SKKN: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11
lượt xem 6
download
Đề tài: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 nhằm để giúp các em hiểu và gìn giữ, nâng cao nét đẹp văn hóa của người Hà Nội, xây dựng một nền tảng văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch trong thế kỉ XXI, đáp ứng nhu cầu phát triển, giao lưu và hội nhập quốc tế.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm 2. BCH TW: Ban chấp hành Trung ương 3. GDĐT: Giáo dục đào tạo 4. THPT: Trung học phổ thông 5. HS: Học sinh 6. GV: Giáo viên 7. HSTL: Học sinh trả lời 8. GD: giáo dục 9. GDVH: Giáo dục văn hóa 1/27
- PHẦN M Ở ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII, tại Hội nghị lần thứ 9 khóa XI, BCH TW Đảng đã đề ra nhiệm vụ mới về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất nước. Trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Để thực hiện được mục tiêu trên đòi hỏi sự nỗ lực đóng góp của nhiều ban ngành, địa phương, nhiều đơn vị và các tổ chức xã hội và của chính cá nhân mỗi người dân Việt Nam. Riêng đối với ngành giáo dục, thấy được vai trò và trách nhiệm to lớn trong việc giáo dục đào tạo, bồi đắp tri thức văn hóa cho thế hệ trẻ của đất nước, ngành giáo dục cũng đã có nhiều đổi mới để bắt kịp nhu cầu của thời đại như: Nâng cấp đội ngũ giáo viên, đổi mới cán bộ quản lý giáo dục, đổi mới chương trình, giáo án; tăng cường kỷ cương thi cử, tích cực xã hội hóa giáo dục đào tạo… Và nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bộ GDĐT đã giao cho sở GDĐT Hà Nội đưa vào giảng dạy chuyên đề: Giáo dục nếp sống văn minh, thanh lịch cho học sinh Hà Nội. Đây là một chương trình thiết thực tạo sự chuyển biến từng bước về nhận thức hành vi cho học sinh, góp phần đào tạo, xây dựng thế hệ người Hà Nội thanh lịch, văn minh để xây dựng Thủ đô và đất nước phồn vinh, giàu mạnh, khơi dậy niềm tự hào kế thừa được truyền thống thanh lịch, giữ gìn nét văn hóa đặc trưng của người Hà Nội Việc giảng dạy giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh Hà Nội có một nội dung rất thiết thực đó là giáo dục cách ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch. Nhất là trong điều kiện hiện nay khi văn hóa ứng xử đang trở thành một vấn đề nhức nhối của xã hội hiện đại.Nội dung giáo dục này đã được đưa vào trong các bộ môn như: chuyên đề giảng dạy thanh lịch, văn minh vào tiết học trong tuần ở thời khóa biểu chính khóa của nhà trường mỗi tuần một tiết cho các lớp học, các 2
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 hoạt động ngoài giờ lên lớp và một số bộ môn cũng đang sử dụng phương pháp tích hợp để giáo dục cách ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh cho học sinh như Giáo dục công dân, Địa lí, Văn học… Là một người con của Hà Nội, được thừa hưởng những tinh hoa văn hóa của đất Hà Thành, lại trực tiếp làm hai nhiệm vụ : giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên giảng dạy bộ môn văn trong trường phổ thông.Tôi có điều kiện để truyền dạy cho học trò những nét đẹp trong giao tiếp, ứng xử thông qua các tiết dạy Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh và thông qua cả một số tiết dạy tích hợp trong bộ môn văn. Đó vừa là trách nhiệm vừa là niềm tự hào của tôi nói riêng và những người con Hà Nội nói chung. Hơn thế, Việt Nam là một đất nước đa dân tôc và đa dạng về văn hóa vùng miền, mỗi địa phương lại mang những nét đặc sắc riêng trong văn hóa giao tiếp, ứng xử. Do vậy, từ chương trình thí điểm “Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh Hà Nội” và dạy tích hợp về văn hóa ứng xử, giao tiếp của người Hà Nội chúng ta cũng có thể nhân rộng các chương trình giáo dục văn hóa vùng miền khác cho học sinh, giúp các em có cái nhìn sâu sắc, toàn diện về văn hóa dân tộc, trang bị cho các em một hành trang vững chắc để bước vào con đường hội nhập và phát triển. Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài : Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 nhằm để giúp các em hiểu và gìn giữ, nâng cao nét đẹp văn hóa của người Hà Nội, xây dựng một nền tảng văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch trong thế kỉ XXI, đáp ứng nhu cầu phát triển, giao lưu và hội nhập quốc tế. II. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Mục đích Đề tài nghiên cứu nội dung: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong môn Ngữ văn lớp 11 THPT để góp phần giáo dục văn hóa giao tiếp, ứng xử thanh lịch, văn minh cho học sinh. 2. Đối tượng Học sinh lớp 11A12 và lớp 11A15 của trường THPT mà tôi dang công tác, giảng dạy năm học 20142015. 3/27
- 3. Phạm vi Phạm vi của đề tài tập trung bài: Chiếu cầu hiền – Ngô Thì Nhậm trong chương trình Ngữ văn lớp 11, bài Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự) Lê Hữu Trác, bài Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ) – Vũ Trọng Phụng và bài Vĩnh biệt Cửu trùng đài (trích Vũ Như Tô) – Nguyễn Huy Tưởng. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Phân tích và hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến đề tài. Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành thí nghiệm ở các giờ dạy trên lớp. Phương pháp tổ chức các hoạt động thực tiễn: Điều tra cơ bản, trao đổi, đàm thoại với HS, cán bộ GV, phụ huynh,... PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận: Hà Nội là thủ đô của cả nước, là linh hồn của dân tộc Việt Nam.Thanh lịch văn minh là nét đẹp truyền thống đã được nhiều thế hệ người dân Hà nội tạo nên và lưu giữ, trở thành nét văn hóa đặc trưng, tiêu biểu cho con người Việt Nam.Trân trọng, kế thừa và phát huy nét đẹp ấy trong đời sống người Hà Nội hôm nay và mai sau là trách nhiệm, là niềm tự hào và vinh dự của người dân Thủ đô trong đó có thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường. Thanh lịch, văn minh là đặc trưng nổi bật trong nếp sống người Hà Nội đó là nếp sống có văn hóa tích cực tiến bộ phù hợp với các giá trị sống của cộng đồng. Người thanh lịch văn minh là người có dáng vẻ hành vi trang nhã, giao tiếp ứng xử lịch sự, thể hiện sự tiến bộ hiểu biết phù hợp với thời đại với dân tộc.Thanh lịch là một khuynh hướng thẩm mĩ thiên về sự nhã nhặn và lịch thiệp đã trở thành nét đẹp trong nếp sống người Hà Nội. Đó là nét đẹp hài hòa của diện mạo của phong cách, hành vi, sự tu dưỡng trải nghiệm của con người. Văn minh biểu hiện ở trình độ phát triển cao của văn hóa về phương diện vật chất theo hướng xóa bỏ những lạc hậu, thấp kém để xây dựng một xã hội tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn. Giao tiếp là một quá trình bao gồm: tiếp xúc, giao lưu giữa con người với con người nhằm mục đích trao đổi thông tin, bày tỏ quan điểm, tình cảm, thái độ, bộc lộ nhu cầu. 4
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 Qua giao tiếp, con người có thể làm phong phú hơn những hiểu biết của mình về con người, tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, thông qua giao tiếp, con người biểu hiện năng lực, phẩm chất, nhân cách của mình trong các mối quan hệ. Ứng xử là cách thể hiện tình cảm, thái độ, hành động của con người với con người, của con người đối với sự việc, đối với thiên nhiên, môi trường tự nhiên và môi trường xã hội Ứng xử thanh lịch, văn minh là sự biểu hiện tình cảm, thái độ, hành động đúng đắn, đẹp đẽ của người có văn hóa với con người, với thiên nhiên, môi trường. Ứng xử thanh lịch, văn minh thể hiện qua các hành vi của con người như lời nói, việc làm, mắt nhìn, cử chỉ thái độ trên cơ sở lòng nhân ái và sự hiểu biết. Như vậy, ứng xử không đơn thuần là thể hiện bên ngoài của phép xã giao mà nó phản ánh bản chất bên trong của người ứng xử. Ứng xử thanh lịch, văn minh còn được thể hiện ở khía cạnh đối với tự mình, là thái độ của mỗi cá nhân đối với trách nhiệm của bản thân mình trong sinh hoạt, trong công việc… Với mức độ và tầm quan trọng như vậy, văn hóa giao tiếp, ứng xử đòi hỏi mỗi con người phải được học tập, rèn luyện và tu dưỡng thường xuyên, liên tục. Hà Nội với 1000 năm tuổi với sự ưu đãi của thiên nhiên đã làm cho Hà Nội là “ Chốn hội tụ của bốn phương đất nước”, “ muôn vật phong phú tốt tươi” đã làm cho Hà Nội là một đô thị lớn bậc nhất của nước nhà, là nơi phồn thịnh về kinh tế, phát triển về văn hóa, tạo nên một bản sắc văn hóa Thăng Long Hà Nội. Có thể hình dung chân dung văn hóa ứng xử của con người Hà Nội với những giá trị nổi bật như sự lịch lãm, tinh tế, hào hoa trí tuệ, có nghĩa khí, giàu lòng yêu nước, tình nhân ái, yêu chuộng hòa bình; người Hà Nội kín đáo, khiêm nhường, hướng nội sâu sắc, quan hệ rộng mở, có bản lĩnh và tự trọng, với những biểu hiện cụ thể như: *Người Hà Nội giao tiếp văn minh, thanh lịch Người Hà Nội coi trọng giao tiếp trước hết ở lời ăn, tiếng nói. Qua tiếng nói , người ta nhận ra tiếng nói “Hồ Gươm”. Cái thanh, cái lịch của tiếng nói người Hà Nội là ở chỗ phát âm hay, dùng từ chuẩn xác, diễn đạt hấp dẫn, dễ nghe. Người Hà Nội khi nói chọn ý đẹp, lời hay, tránh thô lỗ, tục tằn.khi giao tiếp luôn thể hiện thái độ cầu thị, cẩn trọng cân nhắc kỹ trước khi nói. Người Hà Nội chú trọng cách nói, cách xưng hô, cách chào khi gặp và tạm biệt. Không nói trống không, nói leo, nói chen ngang làm người khác mất hứng, không nói kiểu khoe chữ, học đòi. 5/27
- Người Hà Nội biết lắng nghe khi giao tiếp, tin tưởng cởi mở trong giao tiếp. Nghe với sự cầu thị, nghe để cảm thông, thấu hiểu, không bàng quan, lơ đãng, vô tình. *Người Hà Nội ứng xử văn minh, thanh lịch Hà Nội là thủ đô của đất nước, đó cũng là nơi hội tụ của những tài năng, tinh hoa trí tuệ tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Từ xa xưa, người của đất “Ngàn năm văn vật” đã có lối ứng xử vừa thanh lịch vừa văn minh. Người Hà Nội tự trọng, biết mình, cẩn thận, chỉn chu đối với chính mình. Từ việc phân biệt cách mặc trong nhà khác với mặc ra đường, ăn trông nồi, ngồi trông hướng, tu thân rồi mới tề gia ... chứng tỏ phải biết mình, sửa mình là điều trước tiên. Sự hài hòa, dung hòa các mối quan hệ là đặc điểm nổi bật trong quan hệ ứng xử của người Hà Nội. Người Hà Nội hào hoa mà không kênh kiệu, khoe vẻ giàu sang; vui tươi duyên dáng mà không suồng sã; thông minh, lịch thiệp và vẫn chân thành; chững chạc, khiêm nhường, ân cần và tế nhị ... Người Hà Nội không ứng xử thái quá, cực đoan, lựa cách ăn ở cho vừa lòng người, không rộng, không hẹp; không “uống nước uống cả cặn”, “vơ đũa cả nắm”, ghét ai là “đào đất đổ đi”, nói không to quá, ăn không cay quá, mặc không lòe loẹt quá, đi đứng không hấp tấp quá, mọi thứ sao cho chừng mực vừa phải. Người Hà Nội vừa tự trọng, vừa tôn trọng người khác, không kính cẩn thái quá đối với những người quyền cao chức trọng, tự tin tiếp xúc với “những người của công chúng”. Những cử chỉ ngả mũ, bắt tay, cúi đầu tỏ lòng tôn kính ... thể hiện thói quen giao tiếp lịch lãm, tế nhị, biểu lộ chiều sâu của tâm hồn trong sáng, trí tuệ thông minh, phong thái đường hoàng. Người Hà Nội kín đáo, khiêm nhường, ứng xử ân tình, tế nhị, niềm nở chân thành, không nỡ chạm vào lòng tự ái, nỗi đau của người khác. Sống hài hòa, thân thiện với thiên nhiên, môi trường, có ý thức bảo vệ lợi ích của cộng đồng. Cách ứng xử của người Hà Nội khiến cho ai đó mỗi khi gặp gỡ, giao thiệp đều cảm thấy hài lòng, quý trọng và cảm kích ghi nhớ. Và như chúng ta đã biết nhà trườ ng là nơi đào tạo thế hệ trẻ, những người chủ tươ ng lai của đất nướ c. Nếu họ có đầy đủ những nhận thức về cách ứng xử, giao tiếp thanh l ịch, văn minh của Hà Nội, học tập và làm theo lối sống ấy thì chúng ta tin chắc rằng h ọ s ẽ là những gươ ng mặt mới, làm rạng rỡ cho thủ đô nói riêng và Việt Nam nói chung. Ở trường THPT, vi ệc truy ền th ụ ki ến th ức giáo dục ý thức về văn hóa giao tiếp, ứng xử thanh l ịch, văn minh của ngườ i Hà 6
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 Nội đến học sinh thuận lợi và hiệu quả nhất vẫn là hình thức giảng dạy trực tiếp kết hợp với tích hợp và lồng ghép vào các môn học. 2. Thực trạng của vấn đề: Nhìn lại cách ứng xử, giao tiếp của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay nh ững người làm công tác giáo dục không khỏi băn khoăn, lo lắng. Bên cạnh những mặt tích cực như mạnh dạn, tự tin, năng động trong mọi mặt của đời sống thì một bộ phận không nhỏ giới trẻ lại có cách ứng xử, giao tiếp thiếu văn hóa trong gia đình và những nơi công cộng. Nói năng trống không, cãi lại tay đôi với người lớn tuổi; lạm dụng tiếng “lóng”, nói tục, chửi bậy; nói chuyện điện thoại oang oang hoặc thể hiện tình cảm thái quá nơi đông người, công viên; chen lấn, xô đẩy khi xếp hàng; khi đi xe buýt không nhường ghế cho người già, trẻ em và phụ nữ có thai; bóp còi, rú ga inh ỏi khi tắc đường...là những hành vi tạo ra một thói quen xấu cho giới trẻ, tạo nên một môi trường thiếu văn hóa trong xã hội, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hành vi, nhân cách của các bạn trẻ. Chương trình Ngữ văn THPT nói chung và Ngữ văn lớp 11 nói riêng có một số bài học có liên quan đến văn hóa giao tiếp, ứng xử thanh lịch, văn minh của người Hà Nội . Do vậy, đây chính là điều kiện thuận lợi để giáo viên có thể tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội vào một số bài học. Trong đặc thù của môn Ngữ văn vừa là những tác phẩm nghệ thuật ,lại vừa là những bài học đạo đức được lồng ghép một cách tinh vi, khéo léo vì vậy rất thuận tiện và phù hợp cho việc dạy tích hợp những nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Hà Nội nói riêng và văn hóa vùng miền nói chung. Đó cũng là một cách để ta truyền tải, giáo dục lòng tự hào về truyền thống thanh lịch của đất đô thành, lại vừa giúp thế hệ trẻ xây dựng được một văn hóa ứng xử đẹp thật sự văn minh, thanh lịch. Tuy nhiên, trong thực tế cho thấy việc giảng dạy còn chưa được một số giáo viên thực sự chú trọng đến nội dung này, nên chưa phù hợp với yêu cầu xã hội. Chính vì vậy việc lồng ghép nội dung giáo dục giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh nói chung và văn hóa ứng xử thanh lịch, văn minh của người Hà Nội nói riêng vào môn học này vẫn chưa được thực hiện một cách triệt để và sâu rộng. II. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN ĐỂ TÍCH HỢP GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ, GIAO TIẾP VĂN MINH, THANH LỊCH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI CHO HS 7/27
- 1. Nhiệm vụ của người GV trong việc tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho HS. Giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh là dựa trên những tri thức về những nét đẹp văn hóa ứng xử, giao tiếp của Hà Nội mà hình thành thái độ, ý thức, trách nhiệm và kĩ năng sống cho HS, nhằm khơi dậy niềm tự hào được kế thừa truyền thống thanh lịch, giữ gìn nét văn hóa đặc trưng của Hà Nội. Qua đó tạo sự chuyển biến từng bước về nhận thức, hành vi cho học sinh, góp phần đào tạo, xây dựng thế hệ người Hà Nội giao tiếp, ứng xử thanh lịch, văn minh, xây dựng Thủ đô và đất nước phồn vinh giàu mạnh. Là một GV chủ nhiệm và GV giảng dạy môn Ngữ văn, ngoài những tiết học trực tiếp giảng dạy chuyên đề Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh, thông qua một số bài học liên quan đến văn hóa giao tiếp, ứng xử thanh lịch, văn minh của người Hà Nội, tôi đã cung cấp, gửi gắm các thông điệp phong phú về giữ gìn và bảo vệ, phát huy nét đặc sắc trong văn hóa ứng xử của người Hà Nội. Cụ thể : HS hiểu được văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh của người Hà Nội xưa và đối với đời sống của các thế hệ người dân Hà Nội nay như thế nào, thấy được những nét đẹp ấy đã và đang bị mai một cụ thể ra sao để có ý thức gìn giữ và phát huy những nét đẹp đó . Bên cạnh đó tôi còn tạo môi trường để các em có thể giao lưu, thực hành, giúp các em thấm nhuần những nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Hà Nội; có thái độ thân thiện với mọi người , ủng hộ những việc làm bảo vệ bản sắc văn hóa của Hà Nội và lên án, tố cáo những hành vi làm mất đi những nét đẹp văn hóa trong giao tiếp, ứng xử; góp phần xây dựng một thủ đô văn minh, giàu đẹp, tạo gương mặt mới đầy tự hào cho thế hệ trẻ Việt Nam. 2. Nguyên tắc, mức độ, phương pháp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho HS 2.1 Nguyên tắc Giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh của người Hà Nội không phải là một bộ môn riêng biệt mà chỉ là cách tiếp cận bộ môn. Do vậy, khi tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục văn hóa ứng xử thanh lịch, văn minh của người Hà Nội tôi luôn tuân thủ những nguyên tắc sau: Chỉ tích hợp với những bài có nội dung thật sự liên quan đến văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh của người Hà Nội . Nội dung tích hợp phải đảm bảo tính chính xác. 8
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 Phải đảm bảo đặc trưng của môn học, không biến giờ học Ngữ văn thành giờ học giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh. Phải đảm bảo kiến thức cơ bản, tính lôgic của nội dung bài học, không làm quá tải lượng kiến thức và tăng thời gian của bài học. Các ví dụ, nội dung giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh giáo viên đưa vào phải ngắn gọn, hấp dẫn, lôi cuốn được sự chú ý của HS. 2.2. Mức độ Việc tích hợp nội dung giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh của người Hà Nội thể hiện ở 3 mức độ: mức độ toàn phần, mức độ bộ phận và mức độ liên hệ. Mức độ toàn phần: Mục tiêu và nội dung của bài học phù hợp hoàn toàn với mục tiêu và nội dung của giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh của người Hà Nội . Mức độ bộ phận: Chỉ có một phần bài học có mục tiêu và nội dung giáo dục văn hóa giao tiếp, ứng xử thanh lịch, văn minh của người Hà Nội . Mức độ liên hệ: Có điều kiện liên hệ một cách logic, trực tiếp trong lối ứng xử, giao tiếp hàng ngày ở gia đình, trường học, nơi công cộng. 2.3. Phương pháp Trong quá trình lồng ghép nội dung giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh của người Hà Nội, tôi đã sử dụng những phương pháp sau: Phương pháp khai thác kinh nghiệm thực tế để giáo dục: vận dụng những tình huống thực tế, phân tích tình huống và rút ra những bài học kinh nghiệm. Phương pháp giải quyết vấn đề cộng đồng : cung cấp những thông tin về văn hóa ứng xử, giao tiếp của người Hà Nội và ở địa phương nơi mà các em đang sinh sống và học tập. Phương pháp nêu gương: Muốn nét đẹp văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh của người Hà Nội được tỏa sáng, giúp học sinh hiểu và gìn giữ thì bản thân GV phải gương mẫu ngay trong lời ăn, tiếng nói, trong cách ứng xử hàng ngày 3. Một số bài học vận dụng tích hợp, lồng ghép giáo dục văn hóa giao tiếp, ứng xử thanh lịch, văn minh của người Hà Nội trong môn Ngữ văn 11 9/27
- 3.1 Hệ thống những bài học có nội dung giáo dục văn hóa giao tiếp, ứng xử thanh lịch, văn minh của người Hà Nội. Như trên đã nói, kiến thức giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh của người Hà Nội trong môn Ngữ văn lớp 11 không được trình bày cụ thể trong từng bài rõ ràng mà được mà phải tích hợp và lồng ghép vào nội dung bài giảng. Khảo sát toàn bộ nội dung chương trình Ngữ văn lớp 11, tôi thấy có một số bài học tiêu biểu liên quan đến văn hóa giao tiếp, ứng xử của người Hà Nội có thể tích hợp được nội dung này đó là các bài: Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự) –Lê Hữu Trác; Chiếu cầu hiền – Ngô Thì Nhậm, đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ Vũ Trọng Phụng); Vĩnh biệt Cửu trùng đài (trích Vũ Như Tô) – Nguyễn Huy Tưởng. 3.2. Vận dụng * Đoạn trích: Vào Phủ chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Lê Hữu Trác. Khi dạy đến bài này, tôi muốn tích hợp giáo dục cho học sinh có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về đời sống, văn hóa ứng xử, cung cách sinh hoạt của tầng lớp vua quan phong kiến thời vua Lê – chúa Trịnh. Cuộc sống xa hoa, quyền quý nhưng thiếu sinh khí, tình người để từ đó giáo dục cho học sinh một lối sống tích cực chan hòa với thiên nhiên, trân trọng tài năng phẩm giá, có thái độ đúng mực với danh lợi, vật chất. * Đoạn trích: Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ) – Vũ Trọng Phụng Với đoạn trích này, ngoài việc đảm bảo nội dung kiến thức giờ dạy cho học sinh thấy được mặt trái với những cách giao tiếp, ứng xử thiếu văn minh thanh lịch của xã hội thành thị Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đó là cách ứng xử giao tiếp thái quá cực đoan, háo danh, hám lợi, giả tạo, thiếu tình người. Để từ đó có ý thức xây dựng một lối sống đẹp trong giao tiếp, ứng xử với những người thân trong gia đình, với những quan hệ ngoài xã hội, với việc ăn mặc, ma chay,… * Đoạn trích Vĩnh biệt Cửu trùng đài (trích kịch Vũ Như Tô) – Nguyễn Huy Tưởng Thông qua tiết học, tôi muốn giúp các em thấy được hình ảnh của một Thăng Long – Hà Nội thế kỷ XVI, với những mâu thuẫn xung đột giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than với bọn hôn quân, bạo chúa và phe cánh của chúng đang sống 10
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 trong xa hoa, trụy lạc; giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu với lợi ích thiết thực trực tiếp của nhân dân. Để từ đó giáo dục cho các em cách ứng xử văn minh thanh lịch trong các mối quan hệ giữa cá nhân với tổ quốc, dân tộc, với quần chúng nhân dân và giữa niềm đam mê nghệ thuật – tài năng của cá nhân với hoàn cảnh thực tế của lịch sử… * Tác phẩm Chiếu cầu hiền – Ngô Thì Nhậm Đây là tác phẩm mà Ngô Thì Nhậm đã chắp bút viết thay lời vua Quang Trung để kêu gọi sĩ phu Bắc Hà ra phụng sự cho triều đình vừa mới thành lập. Ngoài việc đảm bảo nội dung của tiết dạy về một tác phẩm chính luận thời trung đại, tôi còn muốn lồng ghép giáo dục cho học sinh về cách giao tiếp ứng xử văn minh thanh lịch của người Hà Nội trong nhiều mối quan hệ, nhiều hoàn cảnh khác nhau. Đó chính là thái độ tự trọng, trân trọng tài năng của cá nhân, có lối sống tích cực, rèn đức luyện tài để cống hiến cho quê hương; trân trọng người hiền tài, cách giao tiếp tế nhị, khéo léo; là ý thức học hỏi, noi gương những bậc hiền tài trong lịch sử … *Thiết kế một giáo án cụ thể: CHIẾU CẦU HIỀN (Tiết 2) Ngô Thì Nhậm A. MỤC TIÊU BÀI HỌC Giúp học sinh: Hiểu được tầm tư tưởng mang tính chiến lược, chủ trương tập hợp nhân tài để xây dựng đất nước của vua Quang Trung, một nhân vật kiệt xuất trong lich sử nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của nhân tài đối với quốc gia Hiểu thêm đặc điểm của thể chiếu, một thể văn nghị luận trung đại. Tích hợp GD văn hóa ứng xử, giao tiếp thanh lịch văn minh của người hà Nội B. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN SGK, SGV Ngữ văn 11 – tập 1. Sách tham khảo Hình ảnh, đoạn trích chèo minh họa Máy chiếu, phấn, bảng … C. CÁCH THỨC TIẾN HÀNH 11/27
- GV tổ chức giờ dạy theo cách kết hợp các phương pháp: gợi tìm, kết hợp các hình thức trao đổi thảo luận, trả lời các câu hỏi. D. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP 1. Ổn định lớp 2. Kiểm tra bài cũ GV: Nêu hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác của văn bản chiếu cầu hiền? 3. Bài mới Lời vào bài: học sinh xem trích đoạn chèo “Ngọc Hân công chúa” – Biên kịch: Lưu Quang Vũ Bài giảng: Đoạn trích các em vừa theo dõi cũng đã phần nào cho thấy được bối cảnh thời đại Tây Sơn và tư tưởng cầu hiền của vua Quang Trung trước khi bài chiếu ra đời. Để hiểu rõ hơn bài Chiếu Cầu Hiền , cô cùng các em đi tiếp vào bài học ngày hôm nay. PP HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG KIẾN THỨC NỘI DUNG TG THẦY VÀ TRÒ CẦN ĐẠT TÍCH HỢP I. TÌM HIỂU CHUNG II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN 1. Đọc, tìm hiểu bố cục 2. Tìm hiểu văn bản a/ Đoạn 1: Quy luật xử thế của người hiền b/ Đoạn 2: Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu Đất nước hưng vong, thất cầu đất nước phu hữu trách. Chúng ta đã từng nghe câu dưới thời nhà Trần, Trần Quốc Tuấn đã vì nghĩa nước mà gạt bỏ mối thù nhà quên đi những hiềm khích riêng tư. Hay câu chuyện dưới thời nhà Lê, Nguyễn Trãi đã tự tìm đến chủ tướng Lê Lợi dâng Bình Ngô Sách làm nên chiến thắng vang dội của cuộc 12
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 khởi nghĩa Lam Sơn. Và dưới triều Tây Sơn, khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc thì các sĩ phu Bắc Hà có cách ứng xử như thế nào, chúng ta tìm hiểu phần thứ nhất: Cách ứng xử của các sĩ * Cách ứng xử của các sĩ phu. 19 phu HS đọc đoạn trích từ: phút “Trước đây ...vương hầu Cách ứng xử : chăng?” */ Mai danh ẩn tích, lưu lạc Hỏi: Các sĩ phu Bắc Hà có bốn phương cách ứng xử như thế nào? */ Những người ra làm quan thì sợ hãi, im lặng, làm việc cầm chừng Trở lại với đoạn 1 của văn bản , tác giả đã chỉ ra người hiền như ngôi sao sáng trên trời cao, nếu giấu đi vẻ đẹp che mất ánh sáng, có tài mà không được đời dùng thì coi như không phải là người hiền do trời sinh ra vậy. Và Cần có nhận với cách ứng xử như thế này thức đúng thì ta thấy các sĩ phu có xứng đắn, phê danh là người hiền trong > Họ đã bỏ phí tài năng, bình lối thiên hạ hay không? không xứng danh là người sống tiêu hiền do trời sinh ra vậy! cực, bỏ phí tài năng Đó cũng là cách hành xử một thời. Nhưng thật đáng buồn cho xã hội ngày nay, khi đất nước hòa bình con đường hội nhập, giao lưu ngày càng rộng mở, ấy vậy mà ta vẫn 13/27
- thấy đâu đây còn biết bao người có lối sống e dè, khép kín, biết bao bạn trẻ vùi mình trong những trò chơi vô bổ, biết bao nghiên cứu sinh được nhà nước cử đi học ở nước ngoài mà không trở lại phục vụ quê hương. Còn biết bao cán bộ công chức đến cơ quan nhà nước theo lối đánh trống ghi tên... Nguyên nhân: Do thời thế > Đó đều là những cách suy vi, loạn lạc sống tiêu cực, đáng phê phán... Trở lại với bài Chiếu Cầu Giáo dục lối Hiền, vậy thì theo tác giả : sống tích Nguyên nhân nào đã khiến cực, cống họ có cách ứng xử như hiến cho quê vậy? hương. GV: Có nhiều nguyên nhân, phần vì do thời thế suy vi loạn lạc, phần vì các sĩ phu Bắc Hà là những nhà nho sống với tinh thần “Tôi trung không thờ hai chủ”. Hiểu được tâm lý này vua Quang Trung đã khéo léo đặt các sĩ phu trong mối quan hệ với thời cuộc để tránh được phần hạn chế trong tâm lý của các sĩ phu. Khiến họ không tự ái, xấu hổ mà nhìn lại bản thân, theo nhà vua thì thời thế không cho phép họ thể hiện mình chứ không phải họ vùi lấp mình. 14
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 GV ?:Vậy thì, trong thời đại mà các em đang sống Nghệ thuật: đây, chúng ta có thể lựa chọn + Dùng nhiều điển tích, điển cách sống như các sĩ phu cố theo phép liệt kê Bắc Hà hay không? Vì sao? + Từ ngữ, hình ảnh khơi gợi HSTL: Không! mà phải sống cảm xúc: Ghé chiếu lắng tích cực, cống hiến hết mình nghe, Ngày đêm mong mỏi cho đất nước, không che dấu + Hai câu hỏi tu từ liên tiếp: tài năng, khẳng định vị trí, “Hay trẫm … chăng?” vai trò của bản thân. => Tư tưởng, tình cảm của GV ?: Làm thế nào để có vua Quang Trung: được lối sống tích cực như vậy? HSTL: Sống tự tin, bản lĩnh */ Có kiến thức văn chương Dám đương đầu với khó khăn sâu rộng. Học tập, rèn luyện tài, đức */ Khéo léo, tế nhị trong ứng để trở thành người hiền tài xử GV: Trở lại với đoạn văn các em có nhận xét gì về nghệ thuật...câu văn? Hỏi: Nhận xét về nghệ thuật của đoạn văn qua: từ ngữ, hình ảnh, hình thức câu văn? Hỏi: Những từ ngữ, hình ảnh, câu văn cho thấy tư Giáo dục tưởng, tình cảm của vua cách ứng xử Quang Trung như thế nào? khéo léo, Gợi mở 1: Việc dùng khiêm tốn, những điển tích, điển cố chân thành trong giao cho thấy người viết có tài tiếp. năng, kiến thức ra sao? 15/27
- Xuất phát từ đối tượng của */ Khiêm tốn, chân thành. bài viết là các sĩ phu trưởng */ Khao khát, mong mỏi sự thành từ cửa khổng, sân trình giúp sức của những hiền tài có kiến thức uyên thâm. Họ */ Sự lo lắng, trăn trở vì đất lại đang nghi ngại về xuất nước. thân của vua Quang Trung, */ Bao dung, bỏ qua chuyện cho rằng nhà vua không xuất cũ thân từ tầng lớp quý tộc, thân vương, lại sinh hạ ở Đàng trong, một nơi chưa phát triển về giáo dục. Để phá tan những nghi ngại ấy, Ngô Thị Nhậm đã khéo léo dùng những điển tích, điển cố lấy từ binh điển nho gia để vừa châm biếm nhẹ nhàng, cách ứng xử của các sĩ phu khiến họ không tự ái, xấu hổ. Lại vừa chứng tỏ cho họ thấy tầm hiểu biết sâu rộng của vua Quang Trung. Viết như thế là khéo léo, tế nhị, là vận dụng một cách linh hoạt nghệ thuật giao tiếp “ Lời nói chẳng mất tiền *Bối cảnh thời đại: mua, lựa lời mà nói cho vừa Bối cảnh thời đại mới còn lòng nhau” nhiều khó khăn thử thách: Gợi mở 2: Dùng nhiều từ + Đất nước vừa tạo lập ngữ khơi gợi cảm xúc và + Còn nhiều việc phải lo toan đặt ra tình thế lưỡng phân + Một mình nhà vua không cho thấy thái độ của nhà thể gánh vác vua như thế nào? + Nhiều nhân tài còn ẩn dật *Nhu cầu của đất nước 16
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 GV: Nhà vua đã lấy lý do => Đất nước cần có sự giúp thời thế để giải thích cho sức của các hiền tài. cách ứng xử của các sĩ phu còn cho ta thấy vua Quang Trung thật xứng đáng là đấng minh quân trong lịch sử: yêu nước, thương dân, tâm lòng chiêu hiền đãi sĩ. Trong đoạn văn tiếp theo, tác giả đã tăng mức độ thuyết phục hơn nữa khi nêu ra tính chất của thời đại và nhu cầu của đất nước. Đó cũng là bài học xử thế cho mọi người ở mọi thời đại, không chỉ thiết thực cho mỗi cá nhân mà nó cần hữu ích trọng dụng hiền tài, đặt Nghệ thuật thuyết phục: lợi ích quốc gia lên trên hết, + Nêu lí lẽ: chỉ ra khó khăn để tránh tài năng bị bỏ phí, của thời đại => cần sự giúp lãng quên. sức của người hiền tài + Phân tích bằng tình cảm: */ Từ ngữ giàu cảm xúc:nơm HS nghiên cứu đoạn văn từ: nớp lo lắng, suy đi tính lại.. “ Kìa như...của trẫm hay */ Hình ảnh ẩn dụ. “một cái sao” cột không thể đỡ nổi một Hỏi: Bối cảnh của thời căn nhà lớn” đại mới được khắc họa ra */ Đặt câu hỏi day dứt” “Huống nay...của trẫm hay sao? sao?” => Tác giả đã tác động đến tâm ý của các sĩ phu khiến họ không thể khoanh tay đứng Giáo dục ý nhìn mà đến với triều Tây thức, vai trò, Hỏi: Nêu ra hàng loạt Sơn. trách nhiệm những khó khăn ấy, vua của cá nhân Quang trung muốn chỉ ra trước vận 17/27
- nhu cầu của thời đại mới mệnh dân cần có sự giúp sức của ai? tộc GV: Hiền tài đã được khẳng định là nguyên khí của quốc gia. Các triều đại xưa, triều đại nào có minh chủ được hiền tài giúp sức thì đều làm nên nghiệp lớn. Thời Lý có Quốc Sư Vạn Hạnh, nguyên phi Ỷ Lan. Thời Trần có thái sư Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn. Và dưới triều Tây Sơn, vua Quang Trung muốn gây nghiệp trị bình cũng đang cần có sự giúp sức của hiền tài. Nhận thức được vị trí quan trọng ấy, để thuyết phục các c/ Đoạn 3: Con đường cầu sĩ phu, nhà vua đã dùng một hiền của vua Quang Trung nghệ thuật lập luận rất sắc sảo. Đối tượng cầu hiền: Quan Hỏi: Nhận xét về nghệ viên lớn nhỏ, thứ dân trăm thuật thuyết phục của vua họ. Quang Trung trong đoạn Cách cầu hiền: văn qua: lí lẽ, tình cảm? + Cho phép người có ý kiến hay, mưu lược giỏi được dâng sớ tâu bày. + Cho phép các quan văn võ tiến cử người có nghề hay, nghiệp giỏi. + Cho phép người tài tự tiến cử mình. > Con đường cầu hiền cụ Hỏi: Nghệ thuật thuyết thể, rõ ràng, dân chủ, rộng mở. phục này có hiệu quả như thế nào? 18
- Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh, thanh lịch của người Hà Nội cho học sinh qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 GV: Dưới thời Tây Sơn, đất nước khó khăn là vậy, vai trò của người hiền tài quan trọng là thế, vậy thì dưới thời đại của chúng ta “Người hiền tài có vai trò như thế nào? Vì sao?” HSTL: Người hiền tài có vai trò rất quan trọng vì: Đất nước còn nhiều khó khăn, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thử thách, đói nghèo, thiên tai, bệnh dịch, tranh chấp chủ quyền... GV: Đất nước đang cần lắm sự chung vai gánh vác của tất cả chúng ta. Đặc biệt là những hiền tài. Vậy thì phải kêu gọi người hiền tài ra sao? Làm gì để chiêu hiền đãi sĩ, chúng ta cùng sang đoạn tiếp theo. HS nghiên cứu đoạn văn từ: “ Chiếu này ban xuống...đều biết” GD ý thức Hỏi: Đối tượng cầu hiền, kế thừa và cách cầu hiền cụ thể là gì? phát huy những giá trị văn hóa truyền thống Có nhận thức đúng đắn về thời đại. Tư tưởng tự 19/27
- do, dân chủ Hỏi: Em có nhận xét gì về con đường cầu hiền của vua Quang Trung? 9 GV: Không chỉ trọng trí phút thức, tìm người giỏi mưu hay mà nhà vua còn trọng đãi cả các nghệ nhân tinh xảo => Chứng tỏ vua Quang trong thực hành. Đây được Trung là người biết nhìn xa coi là 1 tư tưởng tiến bộ, dân trông rộng. Khả năng quản chủ nhất trong các triều đại lý, tổ chức chính sự tài tình. phong kiến. Không chỉ tuyển lựa hiền tài bằng học thuật mà mở rộng ra nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực khác nhau. Vậy thì theo các em tư tưởng, đường lối cầu hiền tiến bộ này được kế thừa và phát triển như thế nào trong GD ý thức xã hội của chúng ta? trân trọng, HSTL: Xã hội ngày nay Cuối cùng là lời hiệu triệu, học tập, noi động viên, khích lệ người hiền gương không chỉ có người bằng cấp tài cố gắng cùng triều đình người hiền cao mới có sứ mệnh của gánh vác việc non sông của tài hiền tài, mà tất cả mọi vua Quang Trung. người có tài năng, tâm huyết trên một lĩnh vực nào đó thì đều được xã hội trọng dụng. Chúng ta từng thấy trên lĩnh vực học thuật rất nhiều tấm gương làm rạng rỡ non sông như: Gia đình nhà giáo Nguyễn Lân, sinh hạ được 8 người con thì cả 8 đều là giáo sư, tiến sĩ. Giáo sư Nguyễn Bảo Châu người được đặc cách phong hàm 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Một số biện pháp dạy học theo hướng tích cực và giáo dục kĩ năng phát triển trong giờ Thể dục
33 p | 950 | 281
-
SKKN: Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong môn Hóa học 9
25 p | 709 | 55
-
SKKN: Phương pháp tích hợp bảo vệ môi trường vào giảng dạy môn Vật lí 7
23 p | 545 | 54
-
SKKN: Tích hợp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình dạy học bài thơ “Mộ” (Chiều tối)
12 p | 662 | 51
-
SKKN: Tích hợp giáo dục tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giảng dạy phần công dân với đạo đức (môn giáo dục công dân lớp 10)
15 p | 344 | 22
-
SKKN: Dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn ở trường THPT. Ứng dụng vào thực tiễn dạy học tác phẩm “Tây Tiến” (Quang Dũng)
32 p | 163 | 13
-
SKKN: Một số biện pháp lồng ghép giáo dục môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non Sao Mai
37 p | 293 | 11
-
SKKN: Vận dụng một số trò chơi thể thao quân sự vào giảng dạy thực hành có hiệu quả môn học giáo dục quốc phòng an ninh THPT
13 p | 84 | 9
-
SKKN: Kinh nghiệm dạy học tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số văn bản Ngữ Văn 7
30 p | 127 | 7
-
SKKN: Kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy chuyên đề Xác suất của biến cố nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh các lớp 11A1, 11A2, 11A3 trường THPT Quan Sơn 2
23 p | 60 | 6
-
SKKN: Một số kinh nghiệm dạy học tích hợp qua bài “Phong cách Hồ Chí Minh"
23 p | 175 | 6
-
SKKN: Một số biện pháp lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho trẻ 5-6 tuổi lớp lá 1 trường mầm non Hoạ Mi
24 p | 116 | 5
-
SKKN: Tích hợp kiến thức liên môn vào giảng dạy “ Tiết 69 - Bài 45: Lưu huỳnh đioxit” môn Hóa học lớp 10 – Ban nâng cao
29 p | 62 | 3
-
SKKN: Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực, bản đồ tư tích hợp giáo dục KNS trong dạy học cụm bài ca dao ở chương trình Ngữ Văn 7 kỳ I
29 p | 87 | 2
-
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học viên trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Đăk Nông thông qua việc tích hợp dạy học môn Ngữ Văn lớp 11
29 p | 64 | 2
-
SKKN: Vận dụng dạy học tích hợp trong chủ đề: “Hô hấp” nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Sinh học 8
26 p | 45 | 2
-
SKKN: Tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 - Lớp 12 (Ban cơ bản)
112 p | 47 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn