intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 3

Chia sẻ: Trần Văn Gan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

55
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu trong đề tài này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: Tìm hiểu các bài nói, viết về một chủ đề có trong chương trình tập làm văn lớp 3. Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn Tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay. Một số biện pháp hỗ trợ học sinh khi lam các bài tập dạng bài Kể hay nói, viết về một chủ đề.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 3

     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> <br /> I. Phần mở đầu<br /> I.1. Lí do chọn đề tài<br />   Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc giúp  <br /> học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một phân môn mang tính trừu <br /> tượng trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn có <br /> hiệu quả cao tức là người giáo viên đã xâu chuỗi kiến thức từ các phân môn: Tập <br /> đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Chính vì thế mà phân môn tập làm văn có tính <br /> chất tổng hợp, là kết quả  lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt. Trong <br /> chương trình tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của môn Tiếng Việt là hình thành <br /> và phát triển cho học sinh các kỹ  năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt  ở  lớp 3, <br /> phân môn tập làm văn rèn cả  bốn kỹ năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ  tập  <br /> làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói,  <br /> viết); xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó  <br /> học sinh còn tập kể  lại những mẩu chuyện được nghe thầy, cô kể  trên lớp. Bên  <br /> canh đó qua từng nội dung bài dạy, phân môn tập làm văn còn bồi dưỡng thái độ <br /> ứng xử  có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm <br /> lành mạnh tốt đẹp cho học sinh. <br />       Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con <br /> người thực hiện quá trình tư  duy – chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư  tưởng, tình <br /> cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao <br /> động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói ­ ngôn bản và dưới dạng viết ­ văn bản) giữ vai <br /> trò quan trọng trong sự  phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học sinh nói <br /> đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ  thuộc rất lớn <br /> vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói <br /> riêng.<br />    Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học, đòi hỏi người thầy phải biết vận  <br /> dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học sao cho  <br /> phù hợp với khả năng sử  dụng ngôn ngữ  và tâm lí lứa tuổi học sinh (HS) để  giờ <br /> học diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải <br /> có nghệ  thuật sư  phạm, biết dẫn dắt, gợi mở  đưa học sinh giải quyết các tình <br /> huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến thức  <br /> bài học. Đối với phân môn Tập làm văn, để  thực hiện được điều đó càng khó <br /> hơn. Qua thực tế  giảng dạy học sinh lớp 3, tôi thấy hầu như  học sinh rất lúng <br /> túng, chưa biết cách vận dụng để làm các dạng bài Tập làm văn. Từ đó, tôi đã tìm  <br /> cách để hướng dẫn học sinh phương pháp học tập để học tốt phân môn Tập làm  <br /> văn với dạng bài: “Kể  hay nói, viết về  một chủ  đề”. Từ  thực tế  vận dụng, tôi <br /> tổng hợp thành kinh nghiệm : "Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  1<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> cao chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 3" với dạng bài “Kể hay nói, viết <br /> về một chủ đề” với hi vọng trao đổi với đồng nghiệp về các phương pháp giảng  <br /> dạy phân môn Tập làm văn dạng bài “Kể  hay  nói, viết về  một chủ  đề”, nhằm <br /> làm tốt hơn vai trò giảng dạy, giúp học sinh dễ dàng hơn trong khi làm các bài tập <br /> dạng này.<br /> <br /> <br /> I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br /> * Mục tiêu<br /> Việc dạy cho học sinh nắm được cách kể  hay nói, viết về  một chủ  đè có <br /> hiệu quả trong phân môn Tập làm văn ở lớp Ba là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề <br /> này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để <br /> biết làm bài văn  kể hay nói, viết về một chủ đề cho trước có hiệu quả. Giúp học  <br /> sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục tiêu nghiên cứu trong đề tài <br /> này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:<br />    ­ Tìm hiểu các bài nói, viết về  một chủ  đề  có trong chương trình tập làm <br /> văn lớp 3.<br />    ­ Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn  <br /> Tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.<br /> ­ Một số biện pháp hỗ trợ học sinh khi lam các bài tập dạng bài Kể hay nói, <br /> viết về một chủ đề.<br />    * Nhiệm vụ<br />  Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp hợp lí nhằm nâng cao hiệu quả giờ học  <br /> Tập làm văn ở lớp 3 với dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề.<br /> I.3. Đối tượng nghiên cứu<br /> Học sinh lớp 3 năm học 2011 – 2012 đến năm học 2014 – 2015.<br /> I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu<br /> Nghiên cứu một số  biện pháp giúp học sinh có thể  làm tốt các bài tập dạng <br /> bài Kể hay nói, viết về một chủ đề trong phân môn Tập làm văn lớp 3.<br />         Thời gian thực hiện đề tài bắt đầu thực hiện từ tháng 8 năm 2011 đến nay.<br /> I.5. Phương pháp nghiên cứu<br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  2<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br />         1 ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.<br /> 2 ­ Phương pháp phân tích, tổng hợp.<br /> 3 ­ Phương pháp điều tra, khảo sát<br /> 4 ­ Phương pháp luyện tập, thực hành<br /> 5 ­ Phương pháp trao đổi, tranh luận.<br /> II. Phần nội dung<br /> II.1. Cơ sở lí luận<br /> Tiếng Việt lớp 3 được học trong 35 tuần, học kì I có 18 tuần, học kì II có 17 <br /> tuần, mỗi tuần học 8 tiết, riêng phân môn Tập làm văn mỗi tuần học sinh được <br /> học 1 tiết. Các tiết Tập làm văn đều được sắp xếp  ở  cuối mỗi tuần học, bởi vì <br /> đây là phân môn tích hợp của các phân môn khác trong môn Tiếng Việt.<br /> Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng  <br /> Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng tổng <br /> hợp từ nhiều phân môn khác như: Học Vần, Tâp viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ <br /> và câu… Để  làm được một bài văn học sinh phải sử  dụng cả  bốn kĩ năng: “ Nghe, <br /> nói, đọc, viết “. Phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt, về cuộc sống thực  <br /> tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập văn bản, <br /> trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng  <br /> Việt trong đời sống sinh hoạt. Bài tập làm văn là nơi thể  hiện rõ nhất năng lực, kĩ <br /> năng, kiến thức của học sinh. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng <br /> hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội <br /> dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy  <br /> Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ  thể  hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp  <br /> của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức ngôn ngữ  về  đời sống thực tế.  Điều này  <br /> đòi hỏi phân môn Tập làm văn phải có nhiệm vụ  cơ  bản sau: Thứ  nhất là giúp cho <br /> học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài có ý thức nắm được cách viết và cách nói <br /> sáng tạo các văn bản theo nhiều phong cách khác nhau. Thứ hai là phân môn này góp <br /> phần bổ  sung kiến thức, rèn luyện tư  duy, trau dồi thái độ   ứng xử  có văn hóa, tinh  <br /> thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp; qua nội dung  <br /> bài dạy, hình thành nhân cách cho học sinh. Còn nhiều nhiêm vụ khác nữa nhưng tôi  <br /> chỉ nêu hai nhiệm vụ tôi coi là quan trọng nhất. Tóm lại: Dạy phân môn Tập làm văn  <br /> theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động học tập, biết  <br /> diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản. <br /> II.2. Thực trạng <br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  3<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> a. Thuận lợi, khó khăn<br /> * Thuận lợi về phía giáo viên<br /> ­ Đặc trưng phân môn Tập làm văn là hình thành và rèn luyện cho học sinh  <br /> khả  năng trình bày văn bản nói (viết)  ở  nhiều thể  loại khác nhau. Để  thực hiện <br /> mục tiêu đó, mỗi giáo viên không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp và hình <br /> thức tổ chức dạy học để giúp học sinh nắm được kiến thức, nói (viết) được đoạn <br /> văn theo yêu cầu.<br /> ­ Giáo viên luôn quan tâm chăm sóc học sinh trong từng tiết học, nghiên cứu <br /> nội dung bài dạy, lựa chọn các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với mỗi  <br /> đối tượng học sinh.<br /> ­   Qua   các   phương   tiện   thông   tin   đại   chúng,   qua   bồi   dưỡng   chuyên   môn <br /> thường xuyên, giáo viên luôn được tiếp cận với những phương pháp day học đổi <br /> mới, phát <br /> huy tính tích cực sáng tạo của học sinh.<br /> * Thuận lợi về phía học sinh<br /> ­ Ở lứa tuổi học sinh lớp 3, các em rất thích tìm tòi, học hỏi.<br /> ­ Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn <br /> nói riêng rất phong phú. Sách giáo khoa kênh chữ  rõ ràng, các câu hỏi sát thực;  <br /> kênh hình được trình bày đẹp phù hợp tâm lí lứa tuổi.<br /> ­ Học sinh đã được làm quen kĩ năng tạo lập văn bản ở các lớp dưới. Đây là <br /> cơ sở giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.<br /> * Khó khăn về phía giáo viên<br /> ­ Trong giảng dạy phân môn Tập làm văn, khi rèn kĩ năng nói, viết cho học  <br /> sinh giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu từng bài dạy, lựa chọn các phương  <br /> pháp phù hợp với đối tượng học sinh nhưng sự đầu tư  chưa sâu, hầu hết chỉ dựa  <br /> vào sách giáo viên nên hiệu quả môn dạy chưa cao.<br /> ­  Một số đề bài chưa thực sự gần gũi với học sinh như kể về một ngày hội, <br /> viết tin thể  thao… thiếu thực tế  nếu giáo viên chỉ  nói suông thì học sinh không  <br /> hiểu, không nắm bắt được nên hiệu quả chưa cao.<br /> ­ Việc tổ chức giờ học trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn ngôn <br /> ngữ  vốn có của các em cũng như  chưa khơi dậy  ở  học sinh sự mạnh dạn tự tin  <br /> trong học tập.<br /> * Khó khăn về phía học sinh<br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  4<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br />   ­ Môn tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại làm văn, lười suy  <br /> nghĩ nên  ở  các giờ  học các em còn ngại phát biểu, viết bài sơ  sài. Cách dùng từ <br /> đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý, chưa có sự sáng tạo. Hầu hết học  <br /> sinh chỉ trả lời hay viết đúng theo câu hỏi gợi ý.<br /> Đây là những vấn đề  nan giải đòi hỏi người giáo viên phải có biện pháp <br /> thích hợp để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn.<br /> b. Thành công, hạn chế<br /> b.1. Đối với học sinh<br /> Khi tôi vận dụng các biện pháp này trong giờ  dạy Tập làm văn, học sinh  <br /> buộc phải có sự tư duy động não suy nghĩ vấn đề mà giáo viên nêu ra, tìm tòi các <br /> từ ngữ, hình ảnh phù hợp với chủ đề trong bài nói, viết. Học sinh phải sắp xếp ý, <br /> hình ảnh phù hợp sau đó sắp xếp câu để thành đoạn văn phù hợp chủ đề. Tóm lại  <br /> biện pháp này giúp học sinh học tập rất tích cực, hiệu quả.<br /> ­ Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Qua kiểm <br /> tra, chất lượng các bài văn của học sinh nâng lên rõ rệt. Bài Tập làm văn dạng Kể <br /> hay nói, viết về một chủ đề  đã có những ý tưởng độc lập, sáng tạo, có màu sắc  <br /> riêng; một số em còn có những ý tưởng độc đáo, mới lạ. Hầu hết học sinh đã biết  <br /> nói (viết) một đoạn văn ngắn theo chủ đề, diễn đạt khá lưu loát, trôi chảy.<br /> ­  Ở  các tiết học Tập làm văn, khi đã làm quen với cách học này, học sinh  <br /> mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập cũng như giao tiếp nhất là đối với những học <br /> sinh trung bình và yếu.<br />   ­ Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn  ở  lớp 3, giờ  học  <br /> không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực hành giao tiếp <br /> cho thấy khả  năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả, chất  <br /> lượng phân môn Tập làm văn và môn Tiếng Việt nói chung được nâng lên rõ rệt.<br /> b.2. Đối với giáo viên<br /> Khi dạy các bài tập dạng này, giáo viên hoàn thành mục tiêu bài dạy, không <br /> còn cảm thấy áp lực vì học sinh đã viết được đoạn văn theo yêu cầu dễ dàng hơn.<br /> b.3. Hạn chế<br /> Phương pháp này yêu cầu người giáo viên phải tổng hợp được kiến thức từ <br /> các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, đòi hỏi giáo viên phải có kĩ năng phân <br /> tích, tổng hợp, tóm lại phải nắm chắc nội dung chương trình của môn Tiếng Việt  <br /> lớp 3.<br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  5<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> c. Mặt mạnh, mặt yếu<br /> Giúp cho học sinh nói (viết) được đoạn văn đúng chủ đề theo yêu cầu của đề <br /> bài.<br /> Học sinh phải nắm được các từ  ngữ  thuộc chủ  đề, mạnh dạn trình bày ý <br /> kiến của bản thân.<br /> d. Nguyên nhân<br /> ­ Nguyên nhân thành công: Bản thân tích cực tìm tòi học hỏi, nghiên cứu kĩ <br /> chương trình, sách giáo khoa và kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm. Đặc biệt có  <br /> sự  quan tâm của đồng nghiệp, của lãnh đạo nhà trường trong việc giúp đỡ  bản <br /> thân trong công tác chuyên môn.<br /> ­ Nguyên nhân hạn chế: Một số  giáo viên chưa tổng hợp được kiến thức <br /> trong quá trình giảng dạy, chưa thực sự  quan tâm đến chất lượng học sinh nói  <br /> chung và chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng.<br /> e. Phân tích, đánh giá về các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra<br /> Vậy làm thế nào để thực hiện được mục tiêu dạy học của môn Tập làm văn,  <br /> khắc phục thực trạng học Tập làm văn như  đã nói trên? Nhà xuất bản Giáo dục  <br /> Việt Nam đã phát hành bộ  sách Hướng dẫn dạy Tiếng Việt lớp 3 dành cho giáo  <br /> viên. Người giáo viên có thể  lấy đó làm cơ  sở  để  tham khảo, tiến hành thiết kế <br /> bài giảng Tập làm văn của lớp mình phụ  trách. Tuy nhiên, sách giáo viên (SGV)  <br /> khi hướng dẫn dạy dạng bài Kể  hay nói, viết về  một chủ  đề  hầu hết chỉ  hướng  <br /> dẫn theo một cách, dẫn đến GV thụ  động kiến thức  ở  SGK,  SGV mà ít tìm tòi  <br /> đọc thêm tài liệu khác liên quan đến giảng dạy đặc biệt là khi dạy Tiếng Việt nên  <br /> ngôn ngữ  của giáo viên còn hạn hẹp, bí từ. Khi tổ  chức các hoạt động trong giờ <br /> học, một số  giáo viên chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm nên hình  <br /> thức tổ  chức dạy còn dàn trải, chưa có sự  liên kết giữa các hoạt động. Một số <br /> giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học và <br /> hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một quy trình <br /> áp đặt rập khuôn đã hướng dẫn trong SGV.<br /> Một số  đề  bài trong Sách giáo khoa còn thiếu thực tế, xa rời vốn sống của  <br /> học sinh. Khi làm bài, các em chỉ dựa vào các hình ảnh, tư liệu mà giáo viên cung  <br /> cấp nên bài viết còn sơ sài, chưa có sự sáng tạo.<br /> <br /> <br /> <br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  6<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> Do cách tổ  chức giờ  học còn nhàm chám, rập khuôn nên trong giờ  Tập làm <br /> văn, đa số học sinh chỉ trả lời câu hỏi theo gợi ý mà ít chịu tìm tòi các chi tiết, hình <br /> ảnh phù hợp chủ đề, dẫn đến nói, viết bài Tập làm văn cho có, lấy lệ.<br /> II.3. Giải pháp, biện pháp<br /> a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp<br />          Sử  dụng mạng ý nghĩa, bản đồ  tư  duy để  giúp học sinh tìm kiếm và phát  <br /> triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn dạng  “Kể  hay <br /> nói, viết về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, tạo cho các em có sự liên tưởng các <br /> chi tiết hình ảnh trong cùng một chủ đề, biết sắp xếp các chi tiết hình ảnh ấy tạo <br /> thành một ngôn bản (nói) hay văn bản (viết). Từ đó, có sự mạnh dạn tự tin trong  <br /> học tập cũng như trong giao tiếp.<br /> b. Nội dung, cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp<br /> b.1. Nội dung các bài tập làm văn trong Chương trình Lớp 3 dạng “Kể  hay  <br /> nói, viết theo chủ đề”.<br /> <br /> Tuần Yêu cầu Chủ điểm<br /> <br /> 6 Kể về buổi đầu em đi học Tới trường<br /> <br /> 8 Kể về người hàng xóm Cộng đồng<br /> <br /> 11 Nói về quê hương Quê hương<br /> <br /> 16 Nói về thành thị, nông thôn Thành   thị   và <br /> nông thôn<br /> <br /> 17 Viết về thành thị, nông thôn Thành   thị   và <br /> nông thôn<br /> <br /> 21 Nói về trí thức Sáng tạo<br /> <br /> 22 Nói, viết về người lao động trí óc Sáng tạo<br /> <br /> 23 Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật Nghệ thuật<br /> <br /> 25 Kể về lễ hội Lễ hội<br /> <br /> 26 Kể về một ngày hội Lễ hội<br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  7<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> <br /> 28 Kể lại trận thi đấu thể thao Thể thao<br /> <br /> 29 Viết về một trận thi đấu thể thao Thể thao<br /> <br /> 31 Thảo luận về bảo vệ môi trường Bầu   trời   và <br /> mặt đất<br /> <br /> 32 Nói, viết về bảo vệ môi trường Bầu   trời   và <br /> mặt đất<br /> <br /> Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn  <br /> đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề thuộc các chủ điểm của môn học: Nói, viết <br /> về  thành thị  hoặc nông thôn thuộc chủ  điểm Thành thị  và Nông thôn; Kể  về  gia  <br /> đình thuộc chủ điểm Mái ấm; Kể về một buổi thi đấu, kể về lễ hội, …<br /> Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý  ở  mỗi đề, chúng ta có thể  thấy dạng <br /> đề  này hầu như  là sự  kết hợp của nhiều thể  loại: miêu tả, tường thuật, thuyết <br /> minh và phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được <br /> tiến hành theo một trình tự như sau:<br /> ­ Giáo viên giới thiệu bài:<br /> ­ Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:<br /> + Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập<br /> + GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu <br /> hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.<br /> + Một học sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét<br /> ­ Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).<br /> ­ Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.<br /> ­ Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.<br /> Trình tự dạy học như vậy bài nào cũng giống bài nào, dẫn đến sự nhàm chán, <br /> thiếu sự sáng tạo và không tích hợp được các phân môn học khác của môn Tiếng  <br /> Việt.<br /> Khi dạy dạng đề này, ngoài phương án được nêu trên (trong sách giáo viên), <br /> tôi đã tham khảo một số kinh nghiệm trên mạng internet của đồng nghiệp và của <br /> chính bản thân, trước hết là nghiên cứu dạy thật tốt các phân môn khác trong môn  <br /> Tiếng Việt, sau đó sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ  tư duy để giúp học sinh tìm <br /> kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn <br /> dạng  “Kể hay nói, viết về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, giúp cho các em dựa <br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  8<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> vào mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy, có thể  nói (viết) thành đoạn văn theo yêu <br /> cầu đề bài một cách dễ dàng hơn, tạo sự mạnh dạn tự tin trong học tập.<br />    b.2. Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp<br /> b.2.1. Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học”<br /> Trước tiên tôi thực hiện hình thành “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp  <br /> học sinh có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi sử dung mạng ý nghĩa hay bản <br /> đồ tư duy mà tôi trình bày ở phần sau.<br />         + Thu thập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước.<br /> + Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới <br /> thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.<br /> + Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu thập  <br /> danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa.<br /> + Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay <br /> trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu.<br /> b.2.2. Sử dụng “Mạng ý nghĩa”:<br /> Sử dụng “Mạng ý nghĩa” như  là sử  dụng một đồ  dùng dạy học, một biện  <br /> pháp dạy học cụ  thể. Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ  chức cho <br /> học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm  <br /> văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể  hoá tối đa  hoạt động nói và viết  <br /> của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn  <br /> mực cơ  bản của một thể  loại văn bản, vừa thể  hiện bản chất cái tôi của  mỗi <br /> học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như <br /> những ý tưởng và ngôn từ  trong các bài đọc theo chủ đề  mà các em đã được học  <br /> trong SGK. <br />          *Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:<br />  Hoạt động 1: Tìm hiểu đề<br /> Trong hoạt động này, học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong  <br /> trí nhớ để xác định đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề. <br /> Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh  ảnh thì khung chủ  đề  cũng chính là <br /> chúng.<br />   <br /> Để thực hiện hoạt động này tôi sử dụng một trong các hình thức sau:<br /> ­ GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm mắt nghĩ về đối tượng,<br /> ­ Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài.<br /> <br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  9<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> ­ Kể một mẩu chuyện nhỏ liên quan đến đề bài, kết hợp đặt câu hỏi hướng  <br /> học sinh đến đề tài.<br /> ­ Dùng tranh  ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học  <br /> sinh tự sưu tầm.<br /> ­ Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung <br /> cấp) liên quan đến đề tài.<br /> ­ Sử  dụng mô hình (khung ngôi nhà, khung ngôi trường ...). Trên nền khung <br /> giáo viên hướng dẫn  học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào.<br /> ­ Sử  dụng một đoạn văn mẫu lấy từ  bài tập đọc đã học hay từ  các bài làm <br /> của học sinh.<br />   Hoạt động 2: Tìm ý <br /> Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ <br /> đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy.  <br /> Khi tiến hành hoạt động này tôi thực hiện theo các bước sau:<br /> ­ Sử dụng hệ thống câu hỏi để  kích thích và định hướng cho học sinh phát <br /> triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh <br /> nghiệm riêng, vốn sống thực tế của các em. Ví dụ   đối với văn miêu tả, câu hỏi  <br /> có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì? <br /> Em cảm thấy gì?...<br /> ­ Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh <br /> suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được  <br /> trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ  theo nội dung từng bài : Bông hoa, <br /> chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá...<br /> ­ Đối với học sinh khá giỏi hay học sinh đã quen với việc sử  dụng mạng,  <br /> giáo viên nên để các em tự nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống <br /> câu hỏi hoàn chỉnh.<br /> ­ Học sinh viết các ý dưới dạng từ  hay cụm từ  xung quanh chủ  đề. Giáo  <br /> viên tuyệt đối tránh viết chốt lại một số  từ  về  đề  bài. Cần xoá đi những ý đã <br /> được ghi lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá nhân  <br /> trong phiếu học tập thì trên bảng chỉ còn lại khung mạng trống. <br />  Hoạt động 3: Lập dàn ý : Sắp xếp ý đã có trong mạng. <br /> ­ Hướng dẫn học sinh đánh số  thứ  tự  cho các ý tìm được, lưu ý trình tự <br /> chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tính chất mở (đoạn văn miêu tả <br /> thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu  <br /> tả chi tiết, cụ <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  10<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> <br /> <br /> thể thì nói sau).<br /> ­ Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.<br /> ­ Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để <br /> cả  lớp theo dõi. Ngoài khung mạng làm mẫu, GV vẽ  sẵn trên bảng các mạng <br /> tương tự và che chúng lại. Sau khi HS đã tìm ý và hình thành mạng ý nghĩa trong  <br /> phiếu bài tập, giáo viên cho một số em lên thể hiện lại ý của mình vào các khung  <br /> mạng trên bảng.<br />  Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới  <br /> dạng nói hay viết <br /> ­ Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của <br /> mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi là <br /> tốt nhất.<br /> ­ Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ  ngữ <br /> xoay quanh mạng ít nhất một câu.<br />  Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:<br /> ­ Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể  hiện lại trước lớp rồi tổ  chức  <br /> trao đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về  cách nói phù hợp với yêu cầu của nội <br /> dung và thể loại của đề bài .<br /> ­ Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo <br /> hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa). Giáo viên theo dõi giúp đỡ chung.<br />   Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn <br /> chỉnh.<br /> *Ví dụ minh họa<br /> Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2­TV3 ­Tập1­ Tr92)<br /> 1. Chuẩn bị: <br /> Phiếu học tập<br /> a..Hoàn thành bảng dưới đây<br /> <br /> Tên bài đọc Quê hương là... Chi tiết làm em xúc động nhất<br /> Giọng   quê  ...................................... ..............................................................<br /> hương ...................................... ..............................................................<br /> Quê hương  ..................................... ...............................................................<br /> ..................................... ..............................................................<br /> Đất quý, đất yêu ..................................... .............................................................<br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  11<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> ..................................... .............................................................<br /> Vẽ quê hương ..................................... ...............................................................<br /> ..................................... ..............................................................<br /> <br />         <br /> b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất <br /> đồng ý.<br />         Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:<br />            Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.<br />            Là nơi mình sinh ra và lớn lên.<br />            Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.<br />            Là nơi mà khi xa mình thấy nhớ thương.<br />    c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:<br />          Quê em  ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở  quê hương? Cảnh vật đó có gì <br /> đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?<br /> 2. Cách tiến hành<br />  Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý <br /> tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh  <br /> hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)<br /> ­ GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự  nêu  <br /> kết quả  bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ  sung hoàn thành bài <br /> tập. Giới thiệu nội dung chủ đề “Nói về quê hương”.<br /> Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về  quê hương đã xác định trong  <br /> khung chủ  đề  và viết ra bất kì những từ  ngữ  nào liên quan đến quê hương mà <br /> mình đang nghĩ tới.<br /> ­ GV treo bài tập c (ghi sẵn  ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để <br /> kích thích học sinh hồi tưởng.<br /> ­ HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bảng phụ ghi vào  <br /> khung chủ  đề  cụm từ  “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của <br /> mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)<br />  Ví dụ:                    <br />                       Vườn cây                  công viên                thành phố yêu<br />                            <br /> <br /> <br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  12<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br />                       con sông                      Quê hương em              bờ đê, bãi cỏ        <br />                                                                             <br /> <br />                      nông thôn                  đường phố              nhà cao tầng<br />       Hoạt động 3: HS đánh số  thứ  tự  các ý mình vừa tìm được, GV hướng <br /> dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.<br /> ­ GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS trung bình và yếu để  giúp các em  <br /> điều <br /> <br /> chỉnh.<br />            Chẳng hạn với ví dụ trên, học sinh có thể đánh số thứ tự như sau:<br />                      vườn cây (4)            công viên (4)            thành phố (1)          yêu (5)<br />                            <br /> <br /> <br />                       con sông (2)                     Quê hương em                   bờ đê, bãi cỏ (3) <br />                                                                             <br /> <br />                      nông thôn (1)                  đường phố (3)              nhà cao tầng (2)<br /> <br /> Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói <br /> Cho hai em nói mẫu trước lớp . <br />  Ví dụ : Quê hương em thuộc một vùng nông thôn yên bình. Ở đó có cây đa <br /> cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em  <br /> là con sông quê hương uốn lượn quanh làng. Ven sông là bờ  đê với bãi cỏ  xanh <br /> mượt, những chú trâu béo tròn đang ung dung gặm cỏ. Em rất thích tắm mình <br /> dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình.<br />  Hoặc: Em và gia đình sống  ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà  <br /> cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ  đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em <br /> thường được bố  mẹ  dẫn đi chơi công viên, được ngồi trên cái ghế  đá mát rượi.  <br /> Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.<br /> ­ Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.<br /> Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc  <br /> biệt lưu ý giúp học sinh yếu.<br /> Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp<br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  13<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> ­ GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp (không nhìn mạng ý nghĩa). <br /> Nếu là học sinh yếu, có thể cho học sinh nhìn mạng để nói.<br /> ­ Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến <br /> khích HS tự  tìm đặt và trả  lời thêm câu hỏi mở  rộng. Chẳng hạn: Quê em có gì  <br /> đặc biệt? Em mơ ước gì về quê hương của mình? GV nhận xét chung.<br /> Ví dụ 2: Dạy bài : Kể về gia đình (BT1­TV3 ­tập1­ tr 28) <br />    Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói : Kể được  <br /> một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.<br /> 1.Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì? Tính <br /> tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình?<br /> 2.Cách tiến hành <br />  <br /> Hoạt động 1:<br /> ­ Cho HS đọc yêu cầu bài tập, GV giúp HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể <br /> về gia đình mình cho bạn mới quen biết.<br /> ­ Học sinh tập trung động não nghĩ về  gia đình và viết ra bất kỳ  những từ <br /> ngữ nào liên quan đến gia đình mình.<br /> ­ Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. HS đọc thầm và hồi tưởng.<br /> ­ HS làm vào giấy nháp. GV gọi đồng thời hai em làm vào bảng phụ, ghi vào  <br /> khung chủ  đề  cụm từ  “gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của  <br /> mình có được xung quanh chủ đề đó.<br />   Ví dụ:  <br />                   Làm ruộng                    anh, chị                          học sinh        <br /> <br /> <br />                 Ông, bà                         Gia đình mình                 bố, mẹ<br /> <br /> <br />                 Yêu thương                      em                                    hạnh phúc<br /> <br />   Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự <br /> 1,2,3...<br />   Chẳng hạn có thể đánh số thứ tự như sau:  <br />                   Làm ruộng                    anh, chị (3)                         học sinh (4)       <br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  14<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> <br /> <br />                 Ông, bà (1)                        Gia đình mình                 bố, mẹ (2)<br /> <br /> <br />                 Yêu thương (5)                     em  (3)                                  hạnh phúc (6)<br /> <br />  ­ GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các <br /> em điều chỉnh.<br />   Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói<br />  ­  GV gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.<br />   Ví dụ : Gia đình mình có 6 người : Ông bà, bố mẹ tớ, anh Hà và tớ. Ông bà  <br /> mình đã lớn tuổi rồi. Bố  mẹ tớ đều ở  nhà làm ruộng. Anh Hà là học sinh lớp 7.  <br /> Ông bà mình rất hiền, thường kể chuyện cho mình nghe. Mẹ  mình luôn bận bịu  <br /> với việc nhà, vì thế  mình yêu mẹ  lắm. Lúc nào rảnh việc học, mình lại giúp đỡ <br /> bố mẹ. Gia <br /> <br /> đình mình rất hạnh phúc.<br /> ­ Cả lớp nhận xét, GV sửa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu có sai sót).<br /> b.2.3. Sử dụng “Bản đồ tư duy”:<br />     Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp <br /> 3, tôi sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa. Bản đồ tư duy là một  <br /> phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để  dạy tập làm văn, người giáo <br /> viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của <br /> từng chủ  đề, đề  bài. Giáo viên thiết kế  bản đồ  tư  duy cần phải đảm bảo đúng  <br /> kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh  <br /> tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn.<br /> Ví dụ khi dạy đề bài:  Nói, viết về người lao động trí óc (BT1, 2 ­ TV3 ­ <br /> Tập 2 – Tr38), các bước đi như  đã trình bày ở  trên, giáo viên sử  dụng bản đồ  tư <br /> duy như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa:<br /> <br /> <br /> <br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  15<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> <br /> <br /> <br />  Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu (các từ ngữ phục vụ <br /> cho đề bài) để hoàn thành bài nói về người lao động trí óc dễ dàng hơn. <br /> Ví dụ  1: Cô em là bác sĩ làm việc tại bệnh viện huyện. Hằng ngày, cô đều <br /> đến bệnh viện miệt mài với công việc của mình. Mỗi khi khám bệnh, cô ân cần  <br /> hỏi han người bệnh về tình trạng bệnh tật. Ai cũng khen cô khám bệnh rất giỏi, <br /> kê đơn phát thuốc uống là khỏi ngay. Mọi người rất yêu quý cô. Em thật tự  hào <br /> về cô của em.<br /> Ví dụ 2: Em muốn kể về cô giáo đang dạy lớp 3 của em. Hàng ngày, cô lên  <br /> lớp dạy chúng em học, bài nào chưa hiểu, cô tìm mọi cách để  giảng giải, hướng <br /> dẫn chúng em đến hiểu thì thôi. Cô thu từng chồng vở tập làm văn của chúng em <br /> mang về, em đoán rằng cô chắc phải thức cả đêm để  chấm bài, để  sửa từng câu <br /> chữ cho chúng em. Rồi cô còn soạn bài cho buổi học ngày mai…Cô là một người  <br /> giáo viên tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu. Nhớ  ơn cô, chúng em luôn chăm <br /> chỉ học tập để cô vui lòng.<br />  Hoặc khi dạy bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật  (BT1, 2 ­TV3 ­ <br /> tậpII ­ tr 48), giáo viên thực hiện các bước như sau: <br /> ­ Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu  <br /> của bài tập: Kể về buổi biếu diễn nghệ thuật (Hoặc buổi biểu diễn văn nghệ  ở <br /> trường em).<br /> ­ Học sinh tập trung động não nghĩ về  buổi biểu diễn và viết ra bất kỳ <br /> những từ ngữ nào liên quan đến buổi biểu diễn.<br /> ­ Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh  <br /> biết một số từ ngữ liên quan đến biểu diễn nghệ thuật. Học sinh nhìn bản đồ  tư <br /> duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng.<br /> <br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  16<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> ­ Yêu cầu học sinh từ  một từ trong bản đồ, viết ít nhất một câu về  chủ  đề <br /> biểu diễn nghệ thuật.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ­ Học sinh ghi vào giấy nháp về buổi biểu diễn.<br /> ­ Giáo viên gọi một vài em kể về buổi biểu diễn cho cả lớp nghe. <br /> ­ Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.<br /> Chẳng hạn: Chủ nhật tuần trước em được bố mẹ cho đi xem xiếc. Mở mà là <br /> tiết mục đu dây của một cặp diễn viên nam nữ. Họ  thật là dũng cảm khi đu trên <br /> sợi dây tít trên cao. Sau đó là tiết mục xiếc thú: nào khỉ đi xe đap, chó làm toán, voi <br /> đá bóng… tiết mục nào cũng thật là hấp dẫn. Em thích nhất là tiết mục biến giấy  <br /> thành hoa, thành chim bồ câu. Người diễn viên thật khéo léo trong khi biểu diễn. <br /> Em rất thán phục các diễn viên biểu diễn trong ngày hôm đó.<br /> Hoặc: Cứ  đến 20/11 hằng năm, trường em lại tổ  chức đem văn nghệ  chào <br /> mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Đúng 7 giờ thì khai mạc buổi biểu diễn. Sau đó là  <br /> lần lượt tiết mục của các lớp. Bạn Hồng Nhung lớp 3D với tiết mục hát đơn ca  <br /> “Bông hồng tặng cô” mượt mà, tình cảm. Tiết mục kể chuyện “Bác Hồ đến thăm  <br /> trại nhi đồng” của em Thanh Thùy lớp 2C thật truyền cảm, xúc động. Em thích <br /> nhất là tiết mục tam ca “Tiếng hát bạn bè mình” của lớp em. Các bạn vừa hát,  <br /> vừa biểu diễn rất chuyên nghiệp. Rồi còn các tiết mục múa của các em lớp một  <br /> thật uyển chuyển, dễ  thương. Thật là một buổi biểu diễn đầy ý nghĩa để  dânh  <br /> tặng các thầy cô.<br /> *Lưu ý: Học sinh lớp Ba tư  duy chưa nhanh, suy nghĩ để  tìm ra các từ  ngữ <br /> phục vụ  cho đề  bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ  được bản đồ  tư  duy hoàn  <br /> chỉnh. Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, tôi chuẩn bị  bản <br /> đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa sẵn, sau khi hướng dẫn xong thì có thể xóa đi  <br /> và yêu cầu học sinh áp dụng vào để tự làm bài. Đối với những học sinh khá giỏi, <br /> tôi hướng dẫn các em vẽ  bản đồ  tư  duy trong một số  bài học nhưng không yêu <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  17<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản đồ  tư  duy phục vụ cho <br /> bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành, tránh  <br /> tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra. <br /> c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp<br /> Để  thực hiện được các biện pháp trên, mỗi giáo viên phải là người nắm <br /> chắc kiến thức, hiểu rõ những điều mà đề  bài yêu cầu; là người tổng hợp được <br /> kiến thức các môn học để  giúp học sinh nhanh chóng hiểu và làm theo yêu cầu  <br /> của mỗi đề bài.<br /> Mỗi học sinh phải tham gia tích cực, giàu trí tưởng tượng, vận động tư duy <br /> theo yêu cầu của giáo viên, từ đó mới nhanh chóng tìm được các từ ngữ thuộc chủ <br /> đề và hoàn thành bài nói (viết) trong thời gian quy định.<br /> d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.<br /> Để  thực hiện tốt các bài tập dựa vào mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy,  <br /> trong các tiết dạy các phân môn khác của môn Tiếng Việt như  Tập  đọc, Kể <br /> chuyện, Luyện từ  và câu, người giáo viên phải giúp học sinh nắm được các từ <br /> ngữ  thuộc chủ  điểm đang học, từ  đó có vốn từ  phục vụ  cho việc hiểu mạng ý <br /> nghĩa hay bản đồ tư duy mà giáo viên đưa ra trong tiết Tâp làm văn cuối tuần.<br /> Các biện pháp trên nên thực hiện đồng bộ, thường xuyên trong giờ dạy Tập  <br /> làm văn, phối hợp với sử  dụng SGV như là một đồ  dùng dạy học. Ngoài ra, các <br /> biện pháp đưa ra phải phù hợp với khả  năng của học sinh thì mới đạt hiệu quả <br /> cao. <br /> e. Kết quả khảo nghiệm<br /> Khảo sát đầu năm về môn Tiếng Việt, hầu hết phần viết học sinh chưa đạt <br /> điểm cao, đặc biệt là phần tập làm văn. Cụ thể:<br /> <br /> Năm học TSHS Điểm9­10 Điểm 7­8 Điểm 5­6 Điếm 3­4 Điểm 2­1<br /> <br /> 2011­2012 34 3 10 16 6<br /> <br /> 2012­2013 32 4 12 12 4<br /> <br /> 2014­2015 28 3 12 12 1<br /> <br /> Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, cuối năm học kết quả  phần viết  <br /> môn Tiếng Việt như sau:<br /> <br /> Năm học TSHS Điểm9­10 Điểm 7­8 Điểm 5­6 Điếm 3­4 Điểm 2­1<br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  18<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> <br /> 2011­2012 34 20 8 6<br /> <br /> 2012­2013 32 18 10 4<br /> <br /> 2014­2015  28 17 8 3<br /> (HKI)<br /> <br /> II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề <br /> nghiên cứu<br /> a. Kết quả<br /> Mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy giúp học sinh có căn cứ để hoàn thành câu,  <br /> tiến tới viết đoạn, bài. <br /> Sau khi nhận lớp, tôi tiến hành khảo sát học sinh để nắm được thực trạng <br /> đầu năm. Sau đó, áp dụng các giải pháp đã nêu ở trên, chất lượng phân môn Tập <br /> làm văn được nâng lên rõ rệt. Những học sinh trước chỉ  trả  lời câu hỏi hoặc <br /> không biết viết gì đã có thể  dựa mạng ý nghĩa để  sắp xếp ý, để  nói (viết) được  <br /> đoạn văn hoàn chỉnh về chủ đề mà bài tập yêu cầu. Những học sinh khá, giỏi thì  <br /> đã có thể  tự  lập được mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy, viết được những đoạn  <br /> văn có hình  ảnh, có sự  sáng tạo, có cảm xúc mà tôi giới thiệu kèm theo bài viết <br /> này. Đó là phần thưởng cho sự  nỗ  lực cố  gắng của mỗi học sinh cũng như  của  <br /> bản thân tôi trong quá trình truyền dạy tri thức cho các em.<br /> b. Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu<br /> Với sự học hỏi của bản thân, sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ  tư  duy vào  <br /> giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 3 đã giảm hẳn áp lực học tập, học sinh thoải <br /> mái, tự  tin hơn khi thực hiện bài tập dạng Kể  hay nói (viết) theo chủ  đề. Kinh  <br /> nghiệm tuy không lớn nhưng đã nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn nói  <br /> riêng và môn Tiếng Việt lớp 3 nói chung.<br /> III. Phần kết luận, kiến nghị <br /> 1. Kết luận<br /> Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với dạng <br /> bài tập “Kể  hay nói, viết về một chủ đề”, theo tôi người giáo viên phải có trách <br /> nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp <br /> thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của <br /> bản thân <br /> <br /> <br />  GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana  19<br />      Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn <br /> lớp 3<br /> <br /> mình. Qua đó các em sẽ  tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ  học  <br /> tập đúng đắn. Mỗi giáo viên phải  nắm vững nội dung chương trình  môn Tiếng <br /> Việt lớp 3, đặc biệt là các bài dạy Tập làm văn có trong chương trình để  từ  đó  <br /> xâu chuỗi được các kiến thức cần cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy. Nghiên  <br /> cứu   kĩ   nội   dung   bài   dạy,   xác   định   đúng   trọng   tâm   của   bài.   Vận   dụng   nhiều  <br /> phương pháp và hình thức dạy học khác nhau, khắc sâu kiến thức bài giảng giúp <br /> mỗi học sinh đều hiểu và làm <br /> bài tập được ngay tại lớp. Đối với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần xác định đối <br /> tượng học sinh yếu và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài <br /> để  có biện pháp giúp đỡ  kịp thời g
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2