SKKN: Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng trong dạy học văn học nước ngoài ở trường THPT
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài "Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng trong dạy học văn học nước ngoài ở trường THPT" là khảo sát phân tích và đề xuất những nguyên tắc, phương pháp tổ chức HĐNK cho học sinh THPT trong dạy học văn học nước ngoài.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng trong dạy học văn học nước ngoài ở trường THPT
- MỤC LỤC BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT CT&SGK : Chương trình và sách giáo khoa GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo GV : Giáo viên HĐNGLL : Hoạt động ngoài giờ lên lớp HĐNK : Hoạt động ngoại khóa HS : Học sinh NXB : Nhà xuất bản PPDH : Phương pháp dạy học SGK : Sách giáo khoa SGV : Sách giáo viên THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông TPVH : Tác phẩm văn học TN : Thực nghiệm
- 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc dạy học không đơn thuần là cung cấp tri thức, mà còn rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Bản chất của dạy học hiện đại, theo UNESCO là học để biết, học để làm việc, học để chung sống và học để làm người. Theo đó, chất lượng giáo dục không chỉ chú trọng đến thành tích học tập mà quan trọng là phải trang bị cho người học kỹ năng sống và năng lực hoạt động xã hội để có khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh. Muốn vậy, quá trình dạy, học phải diễn ra theo nhiều con đường, nhiều phương thức và hoạt động khác nhau. Trong giáo dục học nói chung, lí luận dạy học các môn học nói riêng, hoạt động ngoại khóa (HĐNK) luôn được nói đến như một hoạt động hết sức quan trọng, không thể thiếu. Ở các trường phổ thông, HĐNK là một trong những hoạt động đặc trưng, là nơi thể nghiệm, vận dụng và củng cố tri thức trên lớp, là cơ hội để học sinh tự bộc lộ nhân cách, khả năng của mình, là môi trường nuôi dưỡng và phát triển tính chủ thể của học sinh. Do vậy, việc tổ chức HĐNK một mặt nâng cao hiệu quả giáo dục, mặt khác giúp học sinh dám nghĩ, dám làm, năng động, sáng tạo đáp ứng đòi hỏi của việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội
- nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Cũng như các môn học khác, việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn nói chung, phân môn văn học nước ngoài nói riêng, phụ thuộc không nhỏ vào việc tổ chức HĐNK. Trong bối cảnh dạy học văn ngày nay, điều này càng đặc biệt quan trọng, hướng đến mục tiêu đào tạo những công dân năng động, sáng tạo, tự tin, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ hội nhập, chúng tôi chọn vấn đề Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng trong dạy học văn học nước ngoài ở trường THPT làm đối tượng nghiên cứu. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là khảo sát phân tích và đề xuất những nguyên tắc, phương pháp tổ chức HĐNK cho học sinh THPT trong dạy học văn học nước ngoài. Với mục đích đó, đề tài đặt ra nhiệm vụ: Thứ nhất, phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tổ chức HĐNK văn học nước ngoài ở trường THPT. Thứ hai, đề xuất nguyên tắc, phương pháp tổ chức HĐNK văn học nước ngoài cho học sinh THPT. Thứ 3, tổ chức một số thực nghiệm sư phạm. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở, nguyên tắc, nội dung và phương pháp tổ chức HĐNK văn học nước ngoài cho học sinh THPT . 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết tốt nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp so sánh – đối chiếu Phương pháp quan sát, miêu tả Phương pháp thực nghiệm sư phạm 1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Từ việc dạy học tác phẩm văn học nước ngoài ở trường THPT, phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là tác phẩm VHNN trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 10 và Ngữ văn 11). 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận 2.1.1. Hoạt động ngoài giờ lên lớp Hoạt động ngoài giờ lên lớp (hay còn gọi là hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp HĐNGLL) là những hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức ngoài giờ học của các môn học ở trên lớp nhằm nâng cao hiểu biết và tạo điều kiện để các em rèn luyện thói quen sống, phát huy năng lực và sở thích của mình. Giáo dục ngoài giờ lên lớp là một lĩnh vực hoạt động song song với hoạt động dạy học, giáo dục trên lớp, cùng thực hiện mục tiêu đào tạo cấp học theo các hướng giáo dục: nhân văn, khoa học. Nhà trường có nhiệm vụ
- dạy chữ và dạy người. Nếu nhà trường chỉ thực hiện hoạt động dạy, học các bộ môn văn hoá trên lớp thì nhiệm vụ dạy người sẽ không hoàn thành, vì học sinh sẽ thiếu môi trường hoạt động và giao tiếp, hạn chế về tình huống thực tế, hạn chế về thời gian. Như vậy, HĐNGLL không phải là hoạt động “phụ”, hoạt động “bề nổi” mà giữ một vị trí rất quan trọng trong các hoạt động giáo dục của các trường. HĐNGLL chính là sự tiếp nối hoạt động dạy học, thu hút và phát huy được tiềm năng của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để nâng cao hiệu quả giáo dục HS. Đồng thời, HĐNGLL còn phát huy cao độ tính chủ thể, tính chủ động, tích cực của HS, giúp HS bổ sung, củng cố và hoàn thiện tri thức đã được học trên lớp; giúp các em có những hiểu biết mới. Những tri thức học sinh thu được trong giờ lên lớp là tri thức cơ bản nhất, hiện đại nhất. Nếu không được củng cố, bổ sung thì những tri thức đó khó có thể duy trì được lâu bền. Vì vậy, HĐNGLL sẽ giúp cho HS củng cố tri thức đã học, đồng thời tăng cường cho học sinh sự hiểu biết thêm về tự nhiên, xã hội, con người. Mặt khác, HĐNGLL tạo cơ hội cho học sinh được tiếp xúc, được làm quen với những hoạt động: khoa học kỹ thuật, lao động sản xuất, văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, kinh doanh, xã hội, nhân đạo, giúp các em có điều kiện vận dụng những tri thức đã học vào thực tiễn cuộc sống và làm phong phú vốn hiểu biết của các em. Trong khi tham gia các hoạt động các em sẽ gặp những tình huống cụ thể của cuộc sống buộc phải tìm cách giải quyết bằng trí tuệ và sức lực của mình. Từ đó giúp các em hiểu, biết cách làm và cách tự điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực. Như vậy, HĐNGLL chính là hoạt động giáo dục được tổ chức ngoài thời gian học tập trên lớp. Đây là một trong hai hoạt động giáo dục cơ bản, được thực hiện một cách có tổ chức, có mục đích theo kế hoạch của nhà
- trường; là hoạt động tiếp nối và thống nhất hữu cơ với hoạt động học tập trên lớp, nhằm góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo, đáp ứng những yêu cầu đa dạng của xã hội đối với thế hệ trẻ. 2.1.2. Hoạt động ngoại khóa Hoạt động ngoại khóa được hiểu như là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học chính khóa, thường mang tính chất tự nguyện hơn là bắt buộc. HĐNK là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động của HS, là việc tổ chức giáo dục thông qua hoạt động thực tiễn của HS về khoa học kỹ thuật, lao động công ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa văn nghệ, thẩm mỹ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí,... HĐNK đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc bổ sung những kỹ năng và kinh nghiệm sống cho HS, giúp các em trở thành một con người toàn diện hơn trong cuộc sống. HĐNK có thể coi như một hình thức để đánh giá học sinh theo quan điểm phát triển toàn diện và càng có ý nghĩa hơn nếu các HĐNK có tác động trở lại, giúp học sinh có thêm hứng thú, niềm vui trong học tập, rèn luyện đạo đức. Chất lượng học tập sẽ cao, kích thích được hứng thú học tập, nhu cầu, khả năng độc lập, tích cực tư duy của học sinh. Do sự hạn chế của thời gian lên lớp trong chương trình chính khóa, đồng thời với sự gia tăng không ngừng của tri thức đã làm xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu nhận thức của học sinh với kế hoạch của chương trình. Để giải quyết mâu thuẫn này, người ta tổ chức các hoạt động ngoại khóa nhằm tạo điều kiện cho mỗi học sinh có thể mở rộng, đào sâu kiến thức, phát triển những hứng thú, năng lực cá nhân. Hoạt động ngoại khóa được thực hiện ngoài giờ học, nó không mang tính bắt buộc mà tùy thuộc vào hứng thú, sở thích nguyện vọng của mỗi học sinh
- trong khuôn khổ khả năng và điều kiện có được của nhà trường. Hoạt động ngoại khóa có thể được tổ chức dưới nhiều dạng: dạng tập thể cả lớp, dạng nhóm theo năng khiếu… Và có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau: tổ chức ngoại khóa, câu lạc bộ, cuộc thi,... Hoạt động ngoại khóa giúp HS phát triển được nhiều kĩ năng, như: làm việc nhóm, thuyết trình, lãnh đạo, hòa nhập, tư duy sáng tạo. Những kĩ năng này là rất cần thiết cho cuộc sống ở đại học và cho cả công việc sau khi tốt nghiệp; khám phá ra sở thích, sở trường, sở đoản của bản thân thông qua hoạt động ngoại khóa. Đồng thời làm cho cuộc sống vui hơn, thông qua hoạt động ngoại khóa, HS sẽ có thêm những người bạn mới, có những kỉ niệm, bài học và kinh nghiệm đáng nhớ và trở thành một con người thú vị và toàn diện hơn. Mặt khác, đây còn là hoạt động giúp HS có cái nhìn tổng quát hơn về mối liên hệ giữa kiến thức và thực tiễn, giữa lý thuyết và thực hành, giúp HS hình thành thái độ đúng đắn trước những vấn đề của cuộc sống, biết chịu trách nhiệm về hành vi của mình, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, cảm thụ và đánh giá cái đẹp của cuộc sống. 2.1.3. Hoạt động thực nghiệm Hoạt động thực nghiệm là một phương pháp sư phạm kết hợp giữa hỗ trợ của giáo viên và thực hành của học sinh. Người tham gia những hoạt động thực nghiệm thường là HS ở cấp THCS và THPT, vì đây là lứa tuổi chuyển tiếp giữa trẻ em và người lớn vốn cần sự độc lập hơn, năng động hơn, nhiều không gian hơn, nhưng đồng thời cũng rất cần sự hỗ trợ, hướng dẫn có phương pháp và kỹ thuật để định hướng trong các hoạt động. Thực là thực hành, nghiệm là kinh nghiệm. Thực nghiệm là lấy thực hành làm bài học cho các kinh nghiệm thực tế. HS sẽ tự bàn bạc, đưa ra các ý tưởng để lựa chọn ra một kế hoạch, dự án thực hiện. Người hướng dẫn sẽ
- lắng nghe và trao đổi với HS về dự án được chọn, cùng tìm cách hỗ trợ để thực hiện trên thực tế. Nếu trong quá trình thực hiện, HS nhận ra rằng dự án được chọn quá phức tạp và mình chưa đủ sức để làm, thì sẽ tự suy nghĩ tìm giải pháp để tiếp tục hoặc chuyển hướng kế hoạch. Vì vậy, kết quả thành công hay không trở thành điều thứ yếu, không quan trọng của hoạt động thực nghiệm. Ưu tiên hàng đầu của hoạt động này là tạo sân chơi cho HS về mặt sáng tạo, tự lập nhưng vẫn có tinh thần làm việc tập thể, khám phá thêm về khả năng, sở thích của mình cũng như các lĩnh vực khác, học cách có trách nhiệm về các ý tưởng của mình, và cách tổ chức thực hiện, giải quyết cho khoa học, hợp lý. 2.2. Thực trạng dạy, học văn học nước ngoài ở trường THPT 2.2.1. Văn học nước ngoài trong chương trình môn Ngữ văn ở THPT Nếu “văn học là nhân học” (M. Gorki) thì văn học, nhất là VHNN có khả năng bồi dưỡng những công dân toàn cầu đức tính khoan dung, hòa bình, hòa hợp trên cơ sở hiểu biết con người, hiểu biết dân tộc mình và các dân tộc khác trên thế giới. Từ rất sớm, trong chương trình trung học ban hành lần đầu tiên (1956), áp dụng cho hệ thống giáo dục ở miền Bắc, VHNN được đưa vào với tư cách là một phân môn bắt buộc. Việc được tiếp xúc với nhiều nền văn hoá, tích luỹ được tri thức mới lạ sẽ giúp học sinh tự tin hơn khi tiếp xúc, giao lưu, gia nhập vào một không gian sống mang tính toàn cầu trong tương lai. Trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày nay, tính biệt lập, khép kín của các nền văn hóa, văn học đã bị phá vỡ. Thay vào đó là mở cửa, tiếp xúc và hội nhập theo nguyên tắc “hòa nhập chứ không hòa tan”. Trong bối cảnh đó, văn học nước ngoài ở trường THPT góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng tâm thế, tri thức cho những công dân toàn cầu trong tương lai. Tuy nhiên, có một thực tế là hiện nay ở trường THPT, văn học nước ngoài đang mất dần vị
- thế, ít nhận được sự quan tâm của người dạy, người học. Đó là một thực trạng chung của ngành giáo dục. Đứng trước sự phát triển của trình độ khoa học kĩ thuật, cuộc sống của loài người càng có nhiều sự thay đổi, phù hợp với lối sống “nhanh vội” của thế kỉ XXI. Dường như văn học cũng đã mất dần vị trí, ý nghĩa vốn có. Bộ môn Ngữ văn trong nhà trường cũng mất dần vị thế so với tổng thể các môn học khác. Số lượng HS say mê học văn ngày một giảm, mặc dầu tình yêu văn chương, khả năng văn chương ở các em là rất lớn. Áp lực công việc khi vào đời, lối sống thực dụng, tâm lý đám đông đã lấn lướt niềm hứng thú văn chương. Thực trạng này với văn học nước ngoài còn tồi tệ hơn, mặc dù vẫn còn đó nhiều em học sinh yêu thích văn học nước ngoài, nhận ra sự sâu sắc, mới lạ của văn học nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do so với văn học Việt Nam, dù không muốn, các em cũng phải học, học để làm bài kiểm tra, để vượt qua các kỳ thi. Nhưng với VHNN, HS không cần học VHNN vẫn có thể ra trường, vào đại học. Sự xem nhẹ VHNN bắt nguồn từ hệ lụy không thi thì không học. Bên cạnh đó, sự giảm sút tình cảm nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm của GV cũng là một nguyên nhân không nhỏ dẫn tới tình trạng dạy, học văn như hiện nay. Những giáo viên say nghề, tâm huyết với nghề dạy văn dường như càng ngày càng hiếm. Đó là một thực trạng đáng báo động cho nền giáo dục, và xa hơn, là cho xã hội. So với văn học Việt Nam, việc dạy học văn học nước ngoài ở trường phổ thông có những thuận lợi, khó khăn riêng. Các tác phẩm được chọn học đều là những tác phẩm đỉnh cao của văn chương nhân loại. Ở đó hội tụ nhiều tri thức văn hóa, văn học được chuyển tải trong những hình thức nghệ thuật mới, lạ, độc đáo. Nếu không xuất phát từ ý muốn đào sâu, chinh phục tác phẩm thì cả người dạy và người học sẽ rơi vào tình trạng “cưỡi ngựa xem
- hoa”, không nắm được những giá trị mà tác phẩm muốn gửi gắm. Những tác phẩm VHNN được chọn để giảng dạy trong trường THPT hiện nay hầu hết là những tác phẩm kinh điển, hoặc là tác phẩm của những nhà văn lớn. Có rất nhiều vấn đề, nhiều ý nghĩa không thể tìm thấy trong văn học Việt Nam. Đó vừa là ưu thế, vừa là thách thức đối với người dạy, người học. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề về lý luận văn học, mỹ học sẽ được nhận thức, bổ sung thông qua những tác giả, tác phẩm đặc sắc của văn chương nhân loại. Đây có thể xem là một thế mạnh, một khả năng riêng của văn học nước ngoài, chỉ có ở văn học nước ngoài. Mặt khác, việc được học các hiện tượng văn học nước ngoài bên cạnh văn học Việt Nam sẽ giúp các em nhận thức được những tương đồng, khác biệt giữa văn học Việt Nam và văn học thế giới. Từ đó, các em có thêm lòng tự tôn dân tộc, tự tin hơn khi bước vào giao lưu hội nhập với bạn bè trên thế giới.” 2.2.2. Nhận thức, quan niệm của giáo viên, học sinh về dạy, học văn học nước ngoài ở trường THPT Việc dạy và học văn ở bậc THPT hiện nay vẫn còn những điều đáng buồn làm không ít các thầy giáo, cô giáo có tâm huyết với nghề phải suy nghĩ. Hiện tượng HS ít quan tâm đến môn văn, chất lượng học tập môn văn nói riêng và các môn khối khoa học xã hội nói chung còn thấp so với các môn khác là khá phổ biến. Điều này thể hiện rất rõ ở kết quả học tập, mà minh chứng rõ nhất đó là điểm thi vào các trường ĐH, CĐ hằng năm. Sở dĩ còn tồn tại hiện tượng trên có lẽ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, nguyên nhân không kém phần quyết định đó là động cơ học tập, tư tưởng tình cảm, sự hứng thú, khả năng cảm thụ của HS đối với TPVH. Bởi trong nhận thức của mình, HS chưa thấy được chức năng to lớn, những điều mà văn học đem
- lại cho con người mà các ngành khoa học khác không làm được. Để khắc phục những hiện tượng trên không phải dễ dàng để có được, mà phải là sự nỗ lực từ nhiều phía, từ nhiều yếu tố. Khó khăn lớn nhất đối với vấn đề dạy học VHNN là hầu hết các tác phẩm VHNN không nằm trong giới hạn của các bài kiểm tra, thi học kì quan trọng. Vì thế, học sinh không chú trọng vào học tập những tác phẩm này. Đối với giáo viên, dù hiểu rõ những tác phẩm VHNN đang giảng dạy là hay, có nhiều vấn đề cần phải được đem ra phân tích nhưng do hạn chế về thời gian, sự gò bó của quy định về chương trình nên cuối cùng cũng mang tâm lí không coi trọng tác phẩm VHNN. Đây chính là thực trạng và tồn tại trong giảng dạy văn xuôi nước ngoài ở trường THPT, lí giải điều này có thể kể đến một số nguyên nhân như: văn học nước ngoài đều thuộc những nền văn hóa xa lạ, những kiến thức xung quanh về tác phẩm rất mỏng, ít; vốn hiểu biết của GV cũng hạn chế cộng thêm tên nhân vật, tên địa danh khó nhớ trở thành gánh nặng khi học, điều này dẫn đến hệ lụy dạy và học chưa tới. Vấn đề dạy học văn học nước ngoài trong nhà trường hiện nay khá nan giải. Do khối lượng lớn, tư liệu hạn chế, vốn liếng tri thức của giáo viên và học sinh còn rất ít ỏi. Vì vậy mà việc dạy và học văn xuôi nước ngoài ở trường THPT còn nhiều tồn tại: tồn tại trong giảng dạy, trong quan niệm dân tộc,… Một tác phẩm được dịch từ thứ ngôn ngữ khác, dù là những tác phẩm kinh điển và nổi tiếng của thế giới cũng vẫn rất khó khăn cho giáo viên trong việc hiểu rõ nội dung tư tưởng, chưa nói đến việc còn cần phải truyền thụ những kiến thức thu được cho học sinh. Giảng dạy VHNN là sự kết hợp của việc nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa, thể loại văn học, trào lưu văn học,… đồng thời phải tìm ra phương pháp tạo hứng thú, giúp học sinh hiểu và nắm bắt dễ dàng. Hiện nay, đa phần các giáo viên đều giảng dạy theo một quy
- trình vốn có sẵn khi giảng dạy tác phẩm văn chương: thời lượng như nhau đối với mỗi phần tác giả, xuất xứ tác phẩm khi giảng dạy tác phẩm VHNN cũng như tác phẩm VHVN. Điều này cần phải xem xét lại. Mọi tác phẩm đều cần phải được tìm hiểu về cuộc đời nhà văn, phong cách sáng tác, các yếu tố khách quan tác động đến tư tưởng, giá trị tác phẩm. Tuy nhiên, với các tác giả văn học dân tộc, học sinh ít nhiều đã quen thuộc, từng đọc tác phẩm hoặc tiếp tục phân tích tác phẩm của tác giả đã học từ cấp THCS. Với những tác giả, tác phẩm ấy, nguồn tư liệu phong phú, dễ tìm, học sinh dễ tìm hiểu hơn và quá trình tiếp thu nhanh hơn. Còn các tác phẩm VHNN vốn từ lâu ít được chú trọng, không đưa nhiều vào các bài kiểm tra nên học sinh thường ít quan tâm, vì thế cũng không tìm hiểu nhiều thông tin bên ngoài SGK. Điều này có thể giúp giáo viên dễ áp đặt các ý kiến của mình cho học sinh và kết quả là lối suy nghĩ, cách hiểu đi vào sáo mòn, không có sự tìm tòi đổi mới. Việc tìm ra một quy trình giảng dạy đọc hiểu riêng cho tác phẩm VHNN trong đó đánh giá cao sự tự hiểu, tự đánh giá, sự chuẩn bị kĩ lưỡng của học sinh theo hướng dẫn của giáo viên chính là giải pháp tốt để đạt được hiệu quả cao trong giảng dạy các tác phẩm ấy. Để giải quyết những vấn đề trên, giải pháp đặt ra trước mắt đối với giáo viên dạy học VHNN, đó là: - Tăng cường kiến thức lịch sử và văn học của tác phẩm có liên quan. - Thường xuyên bổ sung tư liệu mới có liên quan đến tác phẩm (Cho đến nay, rất ít thầy cô được đọc trọn vẹn tác phẩm hoặc hiểu biết rõ về tác giả, mà đã dạy học đoạn trích). - Nên giới thiệu tác phẩm trọn vẹn để minh họa cho đoạn trích. Để đi tới quy trình hóa được việc lựa chọn và hoạt động dạy học là một công việc cần tiến hành trong một thời gian dài, với sự tham gia của nhiều người, nhiều chuyên gia, đặc biệt là đội ngũ thầy cô giáo đang đứng
- lớp. Giảng VHNN dễ gây hứng thú cho học sinh vì tính chất mới lạ của nó. Nếu thiếu cái nhìn toàn cảnh, chúng ta sẽ không khai thác được triệt để ưu thế này. 2.2.3. Quan niệm của giáo viên, học sinh về HĐNK trong dạy học văn học nước ngoài ở trường THPT 2.3.3.1. Quan niệm của giáo viên Giáo viên là những người trực tiếp giảng dạy các em nên nắm khá rõ tình hình học tập cũng như hứng thú của học sinh đối với bộ môn mình. Ưu thế của VHNN trong tổ chức HĐNK cho HS chính là giúp các em làm chủ tri thức nhân loại, mở rộng tầm nhìn cho HS, đồng thời giúp các em tự tin trong giao tiếp. Khi tổ chức HĐNK văn học nước ngoài, khó khăn lớn nhất giáo viên trả lời là do khác biệt về văn hóa, kinh nghiệm bản thân cũng như tìm các tài liệu tham khảo. Một số GV trẻ mới ra trường kỹ năng tổ chức còn hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong khâu xử lí tâm lí lứa tuổi của HS. Đây là một trong những vướng mắc lớn nhất khi tham gia tổ chức các HĐNK cho các em HS THPT. Trong quá trình thực hiện HĐNK, điều cốt yếu là làm sao phát huy tốt nhất năng lực tiếp nhận của học sinh. Việc vận dụng phối hợp các phương pháp khác nhau trong HĐNK chính là ưu điểm lớn của giáo viên trường THPT hiện nay. GV có thể dựa trên nhiều nguồn để sáng tạo các HĐNK với nhiều hình thức như: sân khấu hóa, xem phim, viết tham luận, nói chuyện về TPVH, hay lập diễn đàn qua mạng internet,… với tỉ lệ GV lựa chọn hình thức tương đương nhau. Trong quá trình tham gia vào HĐNK, bản thân người GV phải tự vận động tìm tòi nghiên cứu, ứng dụng, sáng tạo các phương pháp, hình thức mới. Nếu không đi vào chiều sâu bản chất của tiếp nhận văn học thì chưa khai thác tối đa hiệu quả của hoạt động này. Thực trạng dạy và học ngày nay cho
- thấy, GV chỉ đưa học sinh tới “nửa đường” tức là chưa đến được chân lý trong tác phẩm mà chỉ hiểu được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó như thế nào là đã đủ. Yêu cầu tiếp nhận tác phẩm văn học chưa được đáp ứng, vì vậy còn có một số lượng không nhỏ các em chưa thấy được cái hay của văn học nước ngoài. Rất nhiều HĐNK được tổ chức chưa mang lại hiệu quả như mong đợi. Đây là một trong những vấn đề phải ưu tiên giải quyết. Tóm lại, với sự nỗ lực cố gắng của GV và HS, HĐNK sẽ dần có chổ đứng trong dạy học VHNN, là ưu tiên cho quá trình dạy học theo phương pháp phổ thông “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Chúng tôi cho rằng, để khả năng tiếp nhận tác phẩm văn học nước ngoài của học sinh nâng cao hơn thì việc áp dụng HĐNK vào đổi mới phương pháp dạy học là rất cần thiết. 2.2.3.2. Quan niệm học sinh Trong quá trình dạy học VHNN, chúng tôi nhận thấy khó khăn lớn nhất của các em khi đọc hiểu VHNN là vấn đề văn hóa, lịch sử. Hầu hết các em bị động khi chỉ tìm cho mình được một nguồn thông tin duy nhất là sách giáo khoa . Khó khăn về tư liệu cộng với văn bản văn học nước ngoài thường khó hiểu, thầy cô cũng chưa thực sự hào hứng khi dạy các tác phẩm kinh điển của thế giới làm cho các em khó năm bắt, khó tiếp thu trong quá trình học. Điều này đặt ra yêu cầu về các hoạt động bên lề, kéo lại tinh thần học của các em. HS nắm được ý nghĩa của các HĐNK và mục tiêu mà các em hướng tới là kiến thức, kỹ năng và điểm số. Chính vì vậy, với các em, HĐNK có vai trò rất quan trọng trong dạy VHNN.
- Hầu hết HS muốn có một sân chơi đúng nghĩa về HĐNK văn học nước ngoài, phương pháp được các em yêu thích nhất là xem phim hoặc sân khấu hóa . Trên thực tế các HĐNK được tổ chức với mức độ “thỉnh thoảng” ở các trường THPT, điều này cũng là một hạn chế trong quá trình tiếp nhận thông tin bài học. Có nhiều nguyên nhân lí giải: nhà trường chưa thực sự lên kế hoạch cho những buổi seminar đúng nghĩa về VHNN, GV chưa có một giáo án ngoại khóa phù hợp, không khơi gợi được sự hứng thú của HS về nội dung ngoại khóa, hoặc có thể là nội dung học và ứng dụng cuộc sống chưa thực sự cao và hiệu quả,... Điều ngạc nhiên nhất là khi được hỏi là em có thích tham gia các HĐNK tác phẩm VHNN không, có đến 98% câu trả lời của các em là rất thích. Từ đây ta có thể thấy được rằng khát khao tham gia học tập, vui chơi giải trí bên lề học văn học nói chung và văn học nước ngoài nói riêng của thế hệ HS rất cao. Đây là một trong những điều thuận lợi cho công tác tổ chức các HĐNK. Để tham gia HĐNK đạt hiệu quả tốt học sinh cần có khâu chuẩn bị kỹ lưỡng. Đa số học sinh đều ý thức được điều này. Do vậy, khâu chuẩn bị thường làm theo hướng dẫn của giáo viên, mặt khác GV cũng tạo ra những không gian cho HS phát huy tính sáng tạo, tư duy. Điều này cũng cho thấy sự chu đáo của giáo viên văn học hiện nay trong dặn dò học sinh cuối tiết học. Phần vì HĐNK trong dạy học VHNN có nhiều cái mới, thú vị, phần vì được tham gia như một nội dung vừa học vừa chơi, nên các em tham gia với tâm thế sẵn sàng học hỏi, tiếp nhận mọi thử thách. Hầu hết các buổi HĐNK tổ chức đều có hiệu quả cao, kéo gần khoảng cách giữa tác phẩm và thực tế, cũng như kéo gần mối quan hệ thầy trò. Hiện nay phương tiện thông tin phổ biến do vậy tác phẩm văn học
- nước ngoài chuyển thể thành phim ảnh rất phổ biến (đặc biệt những tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc như: Tây Du Kí, Tam Quốc diễn nghĩa, Hồng Lâu Mộng, Liêu trai chí dị,…; hay như văn học phương Tây với các các tác phẩm điện ảnh kinh điển: Những người khốn khổ, Anna Karenina,…), sân khấu kịch (như Romeo & Juliet, Hamlet,…). Thuận lợi lớn nhất trong giờ HĐNK văn học nước ngoài chính là được tổng hợp nhiều nhân tố mà tạo nên tính hấp dẫn. Nhìn chung, học sinh phổ thông có nhiều ý kiến liên quan đến HĐNK VHNN của các nền văn học trên thế giới. Các em có nguyện vọng được tìm hiểu nhiều, tham gia nhiều, các em không chỉ lưu tâm đến tác phẩm hay đoạn trích của một vài tác phẩm tiêu biểu mà muốn hòa mình vào chính tác phẩm đó, để cảm thụ nhân vật đó sống như thế nào, thời đại đó như thế nào,… Cái các em hướng đến không chỉ là điểm số hay kiến thức mà đó còn là kĩ năng sống, thái độ sống. Mục đích cốt yếu khi tổ chức HĐNK cho HS chính là để HS cảm nhận được và thấy tác phẩm văn học nước ngoài gần gũi với cuộc sống của các em, thấy được những tình cảm của các nhân vật trong tác phẩm không chỉ là cá biệt mà là điển hình, là tính cách chung mà bất cứ ai cũng có… Làm được điều đó trách nhiệm lớn lao này là của giáo viên những người có nhiệm vụ giúp các em vén màn ngăn cách về hình thức, thể loại, về sự khác biệt văn hóa dân tộc để đến được thế giới nghệ thuật lung linh của văn học nước ngoài. 2.3. Định hướng tổ chức HĐNK trong dạy học văn học nước ngoài ở trường THPT 2.3.1. Những nguyên tắc cơ bản 2.3.1.1. Bám sát chương trình chính khóa Chú trọng rèn luyện cho HS những tri thức, phương pháp để họ biết
- cách đọc SGK và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, biết cách suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới,... Các tri thức phương pháp thường là những quy tắc, quy trình, phương pháp hành động, tuy nhiên cũng cần coi trọng cả các phương pháp có tính chất dụ đoán, giả định (ví dụ: các bước dự đoán, suy luận để phát triển tư duy năng lực của HS ,...). Cần rèn luyện cho HS các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hóa, khái quát hóa, tương tự, quy lạ về quen,... để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo cho các em. Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học) hay là các tiết hoạt động ở ngoài giờ học chính khóa. Chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của HS với nhiều hình thức như theo lời giải/ đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sữa chữa các sai sót. Việc bám sát mục tiêu giúp cho GV có được sự định hướng rõ ràng, không bị lệch khỏi những đường hướng đã đặt ra. Mục tiêu chính là kim chỉ nam hướng dẫn toàn bộ quá trình rèn luyện, khi có được mục tiêu rõ ràng chỉ cần tập trung thực hiện mà không bị mất thời gian với những thứ ngoài lề, không cần thiết. Đồng thời nguyên tắc bám sát chương trình chính khóa còn hổ trợ cho công cuộc dạy và học có hiệu quả hơn, thông thường nếu bám sát SGK thì học sinh sẽ có cái nhìn toàn diện hơn. Đặc biệt là đối với những tác phẩm đoạn trích, điều này thể hiện rõ các em ở nhà có chịu khó tìm hiểu bài trước khi lên lớp không. Để làm tốt phần đọc hiểu văn bản SGK, giáo viên cần giúp HS nắm được thế nào là hiểu một văn bản; các yêu cầu và hình thức kiểm tra cụ thể về đọc hiểu, lựa chọn những văn bản phù hợp với trình độ nhận thức và năng lực của HS để làm ngữ liệu hướng dẫn đọc hiểu; xây dựng các loại
- câu hỏi và hướng dẫn chấm một cách phù hợp với mục đích và đối tượng HS. Nội dung của HĐNK cũng không nằm ngoài những mục đích này. Yêu cầu của bám sát chương trình chính khóa chính là tập trung vào một số khía cạnh, như: nội dung chính và các thông tin quan trọng của văn bản, hiểu ý nghĩa của văn bản và tên văn bản; những hiểu biết liên quan tới từ ngữ, câu cú, cấu trúc hay thể loại văn bản,...; các biện pháp nghệ thuật trong văn bản và các tác dụng của chúng trong văn bản mang lại, không đi quá xa nội dung mà tác phẩm đề cập tới. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tổ chức HĐNK trong dạy học văn học nước ngoài nói riêng và dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung ở trường THPT. 2.3.1.2. Phát huy tính chủ động sáng tạo của người học PPDH theo quan điểm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học không chỉ chú ý tích cực hóa HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập qua các tiết học ngoài giờ chính khóa, các tiết học seminar, tăng cường kĩ năng làm việc nhóm qua các nội dung bài học, đổi mới quan hệ GV HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội của HS. Bên cạnh việc học tập những tri thúc và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. Những định hướng chung, tổng quát về đổi mới PPDH các môn học thuộc chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là: phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin,...), trên cơ sở đó trao dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy; HS
- có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện, tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc: “HS tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của GV”; Việc sử dụng PPDH g ắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học, tùy theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức thích hợp như: học cá nhân, học nhóm, học trong lớp hay học ở ngoài lớp với các hình thức như: viết tham luận, sân khấu hóa, xem phim,... Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho người học; Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã quy định, có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thất cần thiết với nội dung học và phù hợp với đối tượng học sinh, tích cực vận dụng công nghệ thông tin dạy học. Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Theo tinh thần này, GV là người tổ chức và chỉ đạo HS tiến hành các hoạt động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn,... Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương châm “tạo điều kiện cho HS nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn”. Điều đó có nghĩa, mỗi học sinh vừa cố gắng tự lực một cách độc lập, vừa hợp tác chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới. Lớp học trở thành môi trường giao tiếp thầy trò và trò trò nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập
- thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Giáo dục đạo đức học sinh thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
18 p | 1186 | 178
-
SKKN: Một số giải pháp quản lý - chỉ đạo hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học
25 p | 582 | 78
-
SKKN: Ứng dụng môn học Giáo dục quốc phòng và An ninh vào trò chơi lớn trong Hoạt động ngoại khoá
15 p | 386 | 73
-
SKKN: Một số biện pháp tổ chức hoạt động Câu lạc bộ tiếng Anh ở trường TH Hoàng Văn Thụ
37 p | 583 | 48
-
SKKN: Công tác phối hợp trong tổ chức phong trào thi đua và hoạt động ngoại khóa trong nhà trường
15 p | 497 | 42
-
SKKN: Một số kinh nghiệm trong việc tổ chức Hoạt động trải nghiệm sáng tạo – Sân khấu hóa trong bộ môn Ngữ Văn 7 tại trường THCS Lê Đình Chinh
21 p | 521 | 35
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên trong việc tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ mầm non
18 p | 221 | 19
-
SKKN: Tổ chức sinh hoạt ngoại khóa trong hoạt động tổ Văn
8 p | 102 | 14
-
SKKN: Nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử cho học sinh từ các hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm tại trường THPT Trần Hưng Đạo
45 p | 89 | 10
-
SKKN: Cách thức tổ chức một số hoạt động ngoại khóa giúp nâng cao năng lực giao tiếp – hợp tác cho HS THPT
50 p | 71 | 7
-
SKKN: Một số biện pháp tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp sáng tạo và hiệu quả tại trường THCS Lê Qúy Đôn
38 p | 45 | 6
-
SKKN: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Âm nhạc ngoại khoá ở Trường THCS
20 p | 45 | 6
-
SKKN: Một số biện pháp tổ chức lễ, hội ở trường lớp Mầm non EaTung
30 p | 98 | 5
-
SKKN: Một số kinh nghiệm chỉ đạo tổ chức tham quan ngoại khoá
8 p | 94 | 5
-
SKKN: Một số kinh nghiệm tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp đạt hiệu quả ở trường Tiểu học có học sinh Dân tộc thiểu số
27 p | 104 | 3
-
SKKN: Kinh nghiệm tổ chức chương trình sinh hoạt ngoài giờ lên lớp của trường Tiểu học Thị trấn Hoàng Mai A
24 p | 53 | 2
-
SKKN: Kinh nghiệm tổ chức hoạt động tìm hiểu địa lý địa phương qua trải nghiệm thực tế
32 p | 39 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn