuật, cho mỗi em chấm một bài để các em tự tin và chịu trách nhiệm về bài chấm của mình. - Phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải tốn thêm thời gian và công sức, bởi vì muốn thu được hiệu quả thực sự, giáo viên phải kiểm tra lại: đọc lại bài, đối chiếu lại với lời phê và điểm số của người chấm để ghi lại nhận xét cho cả “người viết” và “người chấm” rút kinh nghiệm. Công đoạn này vất vả hơn so với việc giáo viên tự chấm các bài viết chính thức. Tuy nhiên, giáo viên có thể chỉ kiểm tra xác suất, kiểm tra bài nào nhận xét cụ thể bài đó rồi nhận xét trước lớp, tôi thấy cũng có hiệu quả. 3. Kết quả: SKKN này tôi chính thức áp dụng từ năm học 2010-2011 TỈ LỆ HS ĐỖ TỐT NGHIỆP NĂM HỌC 2010-2011 MÔN NGỮ VĂN 2008-2009 2009-2010 2010-2011 Tỉ lệ Tỉnh 42.21% 56.21% 78.51% Cá nhân 51.74% 57.47% 86.5% CHẤT LƯỢNG BÀI VIẾT Ở HỌC KÌ I NĂM HỌC 2011-2012 12B7 12B8 12B9 Trên TB Dưới TB Trên TB Dưới TB Trên TB Dưới TB BV 1 74.2% 25.8% 33.3% 66.7% 68.8% 31.2% BV 2 80.6% 19.4% 58.3% 41.7% 78.1% 21.9% 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Một số hoạt động ngoài giờ lên lớp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
9 p | 1998 | 267
-
SKKN: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 của trường THPT U Minh Thượng hiện nay
17 p | 482 | 91
-
SKKN: Một số giải pháp quản lý - chỉ đạo hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học
25 p | 582 | 78
-
SKKN: Kỹ năng thiết kế hoạt động Đội tại Liên đội trường THCS Hiền Lương
17 p | 483 | 35
-
SKKN: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện tốt văn hóa công sở thông qua họat động giao tiếp trong trường học hiện nay
15 p | 200 | 33
-
SKKN: Một số biện pháp trong công tác quản lý nhằm đem lại hiệu quả về hoạt động ngoại khóa đối với học viên tại Trung tân Giáo dục thường xuyên huyện Văn Bàn hiện nay
20 p | 186 | 32
-
SKKN: Nghiên cứu một số vấn đề cơ bản lý thuyết Đồng diễn Thể dục nhằm thực hiện tốt các hoạt động Đồng diễn cho trường THPT Thống Nhất B
31 p | 260 | 31
-
SKKN: Một vài giải pháp nâng cao tay nghề giáo viên thông qua hoạt động dự giờ thăm lớp ở trường THCS Tân Thiềng
21 p | 217 | 27
-
SKKN: Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có hiệu quả của Hiệu trưởng
28 p | 176 | 18
-
SKKN: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Âm nhạc ngoại khoá ở Trường THCS
20 p | 46 | 6
-
SKKN: Tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh lớp 2 theo mô hình VNEN
21 p | 47 | 5
-
SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng trong việc tổ chức hoạt động góc cho trẻ 5-6 tuổi tại lớp lá 2 trường mầm non Ea Na
31 p | 60 | 5
-
SKKN: Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin gây hứng thú cho trẻ 5-6 tuổi vào hoạt động làm quen chữ cái
7 p | 86 | 4
-
SKKN: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện tốt công tác tổ chức các hoạt động giao lưu, khám phá, trải nghiệm cho trẻ trong trường mầm non có diện tích nhỏ
10 p | 100 | 4
-
SKKN: Chỉ đạo thực hiện một số kỹ năng quan sát hoạt động học tập của học sinh ở trường Tiểu học Năm học 2016-2017
20 p | 53 | 3
-
SKKN: Một số kinh nghiệm tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp đạt hiệu quả ở trường Tiểu học có học sinh Dân tộc thiểu số
27 p | 104 | 3
-
SKKN: Một số giải pháp quản lý hoạt động học của học sinh khối 2, 3 tại trường Tiểu học Tình Thương
24 p | 49 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn