Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
<br />
I. Phần mở đầu<br />
I.1. Lí do chọn đề tài<br />
Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc giúp <br />
học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một phân môn mang tính trừu <br />
tượng trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn có <br />
hiệu quả cao tức là người giáo viên đã xâu chuỗi kiến thức từ các phân môn: Tập <br />
đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Chính vì thế mà phân môn tập làm văn có tính <br />
chất tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt. Trong <br />
chương trình tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của môn Tiếng Việt là hình thành <br />
và phát triển cho học sinh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt ở lớp 3, <br />
phân môn tập làm văn rèn cả bốn kỹ năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ tập <br />
làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, <br />
viết); xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó <br />
học sinh còn tập kể lại những mẩu chuyện được nghe thầy, cô kể trên lớp. Bên <br />
canh đó qua từng nội dung bài dạy, phân môn tập làm văn còn bồi dưỡng thái độ <br />
ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm <br />
lành mạnh tốt đẹp cho học sinh. <br />
Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con <br />
người thực hiện quá trình tư duy – chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình <br />
cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao <br />
động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói ngôn bản và dưới dạng viết văn bản) giữ vai <br />
trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học sinh nói <br />
đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc rất lớn <br />
vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói <br />
riêng.<br />
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học, đòi hỏi người thầy phải biết vận <br />
dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho <br />
phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh (HS) để giờ <br />
học diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải <br />
có nghệ thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình <br />
huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến thức <br />
bài học. Đối với phân môn Tập làm văn, để thực hiện được điều đó càng khó <br />
hơn. Qua thực tế giảng dạy học sinh lớp 3, tôi thấy hầu như học sinh rất lúng <br />
túng, chưa biết cách vận dụng để làm các dạng bài Tập làm văn. Từ đó, tôi đã tìm <br />
cách để hướng dẫn học sinh phương pháp học tập để học tốt phân môn Tập làm <br />
văn với dạng bài: “Kể hay nói, viết về một chủ đề”. Từ thực tế vận dụng, tôi <br />
tổng hợp thành kinh nghiệm : "Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng <br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 1<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
cao chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 3" với dạng bài “Kể hay nói, viết <br />
về một chủ đề” với hi vọng trao đổi với đồng nghiệp về các phương pháp giảng <br />
dạy phân môn Tập làm văn dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, nhằm <br />
làm tốt hơn vai trò giảng dạy, giúp học sinh dễ dàng hơn trong khi làm các bài tập <br />
dạng này.<br />
<br />
<br />
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br />
* Mục tiêu<br />
Việc dạy cho học sinh nắm được cách kể hay nói, viết về một chủ đè có <br />
hiệu quả trong phân môn Tập làm văn ở lớp Ba là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề <br />
này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để <br />
biết làm bài văn kể hay nói, viết về một chủ đề cho trước có hiệu quả. Giúp học <br />
sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục tiêu nghiên cứu trong đề tài <br />
này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:<br />
Tìm hiểu các bài nói, viết về một chủ đề có trong chương trình tập làm <br />
văn lớp 3.<br />
Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn <br />
Tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh khi lam các bài tập dạng bài Kể hay nói, <br />
viết về một chủ đề.<br />
* Nhiệm vụ<br />
Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp hợp lí nhằm nâng cao hiệu quả giờ học <br />
Tập làm văn ở lớp 3 với dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề.<br />
I.3. Đối tượng nghiên cứu<br />
Học sinh lớp 3 năm học 2011 – 2012 đến năm học 2014 – 2015.<br />
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu<br />
Nghiên cứu một số biện pháp giúp học sinh có thể làm tốt các bài tập dạng <br />
bài Kể hay nói, viết về một chủ đề trong phân môn Tập làm văn lớp 3.<br />
Thời gian thực hiện đề tài bắt đầu thực hiện từ tháng 8 năm 2011 đến nay.<br />
I.5. Phương pháp nghiên cứu<br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 2<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.<br />
2 Phương pháp phân tích, tổng hợp.<br />
3 Phương pháp điều tra, khảo sát<br />
4 Phương pháp luyện tập, thực hành<br />
5 Phương pháp trao đổi, tranh luận.<br />
II. Phần nội dung<br />
II.1. Cơ sở lí luận<br />
Tiếng Việt lớp 3 được học trong 35 tuần, học kì I có 18 tuần, học kì II có 17 <br />
tuần, mỗi tuần học 8 tiết, riêng phân môn Tập làm văn mỗi tuần học sinh được <br />
học 1 tiết. Các tiết Tập làm văn đều được sắp xếp ở cuối mỗi tuần học, bởi vì <br />
đây là phân môn tích hợp của các phân môn khác trong môn Tiếng Việt.<br />
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng <br />
Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng tổng <br />
hợp từ nhiều phân môn khác như: Học Vần, Tâp viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ <br />
và câu… Để làm được một bài văn học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng: “ Nghe, <br />
nói, đọc, viết “. Phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt, về cuộc sống thực <br />
tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập văn bản, <br />
trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng <br />
Việt trong đời sống sinh hoạt. Bài tập làm văn là nơi thể hiện rõ nhất năng lực, kĩ <br />
năng, kiến thức của học sinh. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng <br />
hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội <br />
dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy <br />
Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp <br />
của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Điều này <br />
đòi hỏi phân môn Tập làm văn phải có nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất là giúp cho <br />
học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài có ý thức nắm được cách viết và cách nói <br />
sáng tạo các văn bản theo nhiều phong cách khác nhau. Thứ hai là phân môn này góp <br />
phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy, trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh <br />
thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp; qua nội dung <br />
bài dạy, hình thành nhân cách cho học sinh. Còn nhiều nhiêm vụ khác nữa nhưng tôi <br />
chỉ nêu hai nhiệm vụ tôi coi là quan trọng nhất. Tóm lại: Dạy phân môn Tập làm văn <br />
theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động học tập, biết <br />
diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản. <br />
II.2. Thực trạng <br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 3<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
a. Thuận lợi, khó khăn<br />
* Thuận lợi về phía giáo viên<br />
Đặc trưng phân môn Tập làm văn là hình thành và rèn luyện cho học sinh <br />
khả năng trình bày văn bản nói (viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Để thực hiện <br />
mục tiêu đó, mỗi giáo viên không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp và hình <br />
thức tổ chức dạy học để giúp học sinh nắm được kiến thức, nói (viết) được đoạn <br />
văn theo yêu cầu.<br />
Giáo viên luôn quan tâm chăm sóc học sinh trong từng tiết học, nghiên cứu <br />
nội dung bài dạy, lựa chọn các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với mỗi <br />
đối tượng học sinh.<br />
Qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua bồi dưỡng chuyên môn <br />
thường xuyên, giáo viên luôn được tiếp cận với những phương pháp day học đổi <br />
mới, phát <br />
huy tính tích cực sáng tạo của học sinh.<br />
* Thuận lợi về phía học sinh<br />
Ở lứa tuổi học sinh lớp 3, các em rất thích tìm tòi, học hỏi.<br />
Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn <br />
nói riêng rất phong phú. Sách giáo khoa kênh chữ rõ ràng, các câu hỏi sát thực; <br />
kênh hình được trình bày đẹp phù hợp tâm lí lứa tuổi.<br />
Học sinh đã được làm quen kĩ năng tạo lập văn bản ở các lớp dưới. Đây là <br />
cơ sở giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.<br />
* Khó khăn về phía giáo viên<br />
Trong giảng dạy phân môn Tập làm văn, khi rèn kĩ năng nói, viết cho học <br />
sinh giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu từng bài dạy, lựa chọn các phương <br />
pháp phù hợp với đối tượng học sinh nhưng sự đầu tư chưa sâu, hầu hết chỉ dựa <br />
vào sách giáo viên nên hiệu quả môn dạy chưa cao.<br />
Một số đề bài chưa thực sự gần gũi với học sinh như kể về một ngày hội, <br />
viết tin thể thao… thiếu thực tế nếu giáo viên chỉ nói suông thì học sinh không <br />
hiểu, không nắm bắt được nên hiệu quả chưa cao.<br />
Việc tổ chức giờ học trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn ngôn <br />
ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin <br />
trong học tập.<br />
* Khó khăn về phía học sinh<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 4<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
Môn tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại làm văn, lười suy <br />
nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, viết bài sơ sài. Cách dùng từ <br />
đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý, chưa có sự sáng tạo. Hầu hết học <br />
sinh chỉ trả lời hay viết đúng theo câu hỏi gợi ý.<br />
Đây là những vấn đề nan giải đòi hỏi người giáo viên phải có biện pháp <br />
thích hợp để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn.<br />
b. Thành công, hạn chế<br />
b.1. Đối với học sinh<br />
Khi tôi vận dụng các biện pháp này trong giờ dạy Tập làm văn, học sinh <br />
buộc phải có sự tư duy động não suy nghĩ vấn đề mà giáo viên nêu ra, tìm tòi các <br />
từ ngữ, hình ảnh phù hợp với chủ đề trong bài nói, viết. Học sinh phải sắp xếp ý, <br />
hình ảnh phù hợp sau đó sắp xếp câu để thành đoạn văn phù hợp chủ đề. Tóm lại <br />
biện pháp này giúp học sinh học tập rất tích cực, hiệu quả.<br />
Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Qua kiểm <br />
tra, chất lượng các bài văn của học sinh nâng lên rõ rệt. Bài Tập làm văn dạng Kể <br />
hay nói, viết về một chủ đề đã có những ý tưởng độc lập, sáng tạo, có màu sắc <br />
riêng; một số em còn có những ý tưởng độc đáo, mới lạ. Hầu hết học sinh đã biết <br />
nói (viết) một đoạn văn ngắn theo chủ đề, diễn đạt khá lưu loát, trôi chảy.<br />
Ở các tiết học Tập làm văn, khi đã làm quen với cách học này, học sinh <br />
mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập cũng như giao tiếp nhất là đối với những học <br />
sinh trung bình và yếu.<br />
Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn ở lớp 3, giờ học <br />
không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực hành giao tiếp <br />
cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả, chất <br />
lượng phân môn Tập làm văn và môn Tiếng Việt nói chung được nâng lên rõ rệt.<br />
b.2. Đối với giáo viên<br />
Khi dạy các bài tập dạng này, giáo viên hoàn thành mục tiêu bài dạy, không <br />
còn cảm thấy áp lực vì học sinh đã viết được đoạn văn theo yêu cầu dễ dàng hơn.<br />
b.3. Hạn chế<br />
Phương pháp này yêu cầu người giáo viên phải tổng hợp được kiến thức từ <br />
các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, đòi hỏi giáo viên phải có kĩ năng phân <br />
tích, tổng hợp, tóm lại phải nắm chắc nội dung chương trình của môn Tiếng Việt <br />
lớp 3.<br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 5<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
c. Mặt mạnh, mặt yếu<br />
Giúp cho học sinh nói (viết) được đoạn văn đúng chủ đề theo yêu cầu của đề <br />
bài.<br />
Học sinh phải nắm được các từ ngữ thuộc chủ đề, mạnh dạn trình bày ý <br />
kiến của bản thân.<br />
d. Nguyên nhân<br />
Nguyên nhân thành công: Bản thân tích cực tìm tòi học hỏi, nghiên cứu kĩ <br />
chương trình, sách giáo khoa và kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm. Đặc biệt có <br />
sự quan tâm của đồng nghiệp, của lãnh đạo nhà trường trong việc giúp đỡ bản <br />
thân trong công tác chuyên môn.<br />
Nguyên nhân hạn chế: Một số giáo viên chưa tổng hợp được kiến thức <br />
trong quá trình giảng dạy, chưa thực sự quan tâm đến chất lượng học sinh nói <br />
chung và chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng.<br />
e. Phân tích, đánh giá về các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra<br />
Vậy làm thế nào để thực hiện được mục tiêu dạy học của môn Tập làm văn, <br />
khắc phục thực trạng học Tập làm văn như đã nói trên? Nhà xuất bản Giáo dục <br />
Việt Nam đã phát hành bộ sách Hướng dẫn dạy Tiếng Việt lớp 3 dành cho giáo <br />
viên. Người giáo viên có thể lấy đó làm cơ sở để tham khảo, tiến hành thiết kế <br />
bài giảng Tập làm văn của lớp mình phụ trách. Tuy nhiên, sách giáo viên (SGV) <br />
khi hướng dẫn dạy dạng bài Kể hay nói, viết về một chủ đề hầu hết chỉ hướng <br />
dẫn theo một cách, dẫn đến GV thụ động kiến thức ở SGK, SGV mà ít tìm tòi <br />
đọc thêm tài liệu khác liên quan đến giảng dạy đặc biệt là khi dạy Tiếng Việt nên <br />
ngôn ngữ của giáo viên còn hạn hẹp, bí từ. Khi tổ chức các hoạt động trong giờ <br />
học, một số giáo viên chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm nên hình <br />
thức tổ chức dạy còn dàn trải, chưa có sự liên kết giữa các hoạt động. Một số <br />
giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học và <br />
hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một quy trình <br />
áp đặt rập khuôn đã hướng dẫn trong SGV.<br />
Một số đề bài trong Sách giáo khoa còn thiếu thực tế, xa rời vốn sống của <br />
học sinh. Khi làm bài, các em chỉ dựa vào các hình ảnh, tư liệu mà giáo viên cung <br />
cấp nên bài viết còn sơ sài, chưa có sự sáng tạo.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 6<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
Do cách tổ chức giờ học còn nhàm chám, rập khuôn nên trong giờ Tập làm <br />
văn, đa số học sinh chỉ trả lời câu hỏi theo gợi ý mà ít chịu tìm tòi các chi tiết, hình <br />
ảnh phù hợp chủ đề, dẫn đến nói, viết bài Tập làm văn cho có, lấy lệ.<br />
II.3. Giải pháp, biện pháp<br />
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp<br />
Sử dụng mạng ý nghĩa, bản đồ tư duy để giúp học sinh tìm kiếm và phát <br />
triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn dạng “Kể hay <br />
nói, viết về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, tạo cho các em có sự liên tưởng các <br />
chi tiết hình ảnh trong cùng một chủ đề, biết sắp xếp các chi tiết hình ảnh ấy tạo <br />
thành một ngôn bản (nói) hay văn bản (viết). Từ đó, có sự mạnh dạn tự tin trong <br />
học tập cũng như trong giao tiếp.<br />
b. Nội dung, cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp<br />
b.1. Nội dung các bài tập làm văn trong Chương trình Lớp 3 dạng “Kể hay <br />
nói, viết theo chủ đề”.<br />
<br />
Tuần Yêu cầu Chủ điểm<br />
<br />
6 Kể về buổi đầu em đi học Tới trường<br />
<br />
8 Kể về người hàng xóm Cộng đồng<br />
<br />
11 Nói về quê hương Quê hương<br />
<br />
16 Nói về thành thị, nông thôn Thành thị và <br />
nông thôn<br />
<br />
17 Viết về thành thị, nông thôn Thành thị và <br />
nông thôn<br />
<br />
21 Nói về trí thức Sáng tạo<br />
<br />
22 Nói, viết về người lao động trí óc Sáng tạo<br />
<br />
23 Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật Nghệ thuật<br />
<br />
25 Kể về lễ hội Lễ hội<br />
<br />
26 Kể về một ngày hội Lễ hội<br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 7<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
<br />
28 Kể lại trận thi đấu thể thao Thể thao<br />
<br />
29 Viết về một trận thi đấu thể thao Thể thao<br />
<br />
31 Thảo luận về bảo vệ môi trường Bầu trời và <br />
mặt đất<br />
<br />
32 Nói, viết về bảo vệ môi trường Bầu trời và <br />
mặt đất<br />
<br />
Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn <br />
đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề thuộc các chủ điểm của môn học: Nói, viết <br />
về thành thị hoặc nông thôn thuộc chủ điểm Thành thị và Nông thôn; Kể về gia <br />
đình thuộc chủ điểm Mái ấm; Kể về một buổi thi đấu, kể về lễ hội, …<br />
Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng <br />
đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết <br />
minh và phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được <br />
tiến hành theo một trình tự như sau:<br />
Giáo viên giới thiệu bài:<br />
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:<br />
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập<br />
+ GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu <br />
hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.<br />
+ Một học sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét<br />
Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).<br />
Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.<br />
Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.<br />
Trình tự dạy học như vậy bài nào cũng giống bài nào, dẫn đến sự nhàm chán, <br />
thiếu sự sáng tạo và không tích hợp được các phân môn học khác của môn Tiếng <br />
Việt.<br />
Khi dạy dạng đề này, ngoài phương án được nêu trên (trong sách giáo viên), <br />
tôi đã tham khảo một số kinh nghiệm trên mạng internet của đồng nghiệp và của <br />
chính bản thân, trước hết là nghiên cứu dạy thật tốt các phân môn khác trong môn <br />
Tiếng Việt, sau đó sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ tư duy để giúp học sinh tìm <br />
kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn <br />
dạng “Kể hay nói, viết về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, giúp cho các em dựa <br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 8<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
vào mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, có thể nói (viết) thành đoạn văn theo yêu <br />
cầu đề bài một cách dễ dàng hơn, tạo sự mạnh dạn tự tin trong học tập.<br />
b.2. Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp<br />
b.2.1. Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học”<br />
Trước tiên tôi thực hiện hình thành “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp <br />
học sinh có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi sử dung mạng ý nghĩa hay bản <br />
đồ tư duy mà tôi trình bày ở phần sau.<br />
+ Thu thập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước.<br />
+ Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới <br />
thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.<br />
+ Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu thập <br />
danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa.<br />
+ Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay <br />
trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu.<br />
b.2.2. Sử dụng “Mạng ý nghĩa”:<br />
Sử dụng “Mạng ý nghĩa” như là sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện <br />
pháp dạy học cụ thể. Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức cho <br />
học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm <br />
văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết <br />
của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn <br />
mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi <br />
học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như <br />
những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học <br />
trong SGK. <br />
*Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:<br />
Hoạt động 1: Tìm hiểu đề<br />
Trong hoạt động này, học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong <br />
trí nhớ để xác định đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề. <br />
Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là <br />
chúng.<br />
<br />
Để thực hiện hoạt động này tôi sử dụng một trong các hình thức sau:<br />
GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm mắt nghĩ về đối tượng,<br />
Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài.<br />
<br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 9<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
Kể một mẩu chuyện nhỏ liên quan đến đề bài, kết hợp đặt câu hỏi hướng <br />
học sinh đến đề tài.<br />
Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học <br />
sinh tự sưu tầm.<br />
Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung <br />
cấp) liên quan đến đề tài.<br />
Sử dụng mô hình (khung ngôi nhà, khung ngôi trường ...). Trên nền khung <br />
giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào.<br />
Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm <br />
của học sinh.<br />
Hoạt động 2: Tìm ý <br />
Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ <br />
đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy. <br />
Khi tiến hành hoạt động này tôi thực hiện theo các bước sau:<br />
Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát <br />
triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh <br />
nghiệm riêng, vốn sống thực tế của các em. Ví dụ đối với văn miêu tả, câu hỏi <br />
có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì? <br />
Em cảm thấy gì?...<br />
Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh <br />
suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được <br />
trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo nội dung từng bài : Bông hoa, <br />
chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá...<br />
Đối với học sinh khá giỏi hay học sinh đã quen với việc sử dụng mạng, <br />
giáo viên nên để các em tự nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống <br />
câu hỏi hoàn chỉnh.<br />
Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. Giáo <br />
viên tuyệt đối tránh viết chốt lại một số từ về đề bài. Cần xoá đi những ý đã <br />
được ghi lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá nhân <br />
trong phiếu học tập thì trên bảng chỉ còn lại khung mạng trống. <br />
Hoạt động 3: Lập dàn ý : Sắp xếp ý đã có trong mạng. <br />
Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự <br />
chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tính chất mở (đoạn văn miêu tả <br />
thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu <br />
tả chi tiết, cụ <br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 10<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
<br />
<br />
thể thì nói sau).<br />
Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.<br />
Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để <br />
cả lớp theo dõi. Ngoài khung mạng làm mẫu, GV vẽ sẵn trên bảng các mạng <br />
tương tự và che chúng lại. Sau khi HS đã tìm ý và hình thành mạng ý nghĩa trong <br />
phiếu bài tập, giáo viên cho một số em lên thể hiện lại ý của mình vào các khung <br />
mạng trên bảng.<br />
Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới <br />
dạng nói hay viết <br />
Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của <br />
mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi là <br />
tốt nhất.<br />
Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ ngữ <br />
xoay quanh mạng ít nhất một câu.<br />
Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:<br />
Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức <br />
trao đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội <br />
dung và thể loại của đề bài .<br />
Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo <br />
hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa). Giáo viên theo dõi giúp đỡ chung.<br />
Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn <br />
chỉnh.<br />
*Ví dụ minh họa<br />
Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2TV3 Tập1 Tr92)<br />
1. Chuẩn bị: <br />
Phiếu học tập<br />
a..Hoàn thành bảng dưới đây<br />
<br />
Tên bài đọc Quê hương là... Chi tiết làm em xúc động nhất<br />
Giọng quê ...................................... ..............................................................<br />
hương ...................................... ..............................................................<br />
Quê hương ..................................... ...............................................................<br />
..................................... ..............................................................<br />
Đất quý, đất yêu ..................................... .............................................................<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 11<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
..................................... .............................................................<br />
Vẽ quê hương ..................................... ...............................................................<br />
..................................... ..............................................................<br />
<br />
<br />
b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất <br />
đồng ý.<br />
Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:<br />
Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.<br />
Là nơi mình sinh ra và lớn lên.<br />
Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.<br />
Là nơi mà khi xa mình thấy nhớ thương.<br />
c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:<br />
Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì <br />
đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?<br />
2. Cách tiến hành<br />
Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý <br />
tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh <br />
hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)<br />
GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu <br />
kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài <br />
tập. Giới thiệu nội dung chủ đề “Nói về quê hương”.<br />
Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong <br />
khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà <br />
mình đang nghĩ tới.<br />
GV treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để <br />
kích thích học sinh hồi tưởng.<br />
HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bảng phụ ghi vào <br />
khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của <br />
mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)<br />
Ví dụ: <br />
Vườn cây công viên thành phố yêu<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 12<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
con sông Quê hương em bờ đê, bãi cỏ <br />
<br />
<br />
nông thôn đường phố nhà cao tầng<br />
Hoạt động 3: HS đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, GV hướng <br />
dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.<br />
GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS trung bình và yếu để giúp các em <br />
điều <br />
<br />
chỉnh.<br />
Chẳng hạn với ví dụ trên, học sinh có thể đánh số thứ tự như sau:<br />
vườn cây (4) công viên (4) thành phố (1) yêu (5)<br />
<br />
<br />
<br />
con sông (2) Quê hương em bờ đê, bãi cỏ (3) <br />
<br />
<br />
nông thôn (1) đường phố (3) nhà cao tầng (2)<br />
<br />
Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói <br />
Cho hai em nói mẫu trước lớp . <br />
Ví dụ : Quê hương em thuộc một vùng nông thôn yên bình. Ở đó có cây đa <br />
cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em <br />
là con sông quê hương uốn lượn quanh làng. Ven sông là bờ đê với bãi cỏ xanh <br />
mượt, những chú trâu béo tròn đang ung dung gặm cỏ. Em rất thích tắm mình <br />
dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình.<br />
Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà <br />
cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em <br />
thường được bố mẹ dẫn đi chơi công viên, được ngồi trên cái ghế đá mát rượi. <br />
Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.<br />
Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.<br />
Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc <br />
biệt lưu ý giúp học sinh yếu.<br />
Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 13<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp (không nhìn mạng ý nghĩa). <br />
Nếu là học sinh yếu, có thể cho học sinh nhìn mạng để nói.<br />
Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến <br />
khích HS tự tìm đặt và trả lời thêm câu hỏi mở rộng. Chẳng hạn: Quê em có gì <br />
đặc biệt? Em mơ ước gì về quê hương của mình? GV nhận xét chung.<br />
Ví dụ 2: Dạy bài : Kể về gia đình (BT1TV3 tập1 tr 28) <br />
Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói : Kể được <br />
một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.<br />
1.Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì? Tính <br />
tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình?<br />
2.Cách tiến hành <br />
<br />
Hoạt động 1:<br />
Cho HS đọc yêu cầu bài tập, GV giúp HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể <br />
về gia đình mình cho bạn mới quen biết.<br />
Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình và viết ra bất kỳ những từ <br />
ngữ nào liên quan đến gia đình mình.<br />
Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. HS đọc thầm và hồi tưởng.<br />
HS làm vào giấy nháp. GV gọi đồng thời hai em làm vào bảng phụ, ghi vào <br />
khung chủ đề cụm từ “gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của <br />
mình có được xung quanh chủ đề đó.<br />
Ví dụ: <br />
Làm ruộng anh, chị học sinh <br />
<br />
<br />
Ông, bà Gia đình mình bố, mẹ<br />
<br />
<br />
Yêu thương em hạnh phúc<br />
<br />
Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự <br />
1,2,3...<br />
Chẳng hạn có thể đánh số thứ tự như sau: <br />
Làm ruộng anh, chị (3) học sinh (4) <br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 14<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
<br />
<br />
Ông, bà (1) Gia đình mình bố, mẹ (2)<br />
<br />
<br />
Yêu thương (5) em (3) hạnh phúc (6)<br />
<br />
GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các <br />
em điều chỉnh.<br />
Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói<br />
GV gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.<br />
Ví dụ : Gia đình mình có 6 người : Ông bà, bố mẹ tớ, anh Hà và tớ. Ông bà <br />
mình đã lớn tuổi rồi. Bố mẹ tớ đều ở nhà làm ruộng. Anh Hà là học sinh lớp 7. <br />
Ông bà mình rất hiền, thường kể chuyện cho mình nghe. Mẹ mình luôn bận bịu <br />
với việc nhà, vì thế mình yêu mẹ lắm. Lúc nào rảnh việc học, mình lại giúp đỡ <br />
bố mẹ. Gia <br />
<br />
đình mình rất hạnh phúc.<br />
Cả lớp nhận xét, GV sửa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu có sai sót).<br />
b.2.3. Sử dụng “Bản đồ tư duy”:<br />
Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp <br />
3, tôi sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa. Bản đồ tư duy là một <br />
phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập làm văn, người giáo <br />
viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của <br />
từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư duy cần phải đảm bảo đúng <br />
kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh <br />
tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn.<br />
Ví dụ khi dạy đề bài: Nói, viết về người lao động trí óc (BT1, 2 TV3 <br />
Tập 2 – Tr38), các bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồ tư <br />
duy như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 15<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu (các từ ngữ phục vụ <br />
cho đề bài) để hoàn thành bài nói về người lao động trí óc dễ dàng hơn. <br />
Ví dụ 1: Cô em là bác sĩ làm việc tại bệnh viện huyện. Hằng ngày, cô đều <br />
đến bệnh viện miệt mài với công việc của mình. Mỗi khi khám bệnh, cô ân cần <br />
hỏi han người bệnh về tình trạng bệnh tật. Ai cũng khen cô khám bệnh rất giỏi, <br />
kê đơn phát thuốc uống là khỏi ngay. Mọi người rất yêu quý cô. Em thật tự hào <br />
về cô của em.<br />
Ví dụ 2: Em muốn kể về cô giáo đang dạy lớp 3 của em. Hàng ngày, cô lên <br />
lớp dạy chúng em học, bài nào chưa hiểu, cô tìm mọi cách để giảng giải, hướng <br />
dẫn chúng em đến hiểu thì thôi. Cô thu từng chồng vở tập làm văn của chúng em <br />
mang về, em đoán rằng cô chắc phải thức cả đêm để chấm bài, để sửa từng câu <br />
chữ cho chúng em. Rồi cô còn soạn bài cho buổi học ngày mai…Cô là một người <br />
giáo viên tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu. Nhớ ơn cô, chúng em luôn chăm <br />
chỉ học tập để cô vui lòng.<br />
Hoặc khi dạy bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật (BT1, 2 TV3 <br />
tậpII tr 48), giáo viên thực hiện các bước như sau: <br />
Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu <br />
của bài tập: Kể về buổi biếu diễn nghệ thuật (Hoặc buổi biểu diễn văn nghệ ở <br />
trường em).<br />
Học sinh tập trung động não nghĩ về buổi biểu diễn và viết ra bất kỳ <br />
những từ ngữ nào liên quan đến buổi biểu diễn.<br />
Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh <br />
biết một số từ ngữ liên quan đến biểu diễn nghệ thuật. Học sinh nhìn bản đồ tư <br />
duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng.<br />
<br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 16<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
Yêu cầu học sinh từ một từ trong bản đồ, viết ít nhất một câu về chủ đề <br />
biểu diễn nghệ thuật.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Học sinh ghi vào giấy nháp về buổi biểu diễn.<br />
Giáo viên gọi một vài em kể về buổi biểu diễn cho cả lớp nghe. <br />
Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.<br />
Chẳng hạn: Chủ nhật tuần trước em được bố mẹ cho đi xem xiếc. Mở mà là <br />
tiết mục đu dây của một cặp diễn viên nam nữ. Họ thật là dũng cảm khi đu trên <br />
sợi dây tít trên cao. Sau đó là tiết mục xiếc thú: nào khỉ đi xe đap, chó làm toán, voi <br />
đá bóng… tiết mục nào cũng thật là hấp dẫn. Em thích nhất là tiết mục biến giấy <br />
thành hoa, thành chim bồ câu. Người diễn viên thật khéo léo trong khi biểu diễn. <br />
Em rất thán phục các diễn viên biểu diễn trong ngày hôm đó.<br />
Hoặc: Cứ đến 20/11 hằng năm, trường em lại tổ chức đem văn nghệ chào <br />
mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Đúng 7 giờ thì khai mạc buổi biểu diễn. Sau đó là <br />
lần lượt tiết mục của các lớp. Bạn Hồng Nhung lớp 3D với tiết mục hát đơn ca <br />
“Bông hồng tặng cô” mượt mà, tình cảm. Tiết mục kể chuyện “Bác Hồ đến thăm <br />
trại nhi đồng” của em Thanh Thùy lớp 2C thật truyền cảm, xúc động. Em thích <br />
nhất là tiết mục tam ca “Tiếng hát bạn bè mình” của lớp em. Các bạn vừa hát, <br />
vừa biểu diễn rất chuyên nghiệp. Rồi còn các tiết mục múa của các em lớp một <br />
thật uyển chuyển, dễ thương. Thật là một buổi biểu diễn đầy ý nghĩa để dânh <br />
tặng các thầy cô.<br />
*Lưu ý: Học sinh lớp Ba tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ <br />
phục vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được bản đồ tư duy hoàn <br />
chỉnh. Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, tôi chuẩn bị bản <br />
đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa sẵn, sau khi hướng dẫn xong thì có thể xóa đi <br />
và yêu cầu học sinh áp dụng vào để tự làm bài. Đối với những học sinh khá giỏi, <br />
tôi hướng dẫn các em vẽ bản đồ tư duy trong một số bài học nhưng không yêu <br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 17<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản đồ tư duy phục vụ cho <br />
bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành, tránh <br />
tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra. <br />
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp<br />
Để thực hiện được các biện pháp trên, mỗi giáo viên phải là người nắm <br />
chắc kiến thức, hiểu rõ những điều mà đề bài yêu cầu; là người tổng hợp được <br />
kiến thức các môn học để giúp học sinh nhanh chóng hiểu và làm theo yêu cầu <br />
của mỗi đề bài.<br />
Mỗi học sinh phải tham gia tích cực, giàu trí tưởng tượng, vận động tư duy <br />
theo yêu cầu của giáo viên, từ đó mới nhanh chóng tìm được các từ ngữ thuộc chủ <br />
đề và hoàn thành bài nói (viết) trong thời gian quy định.<br />
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.<br />
Để thực hiện tốt các bài tập dựa vào mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, <br />
trong các tiết dạy các phân môn khác của môn Tiếng Việt như Tập đọc, Kể <br />
chuyện, Luyện từ và câu, người giáo viên phải giúp học sinh nắm được các từ <br />
ngữ thuộc chủ điểm đang học, từ đó có vốn từ phục vụ cho việc hiểu mạng ý <br />
nghĩa hay bản đồ tư duy mà giáo viên đưa ra trong tiết Tâp làm văn cuối tuần.<br />
Các biện pháp trên nên thực hiện đồng bộ, thường xuyên trong giờ dạy Tập <br />
làm văn, phối hợp với sử dụng SGV như là một đồ dùng dạy học. Ngoài ra, các <br />
biện pháp đưa ra phải phù hợp với khả năng của học sinh thì mới đạt hiệu quả <br />
cao. <br />
e. Kết quả khảo nghiệm<br />
Khảo sát đầu năm về môn Tiếng Việt, hầu hết phần viết học sinh chưa đạt <br />
điểm cao, đặc biệt là phần tập làm văn. Cụ thể:<br />
<br />
Năm học TSHS Điểm910 Điểm 78 Điểm 56 Điếm 34 Điểm 21<br />
<br />
20112012 34 3 10 16 6<br />
<br />
20122013 32 4 12 12 4<br />
<br />
20142015 28 3 12 12 1<br />
<br />
Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, cuối năm học kết quả phần viết <br />
môn Tiếng Việt như sau:<br />
<br />
Năm học TSHS Điểm910 Điểm 78 Điểm 56 Điếm 34 Điểm 21<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 18<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
<br />
20112012 34 20 8 6<br />
<br />
20122013 32 18 10 4<br />
<br />
20142015 28 17 8 3<br />
(HKI)<br />
<br />
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề <br />
nghiên cứu<br />
a. Kết quả<br />
Mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy giúp học sinh có căn cứ để hoàn thành câu, <br />
tiến tới viết đoạn, bài. <br />
Sau khi nhận lớp, tôi tiến hành khảo sát học sinh để nắm được thực trạng <br />
đầu năm. Sau đó, áp dụng các giải pháp đã nêu ở trên, chất lượng phân môn Tập <br />
làm văn được nâng lên rõ rệt. Những học sinh trước chỉ trả lời câu hỏi hoặc <br />
không biết viết gì đã có thể dựa mạng ý nghĩa để sắp xếp ý, để nói (viết) được <br />
đoạn văn hoàn chỉnh về chủ đề mà bài tập yêu cầu. Những học sinh khá, giỏi thì <br />
đã có thể tự lập được mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, viết được những đoạn <br />
văn có hình ảnh, có sự sáng tạo, có cảm xúc mà tôi giới thiệu kèm theo bài viết <br />
này. Đó là phần thưởng cho sự nỗ lực cố gắng của mỗi học sinh cũng như của <br />
bản thân tôi trong quá trình truyền dạy tri thức cho các em.<br />
b. Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu<br />
Với sự học hỏi của bản thân, sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ tư duy vào <br />
giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 3 đã giảm hẳn áp lực học tập, học sinh thoải <br />
mái, tự tin hơn khi thực hiện bài tập dạng Kể hay nói (viết) theo chủ đề. Kinh <br />
nghiệm tuy không lớn nhưng đã nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn nói <br />
riêng và môn Tiếng Việt lớp 3 nói chung.<br />
III. Phần kết luận, kiến nghị <br />
1. Kết luận<br />
Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với dạng <br />
bài tập “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, theo tôi người giáo viên phải có trách <br />
nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp <br />
thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của <br />
bản thân <br />
<br />
<br />
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 19<br />
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br />
lớp 3<br />
<br />
mình. Qua đó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học <br />
tập đúng đắn. Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình môn Tiếng <br />
Việt lớp 3, đặc biệt là các bài dạy Tập làm văn có trong chương trình để từ đó <br />
xâu chuỗi được các kiến thức cần cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy. Nghiên <br />
cứu kĩ nội dung bài dạy, xác định đúng trọng tâm của bài. Vận dụng nhiều <br />
phương pháp và hình thức dạy học khác nhau, khắc sâu kiến thức bài giảng giúp <br />
mỗi học sinh đều hiểu và làm <br />
bài tập được ngay tại lớp. Đối với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần xác định đối <br />
tượng học sinh yếu và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài <br />
để có biện pháp giúp đỡ kịp thời g