intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Sự cần thiết của việc thực hiện trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA 8000 của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập WTO

Chia sẻ: Nguyễn Ngoc Tuấn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:49

124
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận về trách nhiệm xã hội, thực trạng sự cần thiết của việc thực hiện trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA 8000 của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập WTO, một số kiến nghị và giải pháp

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Sự cần thiết của việc thực hiện trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA 8000 của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập WTO

  1. LỜI  MỞ ĐẦU Việt Nam của chúng ta đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế  giới WTO vào ngày 7/11/2006. Điều này đã mở ra cho chúng ta những cơ hội lớn trong   việc xâm nhập vào thị trường quốc tế để từ đó nâng tầm vị thế của chúng ta trong mắt  bạn bè quốc tế. Nó còn tạo ra những cơ hội lớn trong việc tiếp cận với những công  nghệ   kỹ thuật hiên đại, học hỏi được những chiêu thức và đường hướng của những  đại gia kinh tế sừng sỏ. Nhưng song song với với việc này chúng ta cũng gặp không ít  những khó khăn, việc cạnh tranh về sản phẩm,thị  phần là một vấn đề  vô cùng khốc   liệt mà đất nước ta còn phải đối mặt nay và trong tương lai. Đặc biệt trong hoàn cảnh ngày nay nhân loại đang đứng trước những nguy cơ  lớn về  khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực và trái đất ấm dần lên do hiệu ứng   khí thải.Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu khời đầu từ nườc Mỹ đã nhanh chóng lan   rộng sang các nước khác trên thế giới. Vấn đề  đặt ra trách nhiệm của nhà nước, trách  nhiệm của thị trường và doanh nhân,trách nhiệm và quyền giám sát của người dân có   những thiếu sót gì để dẫn đến những thảm hoạ như vậy? Và để  hội nhập vào thị  trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải đáp  ứng  được những đòi hỏi, tiêu chuẩn ngày càng cao từ  phía người tiêu dùng.Ngoài yêu cầu  về giá cả, chất lượng, còn những giá trị đạo đức của nhà sản xuất. Đó chính là những  chính sách đối với người lao động, là sự  bảo đảm về  tiền lương, thu nhập và an toàn  lao động… Nhất là khi người tiêu dùng tại Mỹ, Canada và các nước châu Âu ngày càng  quan tâm đến các điều kiện này khi mua các sản phẩm có nguồn gốc từ các nước đang   phát triển.Vì vậy xuất phát từ  tình hình thực tế  của các doanh nghiệp và tầm quan  trọng của công tác trách nhiệm xã hôi em đã chọn đề  tài “Sự  cần thiết của việc thực   hiện trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA 8000 của các doang nghiệp Việt Nam trong   thời kỳ hội nhập WTO” làm chuyên đề này 
  2. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XàHỘI I. Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm xã hội  1. Khái niệm trách nhiệm xã hội doanh nghiệp       CSR: Corporate social responsibility  CSR là khái niệm mới xâm nhập vào Việt Nam khoảng hơn 10 năm  CSR là luật chơi mới trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự  do hóa thương mại  (Cạnh tranh toàn cầu)  Năm 1973 Keith Davis đã đưa ra một khái niệm khá rộng: “CSR là sự  quan tâm và  phản ứng của doanh nghiệp với các vấn đề vượt ra ngoài việc thoả mãn những yêu   cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”.  Archie Carroll (1999) còn cho rằng CSR có phạm vi rộng lớn hơn: “CRS bao gồm   sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các   tổ chức tại một thời điểm nhất định”.        Theo Matten và Moon (2004) lại cho rằng: “CSR là một khái niệm chùm bao gồm  nhiều khái niệm khác nhau như  đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp là từ  thiện, công   dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi trường. Đó là một khái niệm   động và luôn được thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù”…  Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là điều kiện ràng buộc đối với các hợp đồng xuất   khẩu sang các nền kinh tế phát triển, buộc phải tuân thủ khi ký kết hợp đồng.  Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp thể hiện qua các yêu cầu về tuân thủ chế độ lao  động tốt, an toàn vệ sinh thực phẩm, sản phẩm sạch và bảo vệ môi trường  Hội đồng Doanh nghiệp thế  giới vì sự  phát triển bền vững: "CRS là sự  cam kết  trong việc ứng xử hợp đạo lý và đóng góp vào sự phát triển kinh tế, đồng thời cải   thiện chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình họ, cũng như  của  cộng đồng địa phương và của toàn xã hội nói chung”   Phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế  giới (WB): “CRS là sự  cam kết của  doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những việc   làm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên trong gia   đình họ; cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả  doanh nghiệp cũng  như phát triển chung của xã hội”…      * Theo ông Thomas Thomas, CEO – Singapore Compact (www.csrsingapore.org)   Mục tiêu kinh doanh của DN đang thay đổi dần theo xu hướng:   Lợi nhuận or (hoặc) môi trường + con người 
  3.  Lợi nhuận and (và) môi trường + con người  Lợi nhuận is (là) môi trường + con người.   CSR được coi là 1 yếu tố quan trọng như những yếu tố truyền thống khác như  chi  phí, chất lượng và giao hàng trong kinh doanh. CSR được lồng ghép vào chiến lược  của DN và trở thành điều kiện bắt buộc để DN tồn tại và phát triển.   Tuy nhiên, khái niêm CSR còn mới với nhiều DN tại VN (Việt Nam) và năng lực   quản lý, kiến thức chuyên môn trong thực hiện CSR ở DN còn hạn chế  Diễn giải cụ thể tất cả nội dung trên về CSR trong thời hội nhập toàn cầu hoá kinh  tế hiện nay có thể hiểu như sau về nội hàm yêu cầu của nó:             1. Trách nhiệm với thị trường và người tiêu dùng.             2. Trách nhiệm về bảo vệ môi trường.             3. Trách nhiệm với người lao động.             4. Trách nhiệm chung với cộng đồng.  Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility hay CSR),   theo chuyên gia của Ngân hàng thế  giới được hiểu là “Cam kết của doanh nghiệp  đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực  về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả  lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng,… theo cách  có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”. 2.Quan điểm của Nhà nước Việt Nam  Chưa có luật hoá cụ thể  Khuyến khích.  Không luật hoá.  Thừa nhận. 3.Quan điểm của một số nhà nước khác  Uỷ  ban Châu Âu đã ra “Văn bản xanh” – Green Paper trong đó CSR được hiểu  như  là việc doanh nghiệp đưa các vần đề  xã hội và môi trường vào các hoạt   động cũng như những trao đổi với các bên liên quan một cách tự nguyện.  Văn bản xanh cũng phân tích CSR trên 2 khía cạnh: bên trong và bên ngoài doanh   nghiệp trong đó có các vấn đề về lao động, môi trường, quyền con người cũng  được nêu ra.  4. Quan điểm của một số công ty đa quốc gia           Adidas: “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp luôn là một khái niệm theo đó   doanh nghiệp lồng ghép các vấn đề xã hội và môi trường vào kế hoạch kinh doanh và  vào mối quan hệ với cổ đông trên cơ sở tự nguyện.”             Đưa ra bộ quy tắc ứng xử áp dung cho cả nhà cung cấp và gia công. 5. Ai ủng hộ việc đưa CSR vào thương mại quốc tế?vì sao?  Phong trào chống ngược đãi, cưỡng bức người lao động, quyền được đối xử   công bằng và văn minh trên toàn thế giới
  4.  Phong trào thiếu nhi các nước phát triển phản đối việc sử dụng lao động trẻ em  tại các nước bản xứ nhằm thực hiện công ước quốc tế về quyền trẻ em Ai phản đối hoặc hoan nghênh?Vì sao?  Các công ty đa quốc gia (đầu tư)   Các công ty bán lẻ ( nhập khẩu) do giá thành sẽ bị đẩy lên cao hơn II. Những vấn đề chung về SA8000 1. Khái niệm về tiêu chuẩn SA 8000            SA 8000 là một tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng dựa trên:  12 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)  Công bố toàn cầu về nhân quyền  Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em   Công ước quốc tế của Liên Hiệp Quốc về việc loại trừ các hình thức phân biệt  đối xử đối với phụ nữ.         Vai trò của SA 8000 là nhằm cải thiện môi trường làm việc trên toàn cầu.Hệ  thống thẩm tra SA 8000 nhằm mục đích khuyến khích sự  cảI tiến liên tục điều   kiện nơi làm việc. • Các đơn vị được SAI công nhận  ­ được biết như  là một cơ quan chứng nhận ­   các chuyên gia đánh gia bên ngoài, chứng nhận cơ sở sản xuất phù hợp với tiêu   chuẩn SA 8000. • Các tổ  chức chứng nhận cần tuân thủ  với hướng dẫn ISO/IEC Guide 62 và   hướng dẫn 1 của SAI. • SAI khuyến khích người mua hàng làm việc với các nhà cung cấp thực hiện  trách nhiệm xã hội nhằm cải thiện điều kiện nơi làm việc bằng cách hỗ trợ  kỹ  thuật và nâng cao nhận thức. 2. Tác động của SA8000              Người mua yêu cầu tuân thủ với SA 8000 nhằm.: ­Nâng cao hình ảnh của họ.              ­Đảm bảo cho các cổ đông và khách hàng của họ về sự cam kết xã hội nhằm  cải    thiện điều kiện làm việc của các nhà cung cấp của họ và để  tạo ra môi trường  kinh doanh    ổn định hơn. ­Nhằm đảm bảo rằng họ  đã tìm được các nhà cung cấp không có sự  bóc lột,  như  trong SA 8000 đã nêu: cần có danh sách các nhà cung cấp được chứng   nhận, danh sách nhà cung cấp được phê duyệt.               ­Các công ty muốn thu hút khách hàng mới bằng sự khác biệt với các đối thủ   cạnh tranh không có chứng chỉ SA 8000.  ­Họ muốn chứng minh rằng họ đang đối xử công bằng với người công nhân và  tuân thủ với tiêu chuẩn SA 8000 theo yêu cầu của khách hàng Mỹ và Châu Âu.
  5.              ­Công ty được chứng nhận SA 8000 có thể trưng bày chứng chỉ SA 8000 trong   nhà máy, trong các catalo kinh doanh, trên các biển quảng cáo và trên trang web nhưng  không được trên các sản phẩm    3.  Lợi ích và các nội dung của  SA8000      3.1 Lợi ích khi thực hiện SA8000          Cải thiện điều kiện làm việc có thể giúp cho: ­ Cam kết đạo đức của công nhân và nhân viên tăng lên ­ Tiền đền bù cho công nhân do xảy ra tai nạn ít đi ­ Danh tiếng tốt hơn ­ Niềm tin cho các nhà đầu tư và người tiêu thụ cao hơn ­ Nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm tỉ lệ hỏng hóc ­ Có thể tăng năng suất ­ Cải thiện mối quan hệ với các tổ chức công đoàn và các cổ đông quan trọng           3.2. Các nội dung của SA8000                  Thuật ngữ Trách nhiệm xã hội rất rộng, tuy nhiên tiêu chuẩn SA 8000 chỉ   quan tâm tới:              1.  Lao động trẻ em              2.  Lao động cưỡng bức              3.  An toàn và sức khoẻ             4.  Tự do hiệp hội và Thoả ước tập thể             5.  Phân biệt đối xử             6.  Các hình thức kỷ luật             7.  Giờ làm việc             8.  Thù lao             9.  Hệ thống quản lý          3.2.1. Lao động trẻ em                   Lao động trẻ em là lao động dưới 14 tuổi trở xuống                    Công ty không được thuê mướn hoặc ủng hộ lao động trẻ  em như  định  nghĩa ở trên.                   Công ty phải thiết lập, viết thành văn bản, duy trì và thông tin một cách có  hiệu                    quả đến các bên liên quan về chính sách và thủ  tục cho việc khắc   phục tình trạng lao động trẻ  em được tìm thấy làm việc trong những tình huống phù  hợp với định nghĩa lao động trẻ em ở trên và phải cung cấp những hỗ trợ cần thiết để   những đứa trẻ  đó có thể  đến trường và tiếp tục học cho đến khi chúng không còn là   trẻ nữa theo như định nghĩa trẻ em ở trên                    Chú ý:                   Mục tiêu chính là ngăn ngừa việc thuê lao động dưới 15, và có biện pháp xử   lý thích hợp                   A ­ Cần 1 qui trình xử lý khi phát hiện Công ty có thuê lao động trẻ em (cách   xử lý, trả lương, thông báo cho các bên có liên quan)
  6.                  B ­ Hỗ trợ cần thiết là Công ty đảm bảo giúp trẻ em có thể tiếp tục đi học,   trả học phí, đồng phục, sách vở,… tìm cha mẹ nuôi, cho tiền tiêu vặt…                 C ­ Công  ước ILO 138 qui định độ  tuổi lao động tối thiểu không nhỏ  hơn   tuổi buộc tới trường và không dưới 15. Tuổi tối thiểu cho làm việc:               ­ Bình thường là 15               ­ Nơi có độc hại, nguy hiểm đến sức khoẻ, không an toàn, tinh thần là 18                D ­ Có hơn 50% quốc gia cho phép trẻ em dưới độ tuổi thông thường (12, 13   hoặc 14) làm những công việc nhẹ. Ở Châu Phi, Châu Mỹ qui định tuổi tối thiểu là 12      Công ty phải thiết lập, viết thành văn bản, duy trì và thông tin một cách có hiểu quả  đến nhân viên và các bên liên quan về chính sách và thủ  tục để  thúc đẩy giao dục trẻ  em như  nêu trong công  ước ILO 146, các lao động vị  thành niên nằm trong diện giáo  dục phổ cập của địa phương hoặc đang đi học, bao gồm các phương pháp để đảm bảo   rằng không có một trẻ em nào hoặc lao động vị thành niên trẻ nào như vậy được thuê  mướn trong suốt thời gian lên lớp, và tổng thời gian học, làm việc, di chuyển (thời gian  di chuyển từ nơi học đến nơi làm việc và ngược lại) không vượt quá 10 giờ/ ngày ­ Công ty không được sử dụng trẻ em hoặc lao động vị thành niên vào các nơi làm việc  độc hại, nguy hiểm, không an toàn hoặc có hại cho sức khoẻ Chú ý A­ Ví dụ nâng hạ những vật to quá cỡ, nặng, làm ca đêm, về nhà không an toàn sau khi   làm ca đêm, làm việc với hoá chất độc như Toluen, Chì… B­ Hiện nay công  ước ILO 138 tuân theo chính sách quốc gia để bãi bỏ  đến cùng lao   động trẻ em C­ Nâng độ tuổi lao động đến một mức phù hợp với sự phát triển đầy đủ  về thể chất   và tinh thần của trẻ vị thành niên. D­ Các quốc gia đang phát triển đang có ít nhất 12­ triệu có độ tuổi 5­14 làm việc hết   thời gian. Nếu kể cả lao động bán thời gian thì là 250 triệu (Châu Á chiếm 61%. Châu   Phi chiếm 32%, Châu Mỹ Latinh có 7%) 3.2.2. Lao động cưỡng bức  Công ty không được tham dự  hoặc  ủng hộ  việc sử  dụng lao động cưỡng bức, cũng  không được yêu cầu người được thuê mướn trả  tiền đặt cọc hoặc giấy cam kết cho   công ty mới được bắt đầu làm việc. Chú ý: SA nghiêm cấm mọi hình thức cưỡng bức lao động. Phải liên hệ các hiện tượng lạm dụng lao động (lao động trẻ, sự yếu kém về an toàn   sức khoẻ, sự trừng phạt bằng các nhục hình, mức lương tồi, phân biệt đối xử) để  kết   luận về sự cưỡng bức. 3.2.3. An toàn và Sức khoẻ         Công ty, luôn nhớ rằng phải phổ biến kiến thức về ngành công nghiệp và bất kỳ   các mối nguy hiểm nào, phải cung cấp môi trường làm việc an toàn và vệ sinh, phải có   các biện pháp thích hợp để  ngăn ngừa tai nạn và làm tổn hại đến sức khoẻ  mà xuất  hiện trong lúc, có liên quan đến hoặc xảy ra trong khi làm việc bằng cách giảm tối đa,  
  7. đến khả  năng có thể  được, nguyên nhân gây ra các mối nguy hiểm vốn có trong môi  trường làm việc       Công ty phải chỉ định đại diện lãnh đạo chịu trách nhiệm về  sức khoẻ và an toàn  cho toàn bộ nhân viên và chịu trách nhiệm thực hiện các yếu tố về sức khoẻ và an toàn  trong tiêu chuẩn này       Công ty phải đảm bảo rằng tất cả nhân viên đều được huấn luyện về an toàn và   sức khoẻ thường kỳ, hồ sơ huấn luyện này phải được thiết lập và các huấn luyện đó   được lập lại đối với nhân viên mới vào hoặc chuyển công tác Chú ý: Thường kỳ tức là ít nhất 1 lần/ năm        Công ty phải thiết lập hệ thống theo dõi, tránh hoặc xử  lý các nguyên hiểm tiềm   ẩn đối với sức khoẻ và an toàn của nhân viên       Công ty phải cung cấp cho nhân viên phòng tắm sạch sẽ, đồ nấu nước và nếu có   thể là các trang thiết bị hợp vệ sinh để lưu trữ thức ăn.        Nếu có cung cấp chỗ ở cho nhân viên thì công ty phải đảm bảo nơi đó sạch sẽ, an  toàn và đảm bảo các yêu cầu cơ bản của họ       Chú ý: SA nhằm đảm bảo người lao động có môi trường làm việc an toàn, không   độc hại, được chăm sóc sức khoẻ       Một nghiên cứu tại nhà máy đệt ở Inđônêxia cho thấy một số công nhân ở bộ phận  nhuộm bị  ung thư  bàng quang do có chất gây ung thư  trong thuốc nhuộm mà họ  sử   dụng.      Tại một nhà máy, một phụ  nữ  22 tuổi bị tuột da đầu do tóc của cô ta bị  cuốn vào   băng tải. Các công nhân rất hiếm khi nhận được khoản bồi thường, nếu có thì không  bao gồm các chi phí thuốc men.      Trường hợp nơi ở quá trật chội • Lương của người công nhân thấp cùng đồng nghĩa với điều kiện sống của họ  rất khó khăn.  • Một số  nhà máy cung cấp nhà ở  ký túc xá cho cho các công nhân, thường đó là  những toà nhà xây bằng loại gạch lớn và rất đông đúc.  • Tại một khu nhà, mỗi phòng có 12 phụ  nữ, tại mỗi phòng có 6 giường tầng và   hầu như không còn lối đi trong phòng.  • Thường tại các khu ở cứ 50 đến 100 công nhân thì có 1 toilet.  • Tại các khu ký túc cho công nhân thường xuyên thiếu nước, và họ thường xuyên   phải mua nước đóng chai với giá cao.    Tự do hiệp hộI và thỏa ước lao động tập thể (Điều 4)    Công ty phải tôn trọng quyền của tất cả nhân viên về thương lượng tập thể và thành   lập và gia nhập công đoàn theo sự chọn lựa của họ     Công ty phải, trong một tình huống nào đó mà quyền tự   do của đoàn thể  và quyền  thương lượng tập thể được giới hạn bởi  luật, tạo điều kiện thuận lợi về  việc tự do   hội họp và thoả ước tập thể cho mọi nhân viên   Chú ý: Công ty tôn trọng các quyền hợp pháp của mọi CBCNV về hội họp, thành lập   công đoàn, nhóm,…
  8. Mục đích của SA bảo đảm quyền lợi chính đáng của CBCNV     Công ty phải đảm bảo rằng đại diện người lao động không bị  đối xử  phân biệt và  các đại diện đó phải có cơ hội tiếp cận với các thành viên trong môi trường làm việc   của họ  3.2.4. Phân biệt đối xử           Công ty không được tham gia hoặc  ủng hộ việc phân biệt đối xử  trong khi thuê  mướn, bồi thường, cơ hội huấn luyện, thăng tiến, chấm dứt hợp đồng lao động hoặc  nghỉ  hưu trên cơ  sở  chủng tộc, đẳng cấp, nguồn gốc quốc gia, tôn giáo, tật nguyền,   giới tính, thành viên của nghiệp đoàn hoặc phe đảng chính trị          Công ty không được can thiệp vào quyền xử lý của nhân viên trong việc tuân thủ  các nguyên lý hoặc lề  thói, hoặc đáp  ứng các nhu cầu liên quan đến chủng tộc, đẳng  cấp, nguồn gốc quốc gia, tôn giáo, tật nguyền, giới tính, thành viên của nghiệp đoàn  hoặc phe đảng chính trị.          Công ty không được cho phép cách cư xử như cử chỉ, ngôn ngữ  và tiếp xúc thân  thể mà cưỡng bức, đe doạ, sỉ nhục, lợi dụng tình dục                Chú ý: SA nhằm đảm bảo không phân biệt đối xử  với mọi người trong mọi   trường hợp     3.2.5. Các hình thức kỷ luật         Công ty không được tham gia vào hoặc ủng hộ việc dùng nhục hình, ép buộc về  vật chất hoặc tinh thần và sỉ nhục        Chú ý: SA nhằm đảm bảo Công ty luôn luôn tôn trọng CBCNV theo 1 phương thực   nhất quán có kỷ luật 3.2.6. Giờ làm việc          Công ty phải phù hợp với các luật đang áp dụng và các tiêu chuẩn công nghiệp về   thời   gian   làm   việc;   bất   kỳ   trường   hợp   nào   không   được   yêu   cầu,   trên   nguyên   tắc  thường xuyên, nhân viên làm việc vượt quá 48 giờ/ tuần và cứ 7 ngày làm việc thì phải   sắp xếp ít nhất 1 ngày nghỉ cho nhân viên.          Công ty phải đảm bảo rằng làm thêm giờ  (hơn 48 giờ/ tuần) không được vượt  quá 12 giờ/ người/ tuần, điều đó sẽ  không được yêu cầu ngoài các trường hợp ngoại  lệ và trong giai đoạn ngắn, và khi đó luôn được trả với hệ số ngoài giờ cao nhất Chú ý: SA nhằm đảm bảo Công ty có chế  độ  làm việc thích hợp (48 giờ  + 12   giờ/ tuần). Thêm giờ là tự nguyện, ngắn hạn và không dự đoán trước được  3.2.7. Tiền lương         Công ty phải đảm bảo rằng tiền lương trả cho thời gian làm việc chuẩn trong một   tuần ít nhất phải bằng mức thấp nhất theo qui định của luật pháp hoặc mức thấp nhất  theo qui định của ngành và phải đáp ứng đủ  nhu cầu cơ bản cho nhân viên và một vài  thu nhập sáng tạo khác.        Tiêu chí của SA8000 là yêu cầu người sử dụng lao động đảm bảo tiền lương kiếm   được theo giờ lao động bình thường (không quá 48 giờ) thích đáng cho người lao động   và người phải sống dựa vào người lao động đó về ăn mặc, nhà cửa.       Để kiếm được mức lương đủ sống không cần làm thêm giờ.
  9.      Lương trả  theo tuần làm việc tiêu chuẩn ít nhất phải đảm bảo mức tối thiểu của   ngành hoặc theo quy định. Công ty phải đảm bảo rằng không được trừ lương nhân viên vì bị kỷ luật và công ty   đảm bảo rằng tiền lương và các phúc lợi khác cho người lao động phải được chi tiết  rõ ràng và thường xuyên; công ty cũng phải đảm bảo rằng tiền lương và các phúc lợi   khác được hoàn trả phù hợp với luật lệ đang áp dụng và tiền bồi thường đó được trả   dưới dạng tiền mặt hay séc sao cho thuận tiên cho người lao động Chú ý: thuận tiện có nghĩa CN không phải cphí gì thêm để  nhận bồi thường (đi lại   trả thêm) Công ty phải đảm bảo rằng thoả  thuận hợp đồng lao động và thi trượt các chương   trình dạy nghề  sẽ không được sử  dụng để  trốn tránh việc thực hiện các trách nhiệm   đối với nhân viên phù hợp với các yêu cầu của luật lao động hay bảo hiểm xã hội 3.2.8. Hệ thống quản lý         Lãnh đạo cao nhất phải xác định chính sách của công ty về trách nhiệm xã hội            A­ Bao gồm cam kết phù hợp với tất cả yêu cầu của tiêu chuẩn này            B­ Bao gồm cam kết phù hợp với luật lệ quốc gia và các luật lệ hay áp dụng   khác, các yêu cầu khác công ty tán đồng và thừa nhận các văn kiện quốc tế và các giải  thích của các văn kiện đó (như liệt kê trong phần II)            C­ bao gốm các liên kết liên tục cải tiến            D­ Được lập thành văn bản, thực hiện, duy trì và thông tin một cách có hiệu quả   và gần gũi với sự  hiểu biết là tất   người lao động bao gồm Giám đốc, người điều   hành, giám sát và nhân viên lao động trực tiếp có hợp đồng hay không hợp đồng đan  làm việc tại công ty            E­ Công khai            Lãnh đạo cao nhất phải định kỳ xem xét tính đầy đủ, hợp lý, phù hợp, và tính   liên tục hiệu quả của chính sách công ty, thủ tục và kết quả thực hiện so với yêu cầu  của tiêu chuẩn này và các yêu cầu khác mà công ty công nhận. Sửa đổi và cải tiến hệ  thống phải được thực hiện khi cần thiết        Công ty phải chi định đại diện lãnh đạo, không kể các trách nhiệm khác đảm bảo   yêu cầu của tiêu chuẩn này được áp dụng     Công ty phải để cho các nhân viên chọn ra một đại diện từ chính trong nhóm của họ  để  tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông tin với lãnh đạo về  vấn đề  liên quan đến   tiêu chuẩn này   Chú ý : CTCĐ được bầu thế  nào, có đủ  thẩm quyền thảo luận với LĐ công ty các biện pháp   khắc phục, nếu có? CTCĐ có thực hiện đúng nhiệm vụ  của mình? Có thực hiện các   biện pháp khắc phục,… cần thiết? Có bị ảnh hưởng bởi lãnh đạo công ty? ĐD về SA có vai trò thế nào, ai bổ nhiệm? ĐD về ATLĐ, SK có vai trò thế nào, ai bổ nhiệm?
  10.    Công ty phải đảm bảo rằng các yêu cầu của tiêu chuẩn này được thông hiểu và thực   hiện tại mọi cấp của công ty; các phương pháp sử  dụng bao gồm nhưng không giới  hạn  ­ Xác định rõ ràng vai trò, trách nhiệm, và quyền hạn    huấn luyện các nhân viên mới và/ hoặc thuê mướn tạm       thời  ­ Định kỳ huấn luyện cho nhân viên cũ  ­ Liên tục giám sát các hoạt động và các kết quả để     chứng tỏ hiệu quả thực hiện hệ thống đáp ứng được     chính sách công ty và các yêu cầu của tiêu chuẩn này;  Ki  ểm soát nhà cung cấp/nhà thầu phụ và Sub­Suppliers      Công ty phải thiết lập và duy trì các thủ tục thích hợp để đánh giá và lựa chọn nhà   cung cấp dựa trên khả năng đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn này   Công ty phải duy trì các hồ  sơ  thích hợp về cam kết của nhà cung cấp đối với trách  nhiệm xã hội, bao gồm nhưng không giới hạn, cam kết đã lập thành văn bản của nhà   cung cấp đối với :    A­ Sự phù hợp với tất cả các yêu cầu của tiêu chuẩn này (bao gồm cả  điều khoản   này)    B­ Tham gia vào các hoạt động giám sát công ty khi được yêu cầu    C­ Sửa chữa ngay lập tức khi tìm thấy bất kỳ sự không phù hợp nào so với các yêu  cầu của tiêu chuẩn này   D­ Phải ngay lập tức thông báo cho công ty và tất cả các tổ  chức kinh doanh có liên   quan với nhà cung cấp và nhà thầu phụ Công ty phải duy trì các bằng chứng hợp lý về  các nhà cung cấp và các nhà thầu phụ   đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn này   Hành động khắc phục             Công ty phải điều tra, giải quyết và phản hồi các mối lo ngại của nhân viên và  các bên có liên quan về vấn đề phù hợp/ không phù hợp với chính sách của công ty và/   hoặc các yêu cầu của tiêu chuẩn này; công ty phải hạn chế việc kỷ luật, sa thải hoặc   các hình thức phân biệt đối xử  khác đối với bất kỳ nhân viên nào cung cấp các thông  tin liên quan đến sự tuân thủ tiêu chuẩn này          Công ty phải thực hiện việc xử lý và thực hiện hoạt động khắc phục và cung cấp   các nguồn lực thích hợp để nhận biết tính chất và mức độ nghiêm trọng của sự không  phù hợp so với chính sách công ty và/ hoặc các yêu cầu của tiêu chuẩn này   Thông tin liên lạc ra bên ngoài           Công ty phải thiết lập và duy trì các thủ tục để thường xuyên tiếp xúc, thu thập   thông tin với tất cả các bên có liên quan và các thông tin khác liên quan đến việc thực   hiện các yêu cầu của tiêu chuẩn này, bao gồm nhưng không giới hạn, kết quả xem xét  lãnh đạo và theo dõi các hoạt động.  Quyền xem xét 
  11.           Khi hợp đồng yêu cầu, công ty phải cung cấp những thông tin phù hợp và cho  phép tiếp cận với các thông tin đó cho các bên liên quan để giám sát sự phù hợp với các   yêu cầu của tiêu chuẩn này; khi hợp đồng yêu cầu cao hơn về các thông tin tương tự   và các cơ hội tiếp cận với các thông tin đó thì nhà cung cấp và nhà thầu phụ của công  ty cũng phải tạo điều kiện cho phép thông qua việc đưa các yêu cầu như vậy trong hợp   đồng mua hàng của công ty   Hồ sơ           C ông ty phải duy trì các hồ sơ thích hợp nhằm chứng minh sự tuân thủ  với các   yêu cầu của tiêu chuẩn SA 8000 II. Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội   của doanh nghiệp  1. Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường             Xã hội học coi trách nhiệm xã hội như một sự cam kết về tinh thần, đạo đức,   văn hoá đối với gia đình, cộng đồng địa phương và toàn xã hội, nhân viên, môi trường.  Trong nền kinh tế thị trường, mọi cá nhân và doanh nghiệp đều hành xử sao cho có lợi  nhất cho mình trong khuôn khổ  pháp luật cho phép. Kinh tế  thị  trường được mô tả  trong Tư bản của C.Mác không có trách nhiệm xã hội, ở đó người ta thấy người chủ tư  bản được mô tả  là một kẻ  bóc lột tàn bạo, mù quáng, mất nhân tính, vô văn hoá đến   kiệt sức người lao động nhằm tối đa hoá lợi nhuận ngắn hạn. Sự mô tả  chính xác đó  đã giúp kinh tế  thị  trường tự  hoàn thiện trong quá trình đấu tranh của nhân dân cùng   với tiến bộ  trong nhận thức của khoa học kinh tế. (Chẳng hạn như  kinh tế  học về  thông tin đã chỉ rõ bản chất của sự lừa đảo là bất đối xứng thông tin, giải pháp là công   khai, minh bạch, giám sát nhằm giảm bớt sự bất đối xứng thông tin đó chứ không phải  gán ghép lừa đảo như một bản chất của kinh tế thị trường). Kinh tế kế hoạch hoá tập   trung dưới chế độ toàn trị một đảng đã không đem lại giải pháp thực chất và bền vững  cho tăng trưởng, không đem lại hệ thống động lực cho người lao động, không phát huy  sức sáng tạo, sáng kiến của mỗi một cá nhân, nên nó đã không vượt qua được thử  thách của lịch sử. Trong một chế độ như  vậy, khái niệm trách nhiệm xã hội chỉ thuộc  về  những người có quyền quyết định, người dân chỉ  biết tuân thủ  các quy định và   được thụ  hưởng trong phần họ được cho phép. Các hiện tượng lãng phí tài nguyên, ô  nhiễm môi trường, ém nhẹm các tai hoạ  là những ví dụ  về  thiếu trách nhiệm xã hội   trong quá trình quyết định và điều hành nền kinh tế  theo mô hình này. Kinh tế  thị  trường ngày nay đã hình thành một hệ thống các quy định pháp luật chi tiết nhằm chế  định hành vi của các bên tham gia và bảo vệ  lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Các   quy định đó đã giảm bớt đáng kể những hành vi vô trách nhiệm một cách thái quá của  những người có quyền lực trong hệ  thống chính trị  và doanh nghiệp. Chính trị  gia  không được lòng dân sẽ  bị  hệ  thống bầu cử  dân chủ  thay thế  (như  việc bầu cử  tổng  thống Obama thay thế  tổng thống Bush vừa qua). Doanh nhân hành xử  tư  lợi, thiếu   hiệu quả, thiếu trách nhiệm sẽ  bị  thay thế  khi doanh nghiệp thua lỗ  hay phá sản.   Song, cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã cho thấy mô hình hiện thời của kinh tế 
  12. thị  trường và vai trò của nhà nước không những không hoàn hảo mà còn có những   khiếm  khuyết nghiêm  trọng,   rất cần  được   phát  hiện  và  chỉnh sửa.  Việc   đóng  gói  (packaging) những món nợ  hay thế chấp (debt and mortgages) thành những sản phẩm   phái sinh điên loạn (derivates) đem bán trên thị trường chứng khoán, việc nới lỏng trần   tín dụng để đẩy việc xây nhà và tiêu dùng lên cao, việc đồng loã giữa các công ty đánh  giá   và   xếp   hạng   (rating   company)   với   ngân   hàng   được   xếp   hạng   (như   Lehman  Brothers), che dấu và lừa dối khách hàng, việc cho phép lòng tham vô hạn độ  của   những người điều hành hệ  thống tài chính ngân hàng hoành hành, v. v. đều cần phải  điều chỉnh và xem xét trách nhiệm của từng bên tham gia và có quy định pháp luật chặt  chẽ   để   khắc   phục.            2.Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp              Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility CSR) có  thể được định nghĩa ngắn gọn như một sự cam kết của công ty trong ứng xử  phù hợp   với lợi ích của xã hội trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của khách hàng, nhà  cung  ứng, nhân viên, cổ  đông, cộng đồng, môi trường. Theo đó, trách nhiệm xã hội   được coi là một phạm trù của đạo đức kinh doanh (Business Ethics), có liên quan đến   mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.  Ở  thế  kỷ  thứ  XXI, trong nền kinh tế  toàn cầu hoá, khi ý thức của loài người về các nguy cơ đối với môi trường sống ngày   càng cao thì các đòi hỏi về  trách nhiệm xã hội cũng ngày càng tăng lên, như  đòi hỏi  phải kiểm soát khí thải của xe hơi lưu hành trên đường phố, kiểm soát mức độ  khói  bụi trong các khu dân cư, v.v.. Như vậy, có thể thấy, ít nhất đã có bốn nhóm đối tượng   mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm thực hiện TNXH sau đây: Thị trường và người tiêu dùng, bao gồm cả nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung ứng và  hợp tác; Người lao động;  Cộng đồng trong khu vực và trong xã hội trong nước và thế  giới (như vụ sữa nhiễm độc melamine của công ty Tam Lộc ở Trung Quốc);  Môi  trường sống.                 Đối với thị trường và người tiêu dùng, doanh nghiệp phải bảo đảm chữ “tín”,  bảo đảm chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thực hiện đúng các tiêu chuẩn chất lượng của  sản phẩm, dịch vụ, thực hiện các cam kết dịch vụ sau khi bán như đã bảo đảm với  khách hàng, không quảng cáo quá sự thật. Pháp luật không thể quy định và tiết chế tất  cả các hoạt động của doanh nghiệp. Chính doanh nghiệp phải bảo đảm thương hiệu 
  13. của mình bằng cách duy trì chất lượng, tính ổn định của chất lượng sản phẩm, dịch vụ  không vượt ra khỏi các quy định của pháp luật. Trong kinh doanh, doanh nghiệp có  quan hệ không chỉ với khách hàng, mà còn quan hệ với các nhà đầu tư ngân hàng, nhà  cung ứng các sản phẩm, dịch vụ trợ giúp, các viện khoa học, trường đại học thực hiện  các dịch vụ nghiên cứu, giảng dạy, thiết kế, v.v.. Trong tất cả các mối quan hệ đó,  doanh nghiệp không chỉ thực hiện đúng các cam kết theo Luật Dân sự, Luật Hợp đồng,  mà còn phải từ bỏ tham vọng làm “giàu nhanh” một cách bất chính bằng cách lừa đảo  khách hàng và đối tác. Việc làm giàu của doanh nghiệp không những phải phù hợp với  pháp luật, mà còn phải bảo đảm và tôn trọng lợi ích chính đáng và hợp pháp của khách  hàng và đối tác. Như vậy, cách làm giàu “chụp dật” là hoàn toàn xa lạ với trách nhiệm  xã hội. Không thể chỉ trông đợi vào sự tự nguyện hay kêu gọi đạo đức, luật pháp,  người tiêu dùng, xã hội phải phát hiện, ngăn chặn và trừng phạt các hành động gian trá,  lừa đảo, đồng thời khuyến khích, ủng hộ các doanh nghiệp làm ăn chính đáng. Đối với người lao động, doanh nghiệp phải coi người lao động là tài sản lớn nhất của  mình, chăm lo cuộc sống vật chất và tinh thần cho người lao động, bảo đảm cho người  lao động không chỉ tái sản xuất sức lao động, mà còn được nâng cao trình độ chuyên  môn, chăm lo sức khoẻ cho người lao động. Về phía người lao động cũng phải tôn  trọng các cam kết trong hợp đồng lao động, làm việc tại doanh nghiệp phù hợp với  những cam kết khi được bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Luật pháp phải bảo đảm sự cân  bằng lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động, giữa hai bên phải thường  xuyên trao đổi thông tin để thông cảm lẫn nhau, tránh sự hiểu lầm không cần thiết hay  sự ưu đãi thái quá cho một bên.         Doanh nghiệp cũng cần phải tôn trọng và bảo vệ môi trường vì lợi ích của các thế  hệ mai sau.  Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều tiêu chuẩn, định mức quy định chế độ hạch toán  xã hội (social accounting), kiểm toán xã hội (social auditing) và báo cáo cho xã hội  (social reporting) biết kết quả thực hiện. Hiện nay, các nước nhập khẩu đã đòi hỏi 
  14. doanh nghiệp xuất khẩu từ các nước đang phát triển như Việt Nam phải tuân thủ hàng  loạt quy định (guidelines) hay tiêu chuẩn (standards), như SA 8000, AA1000, ISO  14000, v.v.. Vì lợi ích kinh doanh, doanh nghiệp phải bảo đảm sự tuân thủ các quy định  được đòi hỏi để có thể tiếp tục duy trì quan hệ kinh doanh.        Vấn đề ở đây là có thể trông cậy đến đâu vào sự tự nguyện của doanh nghiệp, nếu  thiếu khung pháp luật, thiếu chế tài và sự giám sát cần thiết của xã hội dân sự và công  chúng. Kinh nghiệm cho thấy, mãnh lực của lợi nhuận có thể làm cho doanh nhân trở  nên mù quáng, vô trách nhiệm bằng cách che dấu các hành vi phạm pháp của mình và  sự tự nguyện của doanh nghiệp là rất mỏng manh. Ngay cả sau khi phải cầu cứu chính  phủ trợ giúp bằng tiền đóng thuế của người dân, họ vẫn chia nhau cả 18 tỷ USD tiền  thưởng (CNN, ngày 30.1.2009) làm cho tổng thống Obama phải thốt lên là “đáng hổ  thẹn”; song vấn đề không phải là quở mắng, mà là làm cho họ có trách nhiệm hơn và  ngăn chặn những hành vi như vậy trong tương lai. Như vậy, có thể thấy vai trò then  chốt của hệ thống luật pháp, các tiêu chuẩn về đạo đức được quy định thành tiêu  chuẩn pháp luật để thực hiện trách nhiệm xã hội của cá nhân và doanh nghiệp nhằm  chế ngự lòng tham và kiểm soát các hành vi làm giàu vô đạo đức, gây nguy hại cho  cộng đồng.        Bên cạnh vai trò của nhà nước, rõ ràng là cần phải có vai trò bổ sung của xã hội  dân sự nhằm phát huy các mặt tích cực của nhà nước, đồng thời bổ sung cho nhà nước,  giám sát và hạn chế các hành vi tư lợi, lạm dụng chức quyền của nhà nước.  Vậy phải hiểu chính xác CSR là gì? Đã có rất nhiều định nghĩa được đưa ra như  “Trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với  các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975: 58­64).  Hay “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh  tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất  định” (Archie.B Carroll, 1979). Maignan và Ferrell cũng đưa ra khái niệm súc tích của  riêng họ về CSR: “Một doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội khi quyết định và hoạt 
  15. động của nó nhằm tạo ra và cân bằng các lợi ích khác nhau của những cá nhân và tổ  chức liên quan”. Tuy nhiên theo quan điểm cá nhân tác giả, định nghĩa của Nhóm phát  triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về CSR là hoàn chỉnh và rõ ràng nhất.  Theo đó, CSR là “sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh tế  bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người  lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi  cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”. Khi cạnh tranh ngày càng  khốc liệt, đòi hỏi yêu cầu từ khách hàng ngày càng cao và xã hội có cái nhìn ngày càng  khắt khe đối với doanh nghiệp thì các doanh nghiệp muốn phát triển bền vững phải  luôn tuân thủ những chuẩn mực về bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường lao  động, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, đào tạo và phát triển  nhân viên, góp phần phát triển cộng đồng,…  3. Các khía cạnh của trách nhiệm xã hội  Các doanh nghiệp có thể thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng cách đạt một   chứng chỉ  quốc tế  hoặc áp dụng những bộ  quy tắc  ứng xử  (Code of Conduct –   COC). Trách nhiệm xã hội là nghĩa vụ mà một doanh nghiệp phải thực hiện đối với  xã hội. Có trách nhiệm với xã hội là tăng đến mức tối đa các tác dụng tích cực và  giảm tới tối thiểu các hậu quả tiêu cực đối với xã hội. Nhiều lãnh đạo của doanh  nghiệp cho rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là tham gia vào các chương   trình trợ  giúp các đối tượng xã hội như  hỗ  trợ  người tàn tật, trẻ  em mồ  côi, xây   dựng nhà tình nghĩa,  ủng hộ  đồng bào lũ lụt và thiên tai... Điều đó là đúng nhưng   hoàn toàn chưa đủ, mặc dù các hoạt động xã hội là một phần quan trọng trong trách   nhiệm của một công ty. Quan trọng hơn, một doanh nghiệp phải dự đoán được và   đo lường được những tác động về  xã hội và môi trường hoạt động của doanh   nghiệp và phát triển những chính sách làm giảm bớt những tác động tiêu cực.  Trách  nhiệm xã hội của doanh nghiệp còn là cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào sự  phát triển kinh tế bền vững, hợp tác cùng người lao động, gia đình họ, cộng đồng  
  16. và xã hội nói chung để cải thiện chất lượng cuộc sống cho họ sao cho vừa tốt cho   doanh nghiệp vừa ích lợi cho phát triển. Nếu doanh nghiệp sản xuất xe hơi, phải  tính toán được ngay cả năng lượng mà cơ sở tiêu thụ và tìm cách cải thiện nó. Và là  doanh nghiệp sản xuất giấy, phải xem chất thải ra bao nhiêu và tìm cách xử lý nó...     Vì vậy ngày nay một doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội liên quan đến mọi khía cạnh  vận hành của một doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội bao gồm 4 khía cạnh: kinh tế,   pháp lý, đạo đức và lòng bác ái.     3.1. Khía cạnh kinh tế  Khía cạnh kinh tế  trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là phải sản xuất  hàng hóa và dịch vụ  mà xã hội cần và muốn với một mức giá có thể  duy trì doanh   nghiệp ấy và làm thỏa mãn nghĩa vụ của doanh nghiệp với các nhà đầu tư; là tìm kiếm   nguồn cung  ứng lao động, phát hiện những nguồn tài nguyên mới, thúc đẩy tiến bộ  công nghệ, phát triển sản phẩm; là phân phối các nguồn sản xuất như hàng hoá và dịch  vụ như thế nào trong hệ thống xã hội Trong khi thực hiện các công việc này, các doanh nghiệp thực sự  góp phần vào tăng  thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đối với người lao động, khía cạnh kinh tế  của doanh nghiệp là tạo công ăn việc làm   với mức thù lao xứng đáng cơ hội việc làm như nhau, cơ hội phát triển nghề và chuyên   môn, hưởng thù lao tương xứng, hưởng môi trường lao động an toàn, vệ  sinh và đảm   bảo quyền riêng tư, cá nhân ở nơi làm việc.  Đối với người tiêu dùng, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp là cung cấp hàng hoá   và dịch vụ, trách nhiệm kinh tế  của doanh nghiệp còn liên quan đến vấn đề  về  chất   lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm (quảng cáo), phân phối, bán  hàng và cạnh tranh.    Khía cạnh kinh tế  trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là cơ  sở  cho các  hoạt động của doanh nghiệp.  Phần lớn các nghĩa vụ  kinh tế  trong kinh doanh đều  được thể chế hoá thành các nghĩa vụ pháp lý    3.2. Khía cạnh pháp lý Khía cạnh pháp lý trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là doanh nghiệp   phải thực hiện đầy đủ những quy định về pháp lý chính thức đối với các bên hữu quan.  Những điều luật như thế này sẽ điều tiết được cạnh tranh, bảo vệ khách hàng, bảo vệ  môi trường, thúc đẩy sự công bằng và an toàn và cung cấp những sáng kiến chống lại   những hành vi sai trái. Các nghĩa vụ pháp lý được thể hiện trong luật dân sự và hình sự.  Về cơ bản, nghĩa vụ pháp lý bao gồm năm khía cạnh:
  17. (1) Điều tiết cạnh tranh (2) Bảo vệ người tiêu dùng (3) Bảo vệ môi trường (4) An toàn và bình đẳng (5) Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái. Thông qua trách nhiệm pháp lý, xã hội buộc các thành viên phải thực thi các hành vi  được chấp nhận. Các tổ  chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ  không thực hiện trách   nhiệm pháp lý của mình      3.3. Khía cạnh đạo đức Khía cạnh đạo đức trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là những hành vi và  hoạt động mà xã hội mong đợi  ở  doanh nghiệp nhưng không được quy định trong hệ  thống luật pháp, không được thể chế hóa thành luật. Khía cạnh này liên quan tới những gì các công ty quyết định là đúng, công bằng vượt   qua cả những yêu cầu pháp lý khắc nghiệt, nó chỉ những hành vi và hoạt động mà các   thành viên của tổ chức, cộng đồng và xã hội mong đợi từ phía các doanh nghiệp dù cho   chúng không được viết thành luật. Khía cạnh đạo đức của một doanh nghiệp thường được thể  hiện thông qua những   nguyên tắc, giá trị đạo đức được tôn trọng trình bày trong bản sứ mệnh và chiến lược   của công ty. Thông qua các công bố này, nguyên tắc và giá trị đạo đức trở thành kim chỉ  nam cho sự phối hợp hành động của mỗi thành viên trong công ty và với các bên hữu   quan.
  18. CHƯƠNG   II:   THỰC   TRẠNG   VỀ   “SỰ   CẦN   THIẾT   THỰC   HIÊN   TRÁCH  NHIỆM XàHỘI THEO TIÊU CHUẨN SA8000 ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP  VIỆT NAM THỜI KỲ  HỘI NHẬP WTO”  I. Thực trạng CSR trong giới kinh doanh ngày nay            Thống kê hàng năm về hoạt động từ thiện trong giới kinh doanh của tạp chí  Anh, The Guardian cho thấy, 100 công ty hàng đầu tại thị  trường chứng khoán  London chỉ dành ra chưa đến 1% lợi nhuận trước thuế để  dành cho hoạt động từ  thiện và các dự án cộng đồng trong năm vừa qua. Mặc dù tổng số tiền các công ty   Anh đóng góp cho các tổ chức từ thiện tăng 7%, lên đến 1,6 tỷ USD, nhưng chỉ có   chưa đầy 34 công ty  ủng hộ  hơn 1% lợi nhuận. Số  tiến  ủng hộ  các tổ  chức từ  thiện của 14 công ty đứng cuối danh sách chỉ chưa đầy 0,01% lợi nhuận.  Một điều không vui là trong tổng nguồn thu năm 2004 của các tổ chức từ thiện thì   nguồn đóng góp từ  giới kinh doanh chỉ chiếm 4,3%, giảm 4,8% so với năm 2003.  Đây chính là lý do mà phần lớn các công ty Anh ngày này đang thất bại trong việc   tạo dựng niềm tin từ  cộng đồng. Chỉ  có 15% trong số  những người được hỏi tin  rằng các công ty lớn luôn đảm bảo và thực thi đúng các cam kết về trách nhiệm xã   hội của mình, 10% phản đối nhận định trên, trong khi hơn 70% những người còn  lại tỏ ra nghi ngờ về CSR của các công ty. Ngoài ra, hơn 80% số người được hỏi   nghĩ rằng các công ty nên có nhiều nỗ  lực hơn nữa để  cho mọi người thấy họ  đang làm những gì cho xã hội.  Hiện nay,  CSR  đang được cấp quản lý nhận thức một cách sâu rộng hơn. Theo  thống kê của Trung tâm nghiên cứu về quản lý Ashridge, cứ  10 nhà quản lý điều  hành cấp cao thì có đến 9 người tin rằng CSR là rất quan trọng với các hoạt động 
  19. kinh doanh của công ty. Hơn 3/4 các nhà quản lý cho rằng công ty cần hoạt động   theo những phương thức có trách nhiệm với xã hội và cộng đồng. Tuy nhiên, có  những công ty vẫn xem xét CSR như là một chi phí hơn là một cơ hội.  Môi trường là một trong những vấn đề  như  vậy. Sức ép từ  những tổ  chức như  Hoà bình xanh (Greenpeace) đã thúc đẩy các công ty có trách nhiệm hơn với môi  trường và xã hội từ thập niên 60. Bên cạnh một số công ty lớn tại Mỹ và châu Âu  đã coi việc bảo vệ  môi trường là một trong những  ưu tiên trong sản xuất kinh   doanh, thì tiêu chuẩn môi trường quốc gia và quốc tế chưa được các công ty ở các  nước đang phát triển quan tâm. Họ coi những điều khoản quy định về bảo vệ môi  trường như là một gánh nặng đối với công việc quản lý sản xuất kinh doanh của  họ, vì vậy công tác môi trường chỉ được theo kiểu đối phó, qua loa. Đặc biệt, khái  niệm cần phải có yếu tố  môi trường trong các hàng hoá và dịch vụ  lại càng ít   được các giám đốc công ty đưa vào trong các quyết định sản xuất kinh doanh của   công ty. Theo các chuyên gia kinh tế, công ty cần phải coi vấn đề  tiêu chuẩn môi trường  trong sản xuất, cung cấp hàng hoá và dịch vụ  là nhu cầu thiết thân của công ty,   xuất phát từ  lợi ích của chính công ty. Trong khi các công ty tại các nhiều nước  đang phát triển thường cho rằng chi phí môi trường do không nằm trong giá cả  cấu thành sản phẩm nên thường làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá, thì tại  nhiều nước phát triển, ví dụ  như  Mỹ, Anh, các công ty chủ  động đầu tư  áp dụng  công nghệ thân thiện với môi trường đã có mức doanh thu tăng đáng kể: Tập đoàn  sản xuất bóng đèn của Mỹ, Haitech Group năm 1994 đã đầu tư  4,3 tỷ  USD vào   việc kiểm soát ô nhiễm môi trường, từ  đó uy tín của công ty tăng nhanh và đến   năm 1999 đã xuất khẩu được tới 8 tỷ USD. Hay tại Hàn Quốc, dự án trình diễn kỹ  thuật sản xuất sạch hơn triển khai từ 7/1999 đến 8/2000, với sự  tham gia của 15  công ty, thì có tới 13 công ty thành công. Dự tính 13 công ty này tiết kiệm được tới  770.000 USD/năm, trong khi chỉ phải đầu tư 140.600 USD. Khi các thị  trường lớn   trên thế giới ngày càng khó tính hơn, sản phẩm không chỉ được yêu cầu đảm bảo   về chất lượng mà còn đòi hỏi "sạch hơn". Để xâm nhập thành công các thị trường  lớn nhưng khó tính như  Nhật bản, Mỹ  và châu Âu thì các công ty cần phải tăng  cường nghiên cứu khả  năng áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế  về  môi trường như  ISO 14000 và các tiêu chuẩn về môi trường của thị trường muốn xâm nhập. II. Xu hướng mới cho các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập      Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR ­ Corporate Social Responsibility) đang   là xu thế  ngày càng lớn mạnh trên thế  giới nhưng vẫn còn rất mới mẻ   ở  Việt Nam,   mới chỉ tập trung chủ yếu  ở ngành da giầy và may mặc do yêu cầu của các khách đặt   hàng nước ngoài. Rõ ràng hàng hóa Việt Nam khó có thể  cạnh tranh về giá cả hay số   lượng với Trung Quốc, vậy con đường nào có thể  giúp các doanh nghiệp nội địa có  
  20. được lợi thế  trong cuộc chiến đầy khó khăn trên thương trường này? CSR có thể  là   câu trả lời nếu doanh nghiệp thực sự hiểu ý nghĩa và biến CSR thành văn hóa, nếp suy   nghĩ và phương pháp làm việc.Có nhiều nhà quản lý doanh nghiệp đồng ý với một  tuyên bố  nổi tiếng của  Milton Friedman năm 1970 rằng “có một  và chỉ  một  trách  nhiệm xã hội của doanh nghiệp – đó là sử dụng nguồn tài nguyên của mình và tham gia   vào các hoạt động nhằm tăng lợi nhuận”. Câu nói này khẳng định rằng mục tiêu chủ  yếu của doanh nghiệp là thỏa mãn nhu cầu của các cổ  đông. Tuy nhiên ngày càng  nhiều doanh nghiệp cổ xúy quan điểm rằng một công ty còn có phải có nghĩa vụ  đối   với các bên có liên quan và xa hơn nữa, trách nhiệm với môi trường thiên nhiên. Các   bên có liên quan, theo Edward Freeman, là bất cứ  cá nhân hay tổ  chức nào có  ảnh  hưởng hoặc bị   ảnh hưởng bởi hoạt động của doanh nghiệp. Đã qua rồi thời kỳ  khi  doanh nghiệp chỉ  cạnh tranh bằng giá cả  hay sự  khác biệt về  sản phẩm. Trong nền   kinh tế  hội nhập hiện nay, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR – Corporate  Social Responsibility) đang dần trở  thành một khái niệm được nhiều người quan tâm   và có tầm quan trọng chiến lược đối với doanh nghiệp. Người ta nhắc tới CSR không  chỉ là “điều đúng đắn cần làm” mà còn là “điều khôn ngoan nên làm”.  Kể  từ  khi chuyên đề  “Trách nhiệm xã hội của những nhà kinh doanh” của Bowen  (1953) được công bố 50 năm trước, các nhà nghiên cứu và những người làm kinh doanh  đã và đang kêu gọi doanh nghiệp hãy hành động có trách nhiệm với xã hội, bởi vì   “không còn nghi ngờ  gì nữa, nguyên tắc xử  thế  của ngày hôm nay có thể  là luật định   của ngày hôm sau” (Gaski, 1999). Tục ngữ Trung Hoa có câu: “ Cho người một con cá,  bạn nuôi người đó một ngày. Dạy  người đó câu cá, bạn nuôi sống anh ta một đời”. Nếu chỉ  tính trong ngắn hạn, lợi ích   mà CSR có thể đem lại là các đơn đặt hàng từ những công ty mua hàng đòi hỏi các tiêu  chuẩn về CSR. Tuy nhiên chi phí để áp dụng chương trình CSR có thể làm ảnh hưởng  đến kết quả kinh doanh của công ty. Những người lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng  sẽ có mục tiêu hoạt động không chỉ giới hạn bởi lợi nhuận. Thước đo thành công của  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2