intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính trong pháp luật Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Dxfgbfcvbc Dxfgbfcvbc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:39

1.436
lượt xem
178
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài Vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính trong pháp luật Việt Nam hiện nay nhằm trình bày các nội dung chính: vi phạm hành chính, trách nhiệm hành chính, thực trạng và xử lý vi phạm hành chính. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính trong pháp luật Việt Nam hiện nay

  1. SVTH : NHOM 7 Tiểu luận Vi Phạm Hành Chính và Trách Nhiệm Hành Chính trong pháp luật Việt Nam hiện nay GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 1
  2. SVTH : NHOM 7 MỤC LỤC Lời mở đầu ................................................................................................... 2 PHẦN I: VI PHẠM HÀNH CHÍNH ........................................................ 3 1.1. Khái niệm .............................................................................................. 3 1.2. Đặc điểm ............................................................................................... 3 1.3. Các văn bản pháp luật quy định ............................................................. 3 1.4. Các yếu tố cấu thành Vi Phạm Hành Chính ........................................... 3 1.4.1. Mặt khách quan .................................................................................. 3 1.4.2. Mặt chủ quan ...................................................................................... 5 1.4.3. Chủ thể vi phạm hành chính ............................................................... 6 1.4.4. Khách thể của vi phạm hành chính ..................................................... 7 1.5. Phân biệt giữa vi phạm hành chính và tội phạm..................................... 7 1.5.1. Mức độ gây thiệt hại cho xã hội .......................................................... 7 1.5.2. Mức độ tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần ........................................... 8 1.5.3. Công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm ................ 8 1.6. Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính ............................................. 9 PHẦN II – TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH ......................................... 11 2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hành chính ............................ 11 2.1.1. Khái niệm ......................................................................................... 11 2.1.2. Đặc điểm .......................................................................................... 11 2.2. Xử phạt Vi Phạm Hành Chính ............................................................. 13 2.2.1. Khái niệm ......................................................................................... 13 2.2.2. Đặc điểm .......................................................................................... 14 2.2.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác ............................................................................... 14 2.2.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ......................................... 21 2.2.5. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và thời hạn, thời hạn, thời hiệu trong xử phạt vi phạm hành chính .................................................... 22 2.2.6. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về xử phạt vi phạm hành chính ............. 24 PHẦN III – THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH .......... 26 PHẦN IV – KIẾN NGHỊ ......................................................................... 29 GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 2
  3. SVTH : NHOM 7 LỜI MỞ ĐẦU Vi phạm hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm nhưng do nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề này, nên đã có nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính của Hoàng Xuân Hoan - Nguyễn Trí Hòa (1993), NXB Thành phố Hồ Chí Minh; Hỏi đáp về Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính của Đặng Thanh Sơn - Hà Thị Nga (1996), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính của Phạm Dũng - Hoàng Sao (1998), NXB Pháp lý; Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn của tiến sĩ Vũ Thư (2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Vi phạm pháp luật và đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay (2003), Luận án tiến sĩ Luật học của Bùi Minh Thanh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải quan và giải pháp xử lý, Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Nguyễn Nam Ninh (2004), Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội … Hoặc một số công trình có đề cập nội dung rất nhỏ liên quan đến vi phạm pháp luật nói chung như: Chính sách đất đai của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Tôn Gia Huyên (trong cuốn bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2002); Về thực trạng chính sách đất đai ở Việt Nam của Phạm Hữu Nghị, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 8/2002; Tạp chí Quản lý nhà nước, 4/2001. Qua nghiên cứu các tài liệu trên và bài giảng của thầy Nhựt, nhóm sinh viên xin được giới thiệu khái quát về Vi Phạm Hành Chính và Trách Nhiệm Hành Chính trong pháp luật Việt Nam hiện nay. GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 3
  4. SVTH : NHOM 7 1. VI PHẠM HÀNH CHÍNH 1.1. Khái niệm : Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ýhoặc vô ý, vi phạm các quy đinh của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy đinh của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. 1.2. Đặc điểm: - Vi phạm hành chính là một trong bốn loại vi phạm pháp luật xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm này thấp hơn so với tội phạm nhưng vi phạm hành chính gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như không được ngăn chặn và xử lý kịp thời. - Vi phạm hành chính là hành vi trái với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như quy tắc về an toàn giao thông, quy tắc về an ninh trật tự an toàn xã hội ... 1.3. Các văn bản pháp luật quy định: Chính phủ đã ban hành khá nhiều văn bản pháp luật quy định về vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý đối với loại vi phạm này như Nghị định số 143/CP ngày 27/5/1977 của Chính phủ ban hành Điều lệ xử phạt vi cảnh, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/01/1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 6/7/1995 và văn bản đang có hiệu lực pháp lý thi hành là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 2/7/2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008). Cùng với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ đã ban hành các nghị định quy định cụ thể về việc xử lý các vi phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau ngoài xã hội.Nghị định 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 là một nghị định có hiệu lực hướng dẫn cho các nghị định xử lý vi phạm hành chính khác. 1.4. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính: Như bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, vi phạm hành chính được cấu thành bởi bốn yếu tố bao gồm mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. 1.4.1. Mặt khách quan: - Mặt khách quan của cấu thành vi phạm pháp luật là chỉ những gì thể hiện ra bên ngoài của hành vi vi phạm pháp luật. - Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành vi GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 4
  5. SVTH : NHOM 7 vi phạm hành chính tức là hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước và đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm. Việc bị ngăn cấm được thể hiện rõ ràng trong các văn bản pháp luật quy định về xử phạt hành chính, theo đó pháp luật quy định rằng những hành vi này sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện pháp xử phạt hành chính. Như vậy, khi xem xét, đánh giá hành vi cá nhân hay tổ chức có phải là vi phạm hành chính hay không, bao giờ cũng có những căn cứ pháp lý rõ ràng xác định hành vi đó phải được pháp luật quy định là sẽ xử phạt bằng các biện pháp xử phạt hành chính. - Không được áp dụng “nguyên tắc suy đoán vi phạm” hoặc “áp dụng pháp luật tương tự” trong việc xác định vi phạm hành chính. - Đối với một số loại vi phạm hành chính cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp với những yếu tố khác. Thông thường những yếu tố này có thể là: a/ Thời gian thực hiện hành vi vi phạm: Ví dụ: Căn cứ điểm l khoản 1 Điều 8 Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính là: “Bấm còi hoặc gây ồn ào, tiếng động lớn làm ảnh hưởng đến sự yên tĩnh trong đô thị và khu đông dân cư trong thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 5 giờ ngày hôm sau, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định” b/ Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm: Ví dụ: - Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 16 Nghị định 45/2005/NĐ-CP ngày 06/4/2005 của Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính là: “Hút thuốc lá, thuốc lào ở nơi công cộng như: trong rạp hát, rạp chiếu phim, phòng họp, phòng làm việc, bệnh viện, thư viện, phòng đợi của nhà ga, bến xe, sân bay, bến cảng, trên các phương tiện giao thông công cộng hoặc ở những nơi công cộng khác có quy định cấm”. - Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 19 Nghị định 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính là: “Kinh doanh trò chơi điện tử ở địa điểm cách trường học dưới 200 m hoặc quá 22 giờ đêm đến 8 giờ sáng” c/ Công cụ phương tiện vi phạm: Một hành vi vi phạm hành chính thường là do một chủ thể gây ra, nhưng bên cạnh đó người vi phạm có phương tiện công cụ dùng để vi phạm. Ví dụ: Hành vi điều khiển xe lạng lách hoặc đánh võng trên đường bộ trong, ngoài đô thị vi phạm điểm b khoản 7 điều 9 nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 5
  6. SVTH : NHOM 7 02/04/2010 thì phương tiện vi phạm ở đây là xe máy được sử dụng cho hành vi vi phạm là phương tiện vi phạm. d/ Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Nói chung hậu quả của vi phạm hành chính không nhất thiết là thiệt hại cụ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hành vi của tổ chức, cá nhân bị coi là vi phạm hành chính khi hành vi đó đã gây ra những thiệt hại cụ thể trên thực tế. Ví dụ : Hành vi làm rơi gỗ, đá hoặc các vật phẩm khác được coi là hành vi xâm phạm công trình giao thông đường sắt theo quy định của khoản 5 Điều 32 Nghị định số 44/2006/NĐ- CP ngày 25/04/2006 khi "gây tai nạn cho đoàn tàu chạy qua hoặc cho người đi trên tàu nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự". Trong các trường hợp này, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính với thiệt hại cụ thể đã xảy ra là cần thiết để bảo đảm nguyên tắc cá nhân, tổ chức chỉ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do chính hành vi của mình gây ra. 1.4.2. Mặt chủ quan: - Mặt chủ quan của cấu thành vi phạm pháp luật là những gì thể hiện bên trong của chủ thể khi có hành vi vi phạm pháp luật. - Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc nhận thức được điều đó nhưng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Khi có đủ căn cứ để cho rằng chủ thể thực hiện hành vi trong tình trạng không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã không có vi phạm hành chính xảy ra. Ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành chính, ở một số trường hợp cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc của một số loại vi phạm hành chính. Ví dụ: Hành vi gây ảnh hưởng đến việc giữ gìn vệ sinh chung sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi đổ nước hoặc để nước chảy ra khu tập thể, lòng đường, vỉa hè, nhà ga, bến xe, nơi công cộng, trên các phương tiện giao thông hoặc ở những nơi khác làm mất vệ sinh chung.theo điểm b khoản 01 điều 09 nghị định 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005. Nhưng nếu nhà người ta bị bể ống nước thì không phạt được, hoặc khi phát hiện ra hành vi vi phạm đến lúc lập được biên bản thì nước đã khô. GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 6
  7. SVTH : NHOM 7 - Đối với tổ chức vi phạm hành chính, có ý kiến cho rằng lỗi chỉ là trạng thái tâm lý của cá nhân trong khi thực hiện hành vi vi phạm nên không đặt ra vấn đề lỗi đối với tổ chức vi phạm hành chính. Khi xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, chỉ cần xác định tổ chức đó có hành vi trái pháp luật hành chính và hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử phạt bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính là đủ. Quan điểm khác lại cho rằng cần phải xác định lỗi của tổ chức khi vi phạm hành chính thì mới có đầy đủ cơ sở để xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức vi phạm. Theo quan điểm này, lỗi của tổ chức được xác định thông qua lỗi của các thành viên trong tổ chức đó khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao. Về phương diện pháp luật, pháp lệnh xử ly vi phạm hành chính hiện hành quy định chung rằng tổ chức phải chịu trách nhiệm về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra và có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời, còn phải có trách nhiệm xác định lỗi của người thuộc tổ chức của mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và để bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Ví dụ: xử phạt vi phạm hành chính đối với nhà thầu thi công công trình xây dựng sai phép hoặc không phép. 1.4.3. Chủ thể vi phạm hành chính : Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính. Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính phải là người không mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định, theo điều 6 của pháp lệnh: a/ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính trong trường hợp thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy, khi xác định người Ở độ tuổi này có vi phạm hành chính hay không cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành không định nghĩa thế nào là có lỗi cố ý hoặc vô ý trong vi phạm hành chính. Tuy nhiên, như đã phân tích Ở trên, thông thường người thực hiện hành vi với lỗi cố ý là người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm đoán nhưng vẫn cố tình thực hiện. b/ Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính trong mọi trường hợp. c/ Tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 7
  8. SVTH : NHOM 7 và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật; Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp diều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. 1.4.4. Khách thể của vi phạm hành chính : - Khách thể của vi phạm hành chính chỉ các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng đã bị các hành vi vi phạm hành chính xâm hại. - Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật hành chính quy định và bảo vệ. 1.5. Phân biệt giữa vi phạm hành chính và tội phạm : Dấu hiệu căn bản để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm hình sự là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. - Vi phạm hành chính là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. - Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm thấp hơn so với tội phạm hình sự. Trong nhiều trường hợp trên thực tế, ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự rất khó xác định. Vì vậy, nếu không giải quyết đúng đắn vấn đề này rất dễ xảy ra tình trạng "để lọt tội phạm" hoặc " xử lý oan người vi phạm chưa đến mức phạm tội". Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm được đánh giá ở nhiều yếu tố khác nhau và những yếu tố này thường được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Căn cứ vào các quy định hiện hành, việc đánh giá mức độ nguy hiểm của tội phạm và vi phạm hành chính thường dựa vào những căn cứ dưới dây: 1.5.1. Mức độ gây thiệt hại cho xã hội : Mức độ gây thiệt hại có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như mức độ gây thương tật, giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị hàng hóa phạm pháp ... Dựa vào dấu hiệu này, ta có thể phân biệt ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự. Ví dụ: Khoản 1 Điều 138 Bộ Luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định: " Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng ... thì bị ... ". Như vậy, nếu như giá trị tài sản bị trộm cắp dưới mức quy định nêu trên thì người vi phạm chỉ bị xử phạt hành chính về hành vi "trộm cắp GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 8
  9. SVTH : NHOM 7 vặt" theo quy định của khoản 1 Điều 18 Nghị định của Chính phủ số 150/2005/NĐ- CP ngày 12/12/2005; 1.5.2. Mức độ tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần : Dấu hiệu này cũng có thể giúp chúng ta xác định được ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính. Trong Bộ Luật hình sự, nhiều loại tội phạm được nhà làm luật mô tả là “đã bị xử phạt hành chính”. Trong những trường hợp này, nếu chỉ đánh giá về mặt hành vi thì khó xác định được đó là tội phạm hay vi phạm hành chính mà phải căn cứ vào dấu hiệu tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần. Ví dụ: Điều 161 Bộ Luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định: " Người nào trốn thuế với số tiền từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế ... thì bị ... ". Như vậy, trường hợp này nếu trốn thuế dưới 100 triệu đồng nhưng tái phạm thì mới bị coi là vi phạm tội phạm 1.5.3. Công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm : Đây cũng là một căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Ví dụ: Điều 104 Bộ Luật hình sự quy định: “Người nào cố ý gây thương tích ... mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì ... a. Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người”. Như vậy, nếu gây thương tật dưới 11 % nhưng dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người thì cũng bị coi là hành vi phạm tội thuộc khung hình phạt như từ 11% đến 30%). Trong xử lý vi phạm hành chính, phải tuân thủ triệt để quy định có tính nguyên tắc liên quan đến việc xác định ranh giới tội phạm và vi phạm hành chính, đó là " Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền. Nghiêm cấm việc giữ lại các vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử lý hành chính. Đối với các trường hợp đã ra quyết định xử phạt, nếu sau đó phát hiện hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra quyết đinh xử phạt phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền". 1.5.4. Ngoài mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vi phạm hành chính và tội phạm còn phân biệt với nhau ở một số dấu hiệu pháp lý khác: - Tội phạm là loại vi phạm được quy định trong Bộ Luật hình sự và chỉ có Quốc hội mới có quyền đặt ra các quy định về tội phạm và hình phạt. GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 9
  10. SVTH : NHOM 7 - Vi phạm hành chính được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như luật, pháp lệnh hoặc nghị định. - Hai loại vi phạm này cũng khác nhau ở yếu tố chủ thể. Trong khi chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức, chủ thể của tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự nước ta chỉ có thể là cá nhân. 1.6. Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính : 1. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.( Theo điều 03 Pháp lệnh Xử Lý Vi Phạm Hành Chính 2002) 2. Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính do pháp luật quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội, pháp lệnh của ủy ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ. Các văn bản do Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ban hành để chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền không được quy định hành vi vi phạm hành chính và hình thức, mức xử phạt; Cá nhân chỉ bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác nếu thuộc một trong các đối tượng được quy định tại các điều 23, 24, 25, 26 và 27 của Pháp Lệnh Vi Phạm Hành Chính . 3. Việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. 4. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần, cụ thể: a) Một hành vi vi phạm đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra quyết định xử phạt lần thứ hai đối với chính hành vi đó nữa. Trong trường hợp hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt ra lệnh đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 8 Điều 9 của Pháp lệnh; b) Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt thì không đồng thời áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác quy định tại Điều 22 của Pháp Lệnh đối với hành vi đó; GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 10
  11. SVTH : NHOM 7 c) Trong trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm bị chuyển hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự mà trước đó đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người đã quyết định xử phạt phải huỷ bỏ quyết định xử phạt; nếu chưa ra quyết định xử phạt thì không xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đó (điều 62 PLXLVPHC) d) Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi đó và người có thẩm quyền xử phạt căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà ra quyết định xử phạt đối với từng người cùng thực hiện vi phạm hành chính (điều 3 của pháp lệnh). e) Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm; người có thẩm quyền chỉ ra một quyết định xử phạt trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm; nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì cộng lại thành mức phạt chung (khoản 2 Điều 56 của Pháp Lệnh.). 5. Việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp (điều 3 của Pháp Lệnh) 6. Không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. (điều 3 của Pháp Lệnh). GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 11
  12. SVTH : NHOM 7 2. TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH 2.1- Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hành chính : 2.1.1. Khái niệm : Trong giao tiếp ngôn ngữ hàng ngày, thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, tuỳ theo lĩnh vực và ngữ cảnh cụ thể; như trong lĩnh vực chính trị đạo đức,“trách nhiệm” được hiểu theo nghĩa bổn phận, vai trò, mang tính tích cực, xuất phát từ ý thức của con người về vị trí, vai trò của mình đối với xã hội, đối với những người thân thích… Còn trong lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu theo hai nghĩa:  Trách nhiệm là nghĩa vụ (nghĩa tích cực).  Trách nhiệm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật, đó là sự phản ứng, lên án của Nhà nước và xã hội đối với những chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội. Trách nhiệm hành chính mà chúng ta tìm hiểu có thể được hiểu theo nghĩa thứ hai. Để có căn cứ xác định thế nào là trách nhiệm hành chính, trước tiên chúng ta cũng cần phải biết thế nào là trách nhiệm pháp lý, vì trách nhiệm hành chính là một dạng cụ thể của trách nhiệm pháp lý.  Trách nhiệm pháp lý theo lý luận chung, đó là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật điều chỉnh; trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật. Như vậy, từ những căn cứ trên ta có thể khẳng định rằng: Trách nhiệm hành chính là một dạng của trách nhiệm pháp lý được áp dụng trong hoạt động quản lý, hoạt động hành chính nhà nước theo quy định của pháp luật hành chính. Đó là sự áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính mang tính chất xử phạt hoặc khôi phục lại những quyền và lợi ích bị xâm hại được quy định trong những chế tài của quy phạm pháp luật hành chính, bởi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đối với những chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Trách nhiệm hành chính thể hiện sự phản ứng tiêu cực của cơ quan nhà nước đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Kết quả là chủ thể đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, bị thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần. 2.1.2. Đặc điểm : trách nhiệm hành chính có các đặc điểm sau đây: a). Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính : GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 12
  13. SVTH : NHOM 7 Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức, cá nhân nào đó thì cần phải xác định được cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý để làm căn cứ cho việc truy cứu.  Về cơ sở thực tiễn thì trách nhiệm pháp lý chỉ đặt ra đối với những chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.  Về cơ sở pháp lý đó là những quy định của pháp luật hiện hành có liên quan đến vi phạm pháp luật đó về thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết các vụ việc đó. Vì thế, để tiến hành truy cứu trách nhiệm hành chính đối với tổ chức, cá nhân thì cần phải xác định cụ thể họ có thực hiện việc vi phạm hành chính trên thực tế hay không. Truy cứu trách nhiệm hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về bản chất là việc áp dụng các hình thức, biện pháp xử phạt hành chính đối với tổ chức, cá nhân đó. Người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính sẽ ra quyết định buộc các chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hành chính phải thực hiện các biện pháp chế tài hành chính, đó là những biện pháp buộc những đối tượng bị truy cứu trách nhiệm hành chính phải chịu những hạn chế về quyền tài sản hoặc tự do. Từ sự phân tích trên ta có thể hiểu: Một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm hành chính khi có đầy đủ cơ sở để chứng minh được họ đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính và biện pháp chế tài hành chính áp dụng đối với họ phải có mục đích phạt vi phạm. Có thể thấy được rằng vi phạm hành chính chỉ là cơ sở chung để truy cứu trách nhiệm hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. Vấn đề là tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính có bị truy cứu trách nhiệm hành chính trên thực tế hay không còn phụ thuộc vào việc thực hiện nhiều quy định pháp luật khác có liên quan.  Ví dụ: Căn cứ vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính thì tổ chức và cá nhân đã thực hiện vi phạm hành chính, nhưng vi phạm hành chính đó đã hết thời hiệu xử phạt theo quy định của pháp luật, do đó, trách nhiệm hành chính cũng sẽ không đặt ra đối với họ trong trường hợp này. Việc xác định cụ thể chủ thể vi phạm hành chính (tổ chức, cá nhân) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần giúp ta có thể phân biệt được trách nhiệm hành chính với trách nhiệm hình sự (cá nhân thực hiện hành vi phạm tội). b). Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm trước Nhà nước: Đó là việc tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính đã xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước do Nhà nước thiết lập. Vì thế, Nhà nước buộc các tổ chức, cá nhân trên phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi để bảo vệ trật tự quản lý hành chính nhà nướcmà mình đã thiết lập. Việc thực hiện biện pháp chế tài của các tổ chức, cá GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 13
  14. SVTH : NHOM 7 nhân vi phạm hành chính là trách nhiệm của họ trước Nhà nước chứ không phải trước các chủ thể khác. Đây là điểm khác biệt giữa trách nhiệm hành chính với trách nhiệm dân sự (Vì trong trách nhiệm dân sự, việc phải thực hiện các biện pháp chế tài của tổ chức, cá nhân bị truy cứu trách nhiệm dân sự là nghĩa vụ của họ trước một tổ chức hay cá nhân cụ thể có quyền và lợi ích bị xâm hại, Nhà nước chỉ là chủ thể có vai trò đảm bảo việc thực hiện đầy đủ các biện pháp chế tài dân sự của bên vi phạm đối bên bị vi phạm). c). Việc truy cứu trách nhiệm hành chính phải được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật hành chính Cụ thể: Pháp luật hành chính của Nhà nước ta đã quy định cụ thể những người có thẩm quyền thực hiện hoạt động truy cứu trách nhiệm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. Hiện nay, thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính được trao cho nhiều cơ quan tổ chức khác nhau, nhưng những người được trao thẩm quyền này trước hết và chủ yếu vẫn là những người có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp đặc biệt, thẩm quyền trên cũng được trao cho Thẩm phán Toà án nhân dân và Chấp hành viên của cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài ra, quá trình truy cứu trách nhiệm hành chính phải đảm bảo lựa chọn và áp dụng đúng các biện pháp chế tài hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. Truy cứu trách nhiệm hành chính phải được tiến hành theo thủ tục hành chính do pháp luật hành chính quy định. Truy cứu trách nhiệm pháp lý nói chung và trách nhiệm hành chính nói riêng đều tác động trực tiếp đến việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đối tượng có liên quan. Vì vậy, khi tiến hành việc truy cứu trách nhiệm hành chính, các chủ thể có thẩm quyền bắt buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về thủ tục do pháp luật đặt ra, chẳng hạn: Người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính phải thực hiện các công việc theo đúng trình tự về thời gian, không gian của sự việc…Như vậy thì mới đảm bảo việc có đầy đủ căn cứ cần thiết để tiến hành truy cứu trách nhiệm hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính một cách nhanh chóng, kịp thời trong thời hạn pháp luật quy định nhưng vẫn đạt hiệu quả cao. 2.2. Xử phạt vi phạm hành chính : 2.2.1. Khái niệm : Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 14
  15. SVTH : NHOM 7 hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường hợp cần thiết, theo quy định của pháp luật) đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. 2.2.2. Đặc điểm : Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính có đặc điểm sau đây:  Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, vi phạm hành chính là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các nghị định hướng dẫn thi hành của chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức, biện pháp xử phạt hành chính áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước cụ thể là những cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính.  Xử phạt hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính các văn bản pháp luật khác có quy định về xử phạt vi phạm hành chính quy định cụ thể các chủ thể có thầm quyền xử phạt vi phạm hành chính, hình thức, mức độ xử phạt hành chính mà họ được phép áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính;  Xử phạt vi phạm hành chính dược tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;  Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở quyết định xử phạt vi phạm hành chính ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vì phạm hành chính. Việc quyết định áp dụng biện pháp xử phạt đó ngoài việc thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nước đôi với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính còn hướng tới mục đích giáo dục cho mọi người ý thức tuân thủ pháp luật hành chính nói riêng và pháp luật nói chung, ý thức tôn trọng các quy tắc của đời sống cộng đồng, phòng ngừa các vi phạm pháp luật có thể xảy ra. 2.2.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác a). Các hình thức xử phạt chính: Đối với mỗi vi phạm hành chính, tổ chức, cá nhân, vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt hành chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền:  Cảnh cáo: Hình thức này được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến ~ 16 tuổi thực hiện. Khi xử phát cảnh cáo, GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 15
  16. SVTH : NHOM 7 người có thẩm quyền quyết định xử phạt bằng văn bản. Như vậy, chỉ có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc tổ chức vi phạm hành chính khi có đủ điều kiện sau đây: - Hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện được văn bản pháp luật quy định là có thể ấp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Nếu loại vi phạm mà tổ chức cá nhân đó thực hiện mà pháp luật quy định chỉ bị áp dụng hình thức phạt tiền thì không được phép áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. - Việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo dối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính chỉ được thực hiện khi đó là vi phạm lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ theo quy định của Điều 8 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính. Hình thức xử phạt cảnh cáo khác với hình phạt cảnh cáo khi vi phạm tội phạm. Người bị tòa án tuyên hình phạt cảnh cáo theo thủ tục tố tụng hình sự được coi là có án tích và bị ghi vào lí lịch tư pháp. Trong khi đó hình thức xử phạt hành chính cảnh cáo là hình thức xử phạt mang tính giáo dục dối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính; đối tượng bị áp đụng hình thức xử phạt cảnh cáo không được coi là có án tích và không bị ghi vào lí lịch tư pháp. * Phân biệt hình thức xử phạt cảnh cáo với hình thức kỉ luật cảnh cáo áp dụng đối với cán bộ, công chức : - Hình thức xử phạt cảnh cáo được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân: có hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Hình thức xử phạt cảnh cáo do người có thẩm quyển xử phạt vi phạm hành chính quyết định áp đụng, theo thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đã được pháp luật quy định - Hình thức kỷ luật cảnh cáo áp dụng đối với cán bộ, công chức (trừ những người được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kì trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội) có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật, thông thường là các quy định về các việc mà cán bộ công chức không được làm, các quy định về nội quy làm việc trong cơ quan, đơn vị nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Hình thức kỉ luật cảnh cáo do thủ hưởng cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ, công chức áp dụng đối với các cán bộ, công chức thuộc quyền theo thủ tục xử lí kỉ luật do pháp luật quy định.  Phạt tiền: Phạt tiền là hình thức xử phạt chính được quy định tại Điều 14 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính nếu không thuộc trường hợp bị xử phạt cảnh cáo thì bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính là từ 10.000 đồng đến 500.000.000 đồng. GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 16
  17. SVTH : NHOM 7 Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định như sau (Pháp lệnh sữa đổi, bổ sung năm 2008): a) Phạt tiền tối đa đến 30.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quản lý và bảo vệ các công trình giao thông; khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi; lao động; đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hoá; kế toán; thống kê; tư pháp; bảo hiểm xã hội; phòng cháy, chữa cháy; b) Phạt tiền tối đa đến 40.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: giao thông đường bộ; giao thông đường thủy nội địa; văn hoá - thông tin; du lịch;phòng, chống tệ nạn xã hội; đê điều, phòng chống lụt, bão; y tế; giá; điện lực; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; thú y; giống cây trồng; giống vật nuôi; quốc phòng; dân số và trẻ em; lao động đi làm việc ở nước ngoài; dạy nghề; biên giới quốc gia; c) Phạt tiền tối đa đến 70.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: thương mại; phí, lệ phí; hải quan; an toàn và kiểm soát bức xạ; giao thông đường sắt; bưu chính, viễn thông và tần số vô tuyến điện; chuyển giao công nghệ; kinh doanh bảo hiểm; quản lý vật liệu nổ công nghiệp; thể dục, thể thao; d) Phạt tiền tối đa đến 100.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: hàng hải; hàng không dân dụng; khoa học, công nghệ; đo đạc, bản đồ; giáo dục; công nghệ thông tin; tài nguyên nước; thuế; e) Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: bảo vệ môi trường; chứng khoán; xây dựng; đất đai; ngân hàng; sở hữu trí tuệ; quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; nghiên cứu, thăm dò và khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí và các loại khoáng sản khác. * Đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước mà chưa được quy định tại các lĩnh vực trên đây thì Chính. phủ quy định mức phát tiền, nhưng tối đa không vượt quá 100.000.000 đồng. * Trong trường hợp luật quy định mức phạt tiền tối đa khác với quy định tại được đề cập trong Pháp lệnh thì áp dụng theo quy định của luật. Việc lựa chọn, áp đụng mức tiền phạt đối với người vi phạm phải trong khung phạt cụ thể được văn bản pháp luật quy định cho loại vi phạm đã thực hiện theo mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 17
  18. SVTH : NHOM 7 tiết giảm nhẹ thì áp đụng mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức phạt tiền có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt. Việc lựa chọn, áp dụng mức tiền phạt đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính được quy định như sau : - Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính, chỉ bị phạt cảnh cáo, không bị phạt tiền. - Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính được Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định. Khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không được quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên, trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp phạt thay. Ngoài ra, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định: - Khi quyết định xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền chỉ ra một quyết định .xử phạt trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm, nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì được cộng lại thành mức phạt chung. - Cá nhân, tổ chức vi phạm bị phạt tiền có thể nộp tiền phạt tại chỗ hoặc tại kho bạc nhà nước theo đúng quy định của pháp luật và được nhận biên lai thu tiền phạt.  Trục xuất. Trục xuất là việc buộc người nước ngoài vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt Nam phải rời khỏi Việt Nam. Chính phủ quy định thủ tục trục xuất. Trục xuất vừa là hình thức phạt chính vừa là hình thức phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.Trục xuất là hình thức phạt chính khi được áp dụng độc lập hoặc là hình thức phạt bổ sung khi được áp dụng kèm theo hình thức phạt chính khác. b). Các hình phạt bổ sung : Ngoài các hình thức xử phạt chính, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm còn có thể bị áp đụng một hoặc các hình thức xử phạt bố sung là: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.  Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề của tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính có thời hạn hoặc không thời hạn khi tổ chức, cá nhân đó đã vi GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 18
  19. SVTH : NHOM 7 phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề đó. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Hình thức xử phạt được áp dụng khi có đủ hai điều kiện sau: - Văn bản pháp luật về xử phạt hành chính quy định có thể áp dụng biện pháp xử phạt này đối với vi phạm hành chính cụ thể nào đó; - Cá nhân, tổ chức đã có hành vi trực tiếp vi phạm quy tấc sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề do những người có thẩm quyền được pháp luật quy định (Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh, Trưởng công an cấp huyện, cấp tỉnh, Chi cục trưởng cục kiểm lâm…) áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. Pháp luật quy định rõ ai có thẩm quyền được tước quyền sử đụng những loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề nào. Trong trường hợp xử lý vụ việc vi phạm hành chính nếu phát hiện giấy phép, chứng chỉ hành nghề cấp không đúng thẩm quyền hoặc giấy phép có nội dung trái pháp luật thì người có thẩm quyền xử phạt phải tiến hành thu hồi ngay đồng thời báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết.  Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính: Là việc người có thẩm quyền xử phạt quyết định áp dụng biện pháp tịch thu để sung vào công quỹ nhà nước các tài sản, vật dụng, hàng hóa, tiền bạc ... dùng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc do vi phạm hành chính mà có. Khi áp dụng hình thức này cần lưu ý dối với vật, tiền bạc, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính thuộc các hình thức sở hữu hợp pháp bị tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính chiếm đoạt một cách bất hợp pháp hoặc sử dụng trái phép thì không được tịch thu mà phải trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là những hình thức phạt bổ sung, vì vậy, không được áp dụng một cách độc lập mà luôn được áp dụng theo với hình thức xử phạt chính (trừ trường hợp pháp luật quy định khấc). Điều này có nghĩa là khi một tổ chức hay cá nhân bị xử phạt hành chính, nhất thiết sẽ bị áp dụng hình thức xử phạt chính ngoài ra họ có thể bị áp dụng kèm theo các hình thức xử phạt bổ sung. Cụm từ "áp dụng kèm theo" ở đây không nên hiểu một cách máy móc là phải do cùng một người có thẩm quyền quyết định áp dụng và ghi nhận trong cùng văn bản áp dụng hình thức xử phạt chính mà chúng có thể do các cấp khác nhau có thẩm GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 19
  20. SVTH : NHOM 7 quyền quyết định áp dụng và cố nhiên nó có thể được ghi nhận trong các văn bản áp dụng khác nhau. c) Các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra: Trong nhiều trường hợp ngoài việc bị áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính như đã nêu trên, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng các biện pháp khấc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Về mặt bản chất, biện pháp cưỡng chế hành chính này không có tính trừng phạt người vi phạm hành chính mà chỉ nhằm mục đích khắc phục những hậu quả do vi phạm hành chính dã để lại trên thực tế. Các biện pháp này bao gồm: a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép; b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra; c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện; Biện pháp này được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong trường hợp đưa hàng hóa, vật phẩm, phương tiện vào lãnh tổ Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc hàng tạm nhập tái xuất nhưng không được tái xuất đúng với quy định của pháp luật thì buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất. Pháp luật quy định trong các trường hợp trên, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí để thực hiện biện pháp này. d) Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá phẩm độc hại; e) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định Việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra nêu trên phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: - Chỉ được áp dụng khi văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính cho phép áp dụng đối với vi phạm hành chính cụ thể đó; - Khi áp dụng phải tuân thủ triệt để pháp luật về thẩm quyền, thủ tục áp dụng. d). Các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử phạt vi phạm hành chính Khi phát hiện tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính, để ngăn chặn kịp thời không cho vi phạm của họ tái diễn, đảm bảo cho việc xử lý cũng như thi hành quyết định xử lý sau này có hiệu quả, người có thẩm quyền tùy từng trường hợp cụ thể do pháp luật quy định có thể áp dụng các biện pháp sau đây theo thủ tục hành chính: GVHD : Ths-Luật sư : Lê Minh Nhựt 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2