intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA8000 tại Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Ngoc Tuấn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

84
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiêu chuẩn SA 8000 được ra đời như một tiêu chuẩn nhân bản để bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động đồng thời cũng nâng cao vị thế của các doanh nghiệp. Mời các bạn cùng tham khảo đề tài Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA8000 tại Việt Nam để tìm hiểu thêm về vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA8000 tại Việt Nam

  1. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM XàHỘI VỚI  SA8000 TẠI VIỆT NAM PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài:      Trong những năm qua,chính sách đổi mới và mở cửa chủ động hội nhập kinh tế  của Đảng và Nhà Nước đã mang lại những thành tựu to lớn trong sự phát triển kinh tế  ­ xã hội nước ta,làm thay đổi căn bản hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.Toàn  cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan tạo nhiều cơ hội phát triển cho quốc  gia,cho ngành công nghiệp đồng thời cũng chịu áp lực của các yếu tố thị trường,chủ  sở hữu và nhân viên.Các yêu cầu bởi khách hàng của các tổ chức với việc nâng cao  hiệu quả kinh tế của các hoạt động mang tính trách nhiệm xã hội nhằm tạo và duy trì  lợi thế cạnh tranh.Chủ sở hữu thì muốn đảm bảo đầu tư của họ được duy trì “trong  sạch” về mặt trách nhiệm xã hội,cải thiện hình ảnh của doanh nghiệp đối với khách  hàng và các bên quan tâm.Nhân viên thì muốn có môi trường làm việc an toàn,muốn có  tổ chức và thương thảo tập thể với chủ doanh nghiệp về lợi ích.Vì vậy,tiêu chuẩn SA  8000 được ra đời như một tiêu chuẩn nhân bản để bảo vệ quyền và lợi ích cho người  lao động đồng thời cũng nâng cao vị thế của các doanh nghiệp. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: a. Đối tượng nghiên cứu: ­ Bộ tiêu chuẩn thực hiện trách nhiệm xã hội SA 8000 ­ Luật quy định ở Việt Nam b. Phạm vi ngiên cứu: ­ Không gian : Công ty cổ phần dệt may Bình Định ­ Thời gian : 9/4 – 15/5/2010 3. Phương pháp nghiên cứu: ­ Sưu tầm,truy cập tài liệu trên mạng internet ­ Phỏng vấn công ty ­ Phỏng vấn người lao động ­ Phỏng vấn công ty dịch vụ cung ứng ­ Hỏi ý kiến chuyên gia ­ Tìm hiểu tổ chức xây dựng bộ tiêu chuẩn  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 1
  2. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn 4. Kết cấu của chuyên đề : Chương 1 : Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn Chương 2 : Thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn SA 8000 tại công ty cổ phần dệt  may Bình Định Chương 3 : Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA 8000 tại Việt Nam Chương 4 : Kiến nghị và kết luận PHẦN NỘI DUNG  CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lý luận :     Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới chính thức xuất hiện cách đây  hơn 50 năm, khi H.R.Bowen công bố cuốn sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm xã  hội của doanh nhân” (Social Responsibilities of the Businessmen) (1953) nhằm mục  đích tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền  và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các  doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thuật ngữ trách nhiệm  xã hội của doanh nghiệp đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số người xác  định “trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp  với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975: 58 –  64). Một số người khác hiểu “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong  đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại  một thời điểm nhất định” (Archie. B Carroll, 1979), v.v..     Hiện đang tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về trách nhiệm xã hội của doanh  nghiệp. Những người ủng hộ quan điểm thứ nhất cho rằng, doanh nghiệp không có  trách nhiệm gì đối với xã hội mà chỉ có trách nhiệm với cổ đông và người lao động  của doanh nghiệp, còn nhà nước phải có trách nhiệm với xã hội; doanh nghiệp đã có  trách nhiệm thông qua việc nộp thuế cho nhà nước. Trái lại, những người khác lại có  quan điểm cho rằng, với tư cách là một trong những chủ thể của nền kinh tế thị  trường, các doanh nghiệp đã sử dụng các nguồn lực của xã hội, khai thác các nguồn  lực tự nhiên và trong quá trình đó, họ gây ra những tổn hại không tốt đối với môi  trường tự nhiên. Vì vậy, ngoài việc đóng thuế, doanh nghiệp còn có trách nhiệm xã  hội đối với môi trường, cộng đồng, người lao động, v.v..     Còn ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa của  Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về trách nhiệm xã hội của  doanh nghiệp. Theo đó, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 2
  3. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn Responsibility – CSR) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển  kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống  của người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo  cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”    Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo những  chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao  động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng đồng.  Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố,  các mặt, như: 1. Bảo vệ môi trường; 2. Đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3. Thực hiện  tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; 4. Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng;  5. Quan hệ tốt với người lao động; và 6. Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao  đông trong doanh nghiệp. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên  ngoài của doanh nghiệp, còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại  của doanh nghiệp. Tất nhiên, sự phân chia thành trách nhiệm bên ngoài và trách nhiệm  bên trong chỉ có ý nghĩa tương đối và không thể nói trách nhiệm nào quan trọng hơn  trách nhiệm nào.     Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã hội thì việc thực hiện trách  nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ làm cho doanh nghiệp phát triển bền vững,  mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội nói chung.     Như chúng ta đều biết, ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến  lược và được đề ra từ những năm 80 của thế kỷ XX. Cùng với thời gian, khái niệm  phát triển bền vững đã có sự thay đổi về nội hàm và ngày càng được bổ sung thêm  những nội dung mới.     Xét về nguồn gốc, thuật ngữ phát triển bền vững ra đời từ những năm 70 của thế kỷ  XX và bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu về môi trường và phát triển  quốc tế nhờ sự ra đời của công trình Chiến lược bảo tồn thế giới(1980)(2). Sau đó, tư  tưởng về phát triển bền vững được trình bày trong một loạt công trình, như  Tương lai  chung của chúng ta (1987), Chăm lo cho trái đất (1991)(3)… Khi nói về sự phát triển  bền vững, người ta thường sử dụng hai định nghĩa đã được nêu ra trong các cuốn sách  nói trên.            Trong cuốn  Tương lai chung của chúng ta, phát triển bền vững được  hiểu là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả  năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai; còn trong cuốn Chăm lo cho trái đất,  phát triển bền vững được xác định là việc nâng cao chất lượng đời sống con người khi  đang tồn tại trong khuôn khổ bảo đảm các hệ sinh thái. Nhìn chung, cả hai định nghĩa  đó đều quy phát triển bền vững về việc sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên  nhiên và bảo vệ môi truờng sao cho thế hệ hôm nay vẫn phát triển được mà không làm  ảnh hưởng đến tương lai của các thế hệ sau.     Như vậy, nếu xét theo nguồn gốc của thuật ngữ, phát triển bền vững là một sự phát  triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên  nhiên và bảo vệ được môi trường tự nhiên nhằm vừa có thể thỏa mãn được nhu cầu  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 3
  4. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn của thế hệ hôm nay, vừa không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và  môi trường sống của các thế hệ mai sau. Thực chất của sự phát triển bền vững là giải  quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo đảm  sự công bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi  trường.     Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngoài nội dung trên đây, khái niệm phát triển bền vững còn  được bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Việt Nam đang chủ trương xây dựng chiến  lược phát triển bền vững phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Nội  dung cơ bản của chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam bao gồm:     Một là, phát triển nhanh phải đi đôi với tính bền vững. Điều đó phải được kết hợp  ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả tầm ngắn hạn lẫn dài hạn.     Hai là, tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và  sức cạnh tranh của nền kinh tế.    Ba là, trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi  trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.   Bốn là, phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con  người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện  đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo.  Năm là, phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát  triển.  Sáu là, phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, coi  đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững(4).    Có thể nói, đây là những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển bền vững của  Việt Nam. Chiến lược đó đã thể hiện khá rõ sự kết hợp giữa quan điểm truyền thống,  kinh điển và quan điểm mới, riêng của Việt Nam.  Trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam, chúng ta có thể nhận  thấy rằng:  Thứ nhất, yếu tố ổn định chính trị – xã hội được xem là tiền đề, điều kiện để phát  triển nhanh và bền vững.  Thứ hai, chiến lược phát triển nhanh, bền vững tập trung nâng cao chất lượng phát  triển, kết hợp giữa phát triển kinh tế với việc phát triển toàn diện con người, thực  hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống,  khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc coi trọng bảo  vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển.  Thứ ba, chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam đã đề cập một cách khá toàn  diện các khía cạnh khác nhau của sự phát triển, trong đó nổi lên việc giải quyết hài  hòa các mối quan hệ, như hài hòa giữa phát triển nhanh và bền vững, giữa tăng trưởng  về số lượng và nâng cao chất lượng, giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo  chiều sâu; hài hòa giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, giữa tăng  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 4
  5. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn trưởng kinh tế với bảo vệ và cải thiện môi trường, v.v.. Hài hòa là một trong những  nội dung quan trọng của chiến lược phát triển bền vững.  Thứ tư, vấn đề trọng tâm, mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển bền vững chính  là vấn đề dân sinh. Điều đó được thể hiện trong nội dung của chiến lược mà chúng tôi  vừa trình bày. Chiến lược phát triển nhanh và bền vững đã chú trọng đến chất lượng  của sự tăng trưởng kinh tế, những mục tiêu của sự tăng trưởng hướng tới sự phát  triển toàn diện của con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo  nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói  giảm nghèo, với việc coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước  phát triển. Rõ ràng, mục tiêu của sự tăng trưởng như vậy là nhằm giải quyết ngày  càng tốt hơn vấn đề dân sinh, bảo đảm cho mọi người dân có cuộc sống ấm no và  hạnh phúc. Trên thực tế, chiến lược phát triển nhanh, bền vững là phương thức hữu  hiệu bảo đảm cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục  tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.  Mặt khác, khi tiếp cận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chúng ta cần tiếp cận cả  trên phương diện đạo đức lẫn phương diện pháp lý. Chúng ta không nên chỉ hiểu trách  nhiệm của doanh nghiệp ở khía cạnh đạo đức của chủ doanh nghiệp, ở công tác từ  thiện của doanh nghiệp, mà cần hiểu cả ở khía cạnh pháp lý, tức thực thi trách nhiệm  xã hội là một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Việc kết hợp cả hai phương  diện đạo đức và pháp lý là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp nâng cao trách  nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 2. Cơ sở thực tiễn : Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trách nhiệm xã  hội không còn là vấn đề xa lạ. Các doanh nghiệp nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội  của mình sẽ đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Qui tắc ứng xử  (Code of Conduct hay gọi tắt là CoC). Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những  người tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ  trên toàn cầu ngày càng quan tâm hơn tới ảnh hưởng của việc toàn cầu hoá đối với  quyền của người lao động, môi trường và phúc lợi cộng đồng. Những doanh nghiệp  không thực hiện trách nhiệm xã hội có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường  quốc tế.  Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách nhiệm xã  hội thì lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích mà  doanh nghiệp thu được khi thực hiện trách nhiệm xã hội bao gồm giảm chi phí, tăng  doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất và  thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới. Chúng ta có thể dẫn ra đây một số ví dụ  về lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.  Thứ nhất, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần giảm chi phí và tăng năng suất. Một  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 5
  6. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất nhờ đầu tư, lắp đặt các thiết bị  mới. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất bao bì lớn của Ba Lan đã tiết kiệm được  12 triệu đô la Mỹ trong vòng 5 năm nhờ việc lắp đặt thiết bị mới, nhờ đó làm giảm  7% lượng nước sử dụng, 70% lượng chất thải nước và 87% chất thải khí(5).  Chi phí sản xuất và năng suất lao động phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống quản lý nhân  sự. Một hệ thống quản lý nhân sự hiệu quả cũng giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí  và tăng năng suất lao động đáng kể. Chế độ lương, thưởng hợp lý, môi trường lao  động sạch sẽ và an toàn, các cơ hội đào tạo và chế độ bảo hiểm y tế và giáo dục đều  góp phần giảm tỷ lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, do đó giảm chi phí tuyển dụng và đào  tạo nhân viên mới. Tất cả cái đó góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao  động.  Thứ hai, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng doanh thu. Mỗi doanh nghiệp  đều đứng trên địa bàn nhất định. Do đó, việc đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế địa  phương có thể tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung ứng rẻ và đáng tin cậy  hơn và nhờ đó tăng doanh thu. Chẳng hạn, Công ty Hindustan Lever, một chi nhánh  của tập đoàn Unilever tại Ấn Độ, vào đầu những năm 70 chỉ hoạt động được với 50%  công suất do thiếu nguồn cung ứng sữa bò từ địa phương và do vậy, đã bị lỗ trầm  trọng. Để giải quyết vấn đề này, công ty đã thiết lập một chương trình tổng thể giúp  nông dân tăng sản lượng sữa bò. Chương trình này bao gồm đào tạo nông dân cách  chăn nuôi, cải thiện cơ sở hạ tầng cơ bản và thành lập một ủy ban điều phối những  nhà cung cấp địa phương. Nhờ đó, số lượng làng cung cấp sữa bò đã tăng từ 6 tới hơn  400, giúp cho công ty hoạt động hết công suất và đã trở thành một trong những chi  nhánh kinh doanh lãi nhất tập đoàn(6).  Thứ ba, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín  của công ty. Trách nhiệm xã hội có thể giúp doanh nghiệp tăng giá trị thương hiệu và  uy tín đáng kể. Đến lượt nó, uy tín giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, hấp dẫn các đối  tác, nhà đầu tư và người lao động. Trên thế giới, những công ty khổng lồ đang chi một  khoản tiền rất lớn để trở thành hình mẫu kinh doanh lý tưởng. Chẳng hạn, hãng điện  tử dân dụng Best Buy đã có chương trình tái chế sản phẩm; hãng cà phê nổi tiếng  Starbucks đã và đang bắt tay vào các hoạt động cộng đồng; hãng nước khoáng nổi  tiếng của Pháp Evian phân phối sản phẩm của mình trong những chai nước thân thiện  với môi trường. Những tập đoàn đa quốc gia như The Body Shop (tập đoàn của Anh  chuyên sản xuất các sản phẩm dưỡng da và tóc) và IKEA (tập đoàn kinh doanh đồ  dùng nội thất của Thụy Điển) là những ví dụ điển hình. Cả hai công ty này đều nổi  tiếng không chỉ vì các sản phẩm có chất lượng và giá cả hợp lý của mình, mà còn nổi  tiếng là các doanh nghiệp có trách nhiệm đối với môi trường và xã hội(7).  Thứ tư, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần thu hút nguồn lao động giỏi. Nguồn  lao động giỏi, có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm của  doanh nghiệp. Có một thực tế là, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực được đào  tạo có chất lượng cao không nhiều. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 6
  7. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn nào thu hút, giữ chân họ và phát huy hết khả năng của họ trong hoạt động quản lý, sản  xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, việc thu hút và giữ được nhân viên có  chuyên môn tốt là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp. Trong điều kiện của  nền kinh tế thị trường, những doanh nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo  cho nhân viên cơ hội đào tạo, có chế độ bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch  sẽ có khả năng thu hút và giữ được nguồn nhân lực có chất lượng cao.      Tất cả những điều nói trên là cơ sở để luận chứng cho sự cần thiết phải thực hiện  trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, đồng thời là những kinh nghiệm bổ  ích, có giá trị tham khảo cho các doanh nghiệp Việt Nam.     Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là  vấn đề mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Bằng  chứng là, từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động  Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may trao  giải thưởng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững”  nhằm tôn vinh các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp  trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy  rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu  không thể thiếu được đối với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và  hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh  nghiệp sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi  thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất  kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành  trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các  chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, doanh thu của các doanh nghiệp  này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1  lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%.     Bên cạnh hiệu quả kinh  tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo được sự gắn bó và  hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút được lực lượng lao động có  chuyên môn cao(8).     Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã hội  trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt  Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng ký thực hiện trách nhiệm xã  hội dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng  đồng địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động.     Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua ở Việt Nam, nhiều  doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm xã hội của mình.      Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo cáo tài chính, không bảo  đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm  môi trường. Điển hình là các vụ xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi  trường nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư của các Công ty Miwon,  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 7
  8. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty Giấy Việt Trì, công ty Hyundai Vinashin  (Khánh Hòa), các vụ sản xuất thực phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con người,  như nước tương có chứa chất 3­MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực  phẩm chứa hàn the, sữa có chứa melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các  quy định pháp luật về lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho  người lao động cũng không còn là hiện tượng hiếm thấy, đã và đang gây bức xúc cho  xã hội.     Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng và những giải  pháp để khắc phục tình trạng đó.     Hiện đang có những ý kiến khác nhau về nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện  trách nhiệm xã hội của nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam. Một số người cho rằng, trách  nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam chưa được luật hóa ở tất cả các doanh  nghiệp. Đối với các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu, do yêu cầu của khách  hàng nên buộc phải thực hiện trách nhiệm xã hội, còn đối với doanh nghiệp vừa và  nhỏ, do khó khăn về tài chính và thiếu ràng buộc về pháp lý nên nhiều doanh nghiệp  chỉ hiểu trách nhiệm xã hội là “các khoản đóng góp từ thiện”. Một số người khác cho  rằng, việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, làm  giảm khả năng cạnh tranh ban đầu mà chưa thấy ngay được lợi ích trước mắt, do đó  các doanh nghiệp vừa và nhỏ không muốn thực hiện trách nhiệm xã hội. Nói tóm lại,  việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam còn tương đối khó  khăn. Sở dĩ như vậy trước hết là do sự hiểu biết chưa đầy đủ của doanh nghiệp về  trách nhiệm xã hội; trách nhiệm xã hội doanh nghiệp chỉ đơn thuần được hiểu là các  khoản đóng góp từ thiện. Thứ hai, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh  nghiệp cũng gây ra những khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp do thiếu nguồn  vốn và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội. Điều này đặc biệt  khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó hầu hết các doanh nghiệp ở  Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.    Nói một cách toàn diện hơn, theo nghiên cứu năm 2002 của Ngân hàng thế giới tại  Việt Nam, những rào cản và thách thức lớn nhất cho việc thực hiện trách nhiệm xã  hội của doanh nghiệp bao gồm:   1. Nhận thức về trách nhiệm xã hội trong và giữa các doanh nghiệp Việt Nam còn có  sự khác nhau khá lớn.  2. Năng suất lao động bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng bộ nhiều bộ quy tắc ứng  xử (CoC).  3. Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội  doanh nghiệp (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ).  4. Sự khác biệt giữa Bộ luật lao động và bộ quy tắc ứng xử của khách đặt hàng gây  nhầm lẫn cho doanh nghiệp, chẳng hạn như vấn đề làm thêm hay hoạt động của công  đoàn.  5. Sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên thực  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 8
  9. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn tế đang cản trở lợi ích thị trường tiềm năng mang lại cho doanh nghiệp.  6. Mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước khiến cho việc áp dụng bộ quy tắc ứng  xử không đem lại hiệu quả mong muốn, ví dụ như mức lương, phúc lợi và các điều  kiện tuyển dụng(9).  Những nguyên nhân được liệt kê ra trên đây có thể quy lại thành ba nguyên nhân chính,  đó là nguyên nhân về nhận thức,nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân pháp lý. Do đó,  để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, cần bám sát những nguyên nhân nói trên  để đề ra những giải pháp phù hợp. Cụ thể là:  Thứ nhất, cần tuyên truyền, giáo dục cho tất cả các doanh nghiệp, trước hết là các  chủ doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, phải làm cho họ hiểu rằng  trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không phải chỉ bó gọn trong công tác từ thiện.  Công tác tuyên truyền, giáo dục rất quan trọng, bởi tất cả những hành vi của con  người đều thông qua ý thức của con người, đều do ý thức của họ điều khiển. Do đó,  vấn đề đặt ra là, phải làm sao cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp  trở thành động cơ bên trong của các chủ doanh nghiệp. Việc thực hiện trách nhiệm xã  hội trước hết cần được xem là một hành vi đạo đức và được điều khiển bằng động  cơ đạo đức. Đây chính là giải pháp bên trong đạo đức.  Thứ hai, cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải thực thi  trách nhiệm xã hội một cách đầy đủ và nghiêm túc. Điều này liên quan đến trách  nhiệm của nhà nước trong việc tạo môi trường và khung pháp lý cho doanh nghiệp  hoạt động. Khung pháp lý chính là biện pháp có hiệu lực nhất đối với việc thực hiện  trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; đồng thời, là giải pháp hỗ trợ đắc lực cho giải  pháp về đạo đức, làm cho các động cơ đạo đức thường xuyên được củng cố và ngày  càng có hiệu lực trên thực tế. Cái khó khăn cho Việt Nam và các nước đang phát triển  nói chung là trong bối cảnh cần phải thu hút đầu tư nước ngoài, nếu đặt nặng các  mục tiêu về môi trường và xã hội thì các doanh nghiệp khó có thể thu hút đầu tư nước  ngoài. Nhưng, nếu không đặt mạnh vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thì  những hậu quả về môi trường và xã hội sẽ không thể bù đắp được bằng các kết quả  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 9
  10. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn của sự tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu phát triển bền vững, do vậy, cũng không thể  thực hiện được.     CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BỘ TIÊU CHUẨN SA 8000 TẠI  CÔNG TY CP DỆT MAY BÌNH ĐỊNH                    Ảnh: M.H Công ty CP May Bình Định, đơn vị  đầu tiên của tỉnh Bình Định, vừa được Hiệp hội  các nhà May mặc và Giày da Hoa Kỳ (WRAP) cấp chứng nhận SA 8000 ­ tiêu chuẩn   quốc tế  về  trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (DN). Đây là tiêu chuẩn đưa ra các  yêu cầu đối với các điều kiện làm việc mà DN phải cung cấp cho các nhân viên của   mình.  1. Tiêu chuẩn nhân bản : ­ Hiện nay, ngoài yêu cầu về giá cả, chất lượng, người tiêu dùng còn quan tâm   hơn tới những yếu tố  xã hội của sản phẩm, đặc biệt là những yêu cầu về  giá trị đạo đức của nhà sản xuất. Đó là những chính sách đối với người lao   động, nhất là lao động nữ, như sự bảo đảm về tiền lương, thu nhập, an toàn  lao động... Những sản phẩm chất lượng cao và ổn định thường không thể ra  đời trong điều kiện làm việc hạn chế như: thời gian làm việc trong ngày kéo  dài, an toàn lao động không được quan tâm, chế độ lương không công bằng,   phân biệt đối xử. Môi trường làm việc không thuận lợi sẽ   ảnh hưởng đến  chất lượng sản phẩm.  ­ SA 8000 đã quy định các tiêu chuẩn cơ  bản về: lao động trẻ  em, lao động  cưỡng bức, sức khỏe và an toàn, quyền tự do thành lập các hiệp hội về đàm  phán tập thể, phân biệt đối xử, các hình thức kỷ luật, giờ làm việc và chế độ  trả  công… Ví dụ: người lao động có tự  nguyện vào làm việc hay không?  Lương thưởng, chế  độ  phụ  cấp, bảo hiểm xã hội được trả  như  thế  nào?  Những chi tiết nhỏ  như  vòi nước uống, điều kiện vệ  sinh cho công nhân,  điều kiện nhà ăn tập thể  cũng phải sạch sẽ, nguồn cung cấp thực phẩm   phải rõ ràng... Điều kiện lao động phải đảm bảo đầy đủ ánh sáng, có bảo hộ  lao động, có thiết bị phòng cháy chữa cháy, cửa thoát hiểm…  ­ Ông Bùi Văn Nhại, Trưởng phòng Tổ  chức­Hành chính, Trưởng Ban phụ  trách việc thực hiện SA 8000 của Công ty CP May Bình Định, cho biết:   “Khoảng vài năm trở lại đây, trước khi đặt hàng, các khách hàng, đặc biệt là   SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 10
  11. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn khách hàng lớn từ  châu Âu và châu Mỹ  đã cử  đại diện đến kiểm tra môi  trường làm việc của công ty và đã có yêu cầu cụ thể về các tiêu chuẩn trách   nhiệm xã hội. Họ sẽ  không ký kết hợp đồng sản xuất nếu đơn vị  vi phạm   Bộ  luật Lao động, như  sử  dụng lao động trẻ  em, để  công nhân lao động  trong môi trường thiếu an toàn... Sau vài lần như  thế, chúng tôi nhận thấy  việc áp dụng SA 8000 sẽ mang lại nhiều lợi ích cho công ty. Vì vậy, từ đầu   năm 2009, công ty đã tiến hành các thủ  tục và áp dụng các yêu cầu của SA   8000 vào hoạt động sản xuất của đơn vị”. ­ Nhờ  có nền tảng sẵn, quy trình sản xuất, an toàn lao động… đã gần tương   thích với các yêu cầu của tiêu chuẩn SA 8000, nên việc thực hiện tiêu chuẩn   SA 8000 của Công ty CP May Bình Định gặp nhiều thuận lợi. Chi phí cho  việc thực hiện tiêu chuẩn này tại đây chỉ  khoảng 100 triệu đồng, bao gồm  chi phí đánh giá và cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lao   động cho phù hợp tiêu chuẩn. Song song với việc trang bị, thay đổi các trang   thiết bị  kỹ  thuật, Công ty CP May Bình Định cũng đã áp dụng nhiều hình  thức tuyên truyền để  nâng cao nhận thức về  an toàn lao động cho cán bộ,   công nhân trong toàn đơn vị.  2. Nâng cao năng lực cạnh tranh: ­ Hiện nay, Công ty CP May Bình Định có 2 xí nghiệp: Quy Nhơn 1 và Quy  Nhơn 2, giải quyết việc làm cho hơn 900 lao động, trong đó 93% là lao động  nữ. Bà Phạm Thị  Bạch Mai ­ Giám đốc Xí nghiệp Quy Nhơn 1, cho biết:   “Từ khi áp dụng SA 8000, công nhân được rèn luyện tác phong công nghiệp,   tính tập trung trong sản xuất, ý thức trách nhiệm về chất lượng sản phẩm…  nên năng suất lao động và chất lượng sản phẩm được nâng cao. Nhờ  đó,  công ty được nhiều khách hàng tin tưởng…”. ­ Nhờ cải thiện quy trình sản xuất, giảm tối đa thời gian “chết”, nên thời gian   làm việc trong một ngày của công nhân đã giảm đi 1 giờ so với trước khi áp   dụng SA 8000. Cụ  thể, ngày trước công nhân phải làm việc đến 18 giờ,  thậm chí có ngày đến 19 giờ hoặc 20 giờ mới ra về thì nay làm việc đến 17   giờ  là kết thúc. Mặc dù giảm giờ  làm, nhưng thu nhập bình quân của công  nhân vẫn cao, từ 1,6 triệu đồng đến 1,7 triệu đồng/người/tháng, tăng khoảng  200 ngàn đồng/người/tháng so với trước khi thực hiện SA 8000.  ­ Theo đánh giá của các chuyên gia, áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 giúp DN tăng   cường khả năng mở rộng mạng lưới kinh doanh toàn cầu và tiếp cận những   khách hàng đòi hỏi cao về  giá trị  đạo đức của sản phẩm. Đối với các DN,  đặc biệt là các DN nhà nước, DN nhà nước đã cổ phần hóa, việc áp dụng SA   8000 gặp nhiều thuận lợi, vì hầu hết các yêu cầu của SA 8000 đã được thể  chế  hóa trong Bộ  luật Lao động, tất cả  các DN đều có tổ  chức công đoàn   SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 11
  12. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn bảo vệ  quyền lợi của người lao động. Áp dụng SA 8000, các DN còn có   thêm một phương pháp khoa học để quản lý các vấn đề  liên quan đến điều  kiện lao động, quyền lợi của người lao động, phương pháp hoạch định để  cải thiện điều kiện làm việc… Qua đó, sẽ  giúp DN đỡ  mất thời gian vì  không phải trải qua các đợt kiểm tra liên ngành, các cuộc thanh tra về  lao   động.  ­ SA 8000 được xem như  một giải pháp khẳng định giá trị  đạo đức của sản   phẩm; và là giấy thông hành cho sản phẩm của DN đi vào các thị trường lớn  trên thế giới. Do vậy, việc áp dụng SA 8000 trở thành một yêu cầu cần thiết   nếu DN muốn đưa sản phẩm của mình vào thị  trường các nước phát triển,  đặc biệt là thị trường Mỹ. Ngoài ra, việc áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 còn là  một động lực để  tăng năng suất lao động, người lao động sẽ  được khuyến  khích do được lao động trong một môi trường đảm bảo về sức khỏe, an toàn  và được tôn trọng về mặt nhân cách.  ­ Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của  WTO được 3 năm, tỉnh ta mới chỉ có 1 DN có chứng nhận SA 8000. Để nâng   cao năng lực cạnh tranh, các DN trong tỉnh cần chủ  động hơn trong việc   trang bị  những tiêu chuẩn cần thiết cho quá trình hội nhập. Mặt khác, tỉnh  cũng cần có những giải pháp hỗ trợ thiết thực để các DN có thể tiếp cận và   áp dụng các tiêu chuẩn liên quan đến trách nhiệm xã hội mà cụ  thể  là tiêu  chuẩn SA 8000. CHƯƠNG 3 : VẤN ĐỀ VỚI TRÁCH NHIỆM XàHỘI SA8000 TẠI VIỆT NAM 1. SA 8000 TRÊN THẾ GIỚI Công ty Avon Products’ Suffern đặt tại New York đã được cấp chứng chỉ SA8000 đầu  tiên, mở màn cho hàng loạt các công ty khác trên thế giới, chủ yếu là các công ty sản  xuất đồ chơi, các công ty may mặc, và các công ty giày da của Trung Quốc và các quốc  gia đang phát triển khác.  Vấn đề là khi một công ty đa quốc gia thực hiện SA8000, những nhà cung cấp và các  nhà thầu phụ của công ty này cũng phải thực hiện SA8000 theo. Như trường hợp của  cộng ty Mỹ phẩm Avon, khi Avon tuyên bố thực hiện SA8000, 19 nhà máy của Avon  và các nhà cung cấp nguyên liệu và bán thành phẩm cho Avon cũng phải thực hiện  SA8000. Công ty sản xuất đồ chơi Toys’R Us cũng có những đòi hỏi tương tự đối với  các nhà cung cấp và các nhà thầu phụ của mình. Công ty đồ chơi này yêu cầu 5000 nhà  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 12
  13. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn cung cấp của mình, chủ yếu là ở Trung Quốc cũng phải có chứng chỉ SA8000. Tập  đoàn Siêu thị Sainsbury’s ở châu Âu cũng đang tuân thủ nghiêm ngặt hệ thống tiêu  chuẩn SA8000 đang chuẩn bị thực hiện yêu cầu này trên các chi nhánh toàn cầu. Bảng 1 : Tổng số công ty được cấp chứng chỉ SA8000 tính đến tháng 12 năm  2001  Nơi đăng  Số   STT  Ngành ký lượng   1  Trung Quốc  31  May, đồ da  2  Ấn Độ  10  Thuốc lá, may, đan  3  Anh  3  Tw vấn, mỹ phẩm, may mặc  4  Ba Lan  3  Mỹ phẩm, điện tử  5  Bangladesh  1  May mặc  6  Brazil  6  Tư vấn, mỹ phẩm, điện tử, chế biến thực phẩm  7  Hà Lan  1  May SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 13
  14. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn  8  Hàn Quốc  3  Mỹ phẩm  9  Hy Lạp  1  Điện tử  10  Indonesia  7  May, đan, gỗ, trái cây đóng hộp  11  Malaysia  1  Nhựa  12  Mỹ  1  Ô tô  13  Nam Phi  1  Rượu  14  Nhật  1  Mỹ phẩm  15  Pakistan  5  Dược, may  16  Phần Lan  1  Xây dựng  17  Pháp  3  Thực phẩm, tư vấn, dược  18  Philippines  2  Trái cây đóng hộp  19  Slovenia  1  Gia dụng  Tây Ban   20  3  Trái cây đóng hộp, dịch vụ vệ sinh, vận tải Nha  21  Thái Lan  6  May mặc, giày thể thao  22  Thổ Nhĩ Kỳ  4  Vận tải, xây dựng, hoá chất, dược SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 14
  15. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn  23  Việt Nam  8  May, đồ chơi  Dịch vụ vệ sinh, cơ khí, nhựa, gia dụng, xây dựng, hoá   24  Ý  21 chất, tư vấn, chế biến thực phẩm    Tổng cộng  124   Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của CEPAA Những số liệu trên cho thấy sự tham gia đông đảo của các xí nghiệp gia công trong 3  ngành chủ yếu là đồ chơi, may mặc và giày da tại Trung Quốc và các nước đang phát  triển. Việt Nam cũng đã có số doanh nghiệp được cấp chứng chỉ SA8000 tăng từ 1  doanh nghiệp vào 1999 lên đến 8 vào tháng 5/2002. Hiện nay, các nhà bán lẻ hàng may  mặc thường công bố những lập luận đại loại như: “Chúng tôi mong mỏi tất tất cả  đơn vị gia công đặt tại các nước đang phát triển phấn đấu đạt chứng chỉ SA8000” hay  “Hầu hết các xí nghiệp gia công của hãng chúng tôi đều có chứng chỉ SA8000”. Công  chúng có thể kiểm tra được điều này vì danh sách các công ty được cấp chứng chỉ  được công bố rộng rãi trên các trang Web hoặc các tài liệu định kỳ của các cơ quan  cấp chứng chỉ. 2. TẠI SAO DOANH NGHIỆP PHẢI QUAN TÂM ĐẾN SA8000? Các doanh nghiệp may mặc và gia công xuất khẩu của Việt Nam đang đứng trước rất  nhiều thách thức trong quá trình hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu. Một trong  những thách thức lớn nhất của các doanh nghiệp gia công Việt Nam là phải đáp ứng  các yêu cầu của bên đối tác và cả yêu cầu của người tiêu dùng ở các thị trường nước  ngoài. Người tiêu dùng ở các thị trường Bắc Mỹ và châu Âu không chỉ đòi hỏi các tiêu  chuẩn thông thường về sản phẩm như giá cả, chất lượng, mẫu mã, bao bì, v.v... mà  còn đòi hỏi giá trị đạo đức của sản phẩm, cụ thể hơn là điều kiện làm việc của công  nhân tạo ra các sản phẩm này. Người tiêu dùng tại các nước tiên tiến đang bị lôi cuốn  vào các chiến dịch quảng cáo của các hiệp hội đấu tranh cho quyền lợi của công nhân  và trẻ em, đã trở nên dè dặt hơn khi mua các sản phẩm có nguồn gốc từ các quốc gia  Châu Á và châu Phi, những quốc gia mà báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng  đã đưa thông tin về các trường hợp ngược đãi công nhân. Chính vì vậy, SA8000, một  hệ thống tiêu chuẩn chú trọng nhiều đến điều kiện làm việc của người lao động,  được xem là một giải pháp khẳng định giá trị đạo đức của sản phẩm. SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 15
  16. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn 1/ Nội dung cơ bản của SA8000 Hệ thống SA8000 được xây dựng dựa trên mô hình tiêu chuẩn như ISO 9000, ISO  9002 hiện đang được các công ty áp dụng. Dựa trên những nguyên tắc và chuẩn mực  về quyền lao động thế giới, được quy ước trong các công ước của tổ chức lao động  thế giới, các công ước của Liên Hiệp Quốc, SA8000 bao gồm 9 lĩnh vực chính: (1) lao  động trẻ em, (2) lao động cưỡng bức, (3) sức khoẻ và an toàn lao động, (4) bồi thường  thiệt hại và rủi ro, (5) giờ làm việc, (6) phân biệt đối xử, (7) kỷ luật, (8) tự do thành  lập hiệp hội và thỏa ước lao động tập thể và (9) hệ thống quản lý.   Tiêu chuẩn SA8000 quy định cụ thể những yêu cầu về trách nhiệm xã hội để  một công ty có thể: a) Triển khai, duy trì, và thực hiện các chính sách và các quy trình để quản lý những  vấn đề có thể phát sinh từ quan hệ giữa doanh nghiệp với người lao động, đây là  những vấn đề mà công ty có thể giám sát hoặc tác động; b) Chứng minh cho các bên liên quan  rằng các chính sách, quy trình và các nguyên tắc  được thực hiện đầy đủ theo những yêu cầu của chuẩn này; Tuy nhiên, các yêu cầu của chuẩn này được áp dụng khắp nơi có tính đến vị trí địa lý,  ngành sản xuất kinh doanh và quy mô của công ty. Cấp chứng chỉ thực hiện SA8000 có nghĩa là một nhà máy, xí nghiệp đã được kiểm tra  và công nhận đã tuân thủ những quy trình kiểm tra của CEPAA và thực hiện nghiêm  ngặt những chuẩn này. Bộ phận kiểm tra để cấp chứng chỉ tỉm kiếm những bằng  chứng chứng minh rằng hệ thống quản lý hoạt động hiệu quả, các quy trình và kết  quả thực hiện chứng tỏ việc tuân thủ SA8000. Thêm vào đó, xí nghiệp được cấp  chứng chỉ cũng sẽ được kiểm tra giám sát chặt chẽ qua những cuộc thanh tra giữa kỳ  trong năm. Một khi đã được cấp chứng chỉ, nhà sản xuất sẽ được quyền trưng dấu  hiệu của chứng chỉ này và dùng chứng chỉ để chứng minh với khách hàng và cổ đông  về thái độ tuân thủ SA8000 của mình. Xét về thực chất, SA8000 bao gồm những điều kiện cụ thể nhằm thực hiện trách  nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc sử dụng lao động. SA8000 không phải là  những quy định xa lạ với luật lao động của nước ta. Có khác chăng là SA8000 ngoài  việc đưa ra những quy định hết sức cụ thể, còn bao gồm ba yếu tố quan trọng cho  việc theo dõi trách nhiệm xã hội: (i) các tiêu chuẩn áp dụng cụ thể và những yêu cầu  tối thiểu, (ii) các chuyên gia đánh giá phải tìm hiểu nguyện vọng của tất cả các bên  quyền lợi như các tổ chức phi chính phủ, công đoàn và dĩ nhiên là cả công nhân và (iii)  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 16
  17. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn cơ chế khiếu nại và kháng cáo cho phép cá nhân công nhân, các tổ chức và những bên  quyền lợi khác đề cập đến những sai phạm về lao động của các doanh nghiệp đã  được cấp chứng chỉ. Ngoài ra, SA8000 còn chú trọng đặc biệt đến hệ thống quản lý chính sách và quy trình   thực hiện tiêu chuẩn SA8000, cũng như các hệ thống quản lý văn bản thể hiện quyết  tâm áp dụng hệ thống tiêu chuẩn SA8000. Tổ chức lao động quốc tế và Liên Hiệp  Quốc cũng như các tổ chức phi chính phủ khác đang ngày càng hoàn thiện các điều  kiện lao động. Mặt khác, các công ty ngày càng chấp nhận hệ thống SA8000 và ý thức  được lợi ích của hệ thống này, kể cả về phía công nhân và phía quản lý. Các công ty  lớn ngày càng yêu cầu các nhà cung cấp và các công ty gia công thực hiện SA8000,  cũng như áp dụng các quy định lao động. Chính vì vậy, các tổ chức nghiệp đoàn, các  chiến dịch của người tiêu dùng và các nhà bảo vệ quyền lao động cũng chọn lựa  SA8000 là hệ thống tiêu chuẩn mạnh mẽ và mang tính bao quát để cải thiện quyền lợi  lao động.  Việc áp dụng SA8000 trong các doanh nghiệp tại Việt Nam Qua một số nghiên cứu sơ bộ và khảo sát về việc áp dụng các tiêu chuẩn SA8000 do  nhóm nghiên cứu SA8000 của Viện Kinh Tế TP.HCM tiến hành trong năm 2000, việc  áp dụng SA8000 trong các doanh nghiệp Nhà nước có nhiều thuận lợi hơn các doanh  nghiệp Ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc  và các điều luật về Lao động, vốn rất gần gũi với các quy định của Luật lao động  quốc tế mà SA8000 lấy đó làm nền tảng. Việc áp dụng SA8000 trong các doanh  nghiệp Nhà nước giúp triển khai cụ thể và đi sâu vào khía cạnh hiệu quả của hoạt  động quản lý lao động nên gặp rất nhiều thuận lợi và ủng hộ từ các cấp quản lý và  ngay chính công nhân. Ngược lại, áp dụng SA8000 trong các doanh nghiệp ngoài quốc  doanh có phần khó khăn hơn và đòi hỏi nỗ lực và cam kết của cấp quản lý. Nếu cấp  quản lý không ủng hộ thì SA8000 rất khó thực hiện. Sức ép từ phía người mua hàng  hay công ty mẹ chính là động cơ thúc đẩy chính để áp dụng SA 8000 trong các doanh  nghiệp Ngoài quốc doanh, trong khi các doanh nghiệp Nhà nước hầu như đã ở bước  đầu ủng hộ SA8000. Mặc khác, tất cả các bên lợi ích của xã hội: nhà cung cấp, nhà sản xuất, người tiêu  dùng, các nhà thầu chính và các nhà thầu phụ mặc dù quan hệ chặt chẽ với nhau trong  những hợp đồng sản xuất và tiêu thụ nhưng người lao động của từng doanh nghiệp,  từng công ty không lao động trong những điều kiện giống nhau. Trong xu hướng toàn  cầu hóa, việc chia nhỏ các công đoạn sản xuất và một sản phẩm được hoàn thành từ  những chi tiết có xuất xứ từ nhiều xưởng sản xuất khác nhau, những quốc gia có nền  văn hóa khác nhau và điều kiện lao động khác nhau càng trở nên có hiệu quả về kinh  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 17
  18. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn tế hơn. Vấn đề là làm thế nào để cạnh tranh công bằng và phát triển bền vững? Phát  triển bền vững phải cân nhắc khía cạnh lợi ích xã hội trước tiên. Nếu xét riêng yếu tố  lao động trẻ em và xem những điều khoản khác của hệ thống tiêu chuẩn SA8000 như  những tiêu chuẩn tối thiểu đảm bảo mức thu nhập và điều kiện làm việc thích hợp  cho người lao động như những lợi ích thêm vào thu nhập của người lao động, thì xét  về phương diện chung, việc thực hiện SA8000 sẽ là hướng đi đúng của con đường  phát triển bền vững. Vấn đề là phải ghi nhớ rằng doanh nghiệp luôn phải duy trì lợi  thế cạnh tranh. Họ theo đuổi SA8000 là nhằm củng cố lợi thế cạnh tranh chứ không  nhằm mục đích nhân từ, lý tưởng hay thực hiện dân chủ. Chừng nào doanh nghiệp còn  tạo ra lợi nhuận thì nó còn tồn tại. Chính vì vậy, họ áp dụng SA8000 phải đem lại thế  cạnh tranh và duy trì lợi nhuận chứ không phải vì theo đuổi lý tưởng nào khác.  Hoạt động quảng cáo SA8000 cũng là một rủi ro. Nếu không tham gia đúng luật chơi  theo đòi hỏi của khách hàng và các công ty mẹ, các đơn vị gia công có thể mất hợp  đồng và đứng ngoài cuộc chơi. Chính vì vậy, SA8000 đã vượt ra khỏi tầm kiểm tra,  giám sát hoạt động quản lý lao động tại các doanh nghiệp và đóng vai trò thể hiện sự  thành công của một công ty.bằng cách giữ lại những cá nhân tài năng. Đây chính là  cuộc cách mạng về khái niệm và sự công nhận về nghĩa vụ xã hội của doanh nghiệp.  SA8000 ngày càng được sử dụng như một công cụ thể hiện hoạt động và sứ mệnh  của doanh nghiệp, công đoàn và các tổ chức phi chính phủ. Nhiều công ty ngày nay hoạt động ở khắp các châu lục trên thế giới và có hàng ngàn  nhà cung cấp, người bán lẻ và các đơn vị gia công nên việc thực hiện được điều này  rất khó khăn và đòi hỏi rất nhiều thời gian chuẩn bị. Tuy nhiên, đây chính là một trong  những thử thách đặt ra trong quá trình toàn cầu hóa. SA8000 trở nên một vấn đề không  còn ở giai đoạn tranh cãi nữa mà đang trong giai đoạn hòan thiện và lôi cuốn sự chú ý  của công chúng. Từ những trường hợp tranh chấp lao động được báo chí và các  phương tiện đại chúng đề cập đến, ta có thể thấy một số khó khăn trong việc áp dụng  SA8000 tại Việt Nam như sau: •  Ít được ưu tiên, đặc biệt là trong những thời điểm kinh tế xuống dốc. •  Không muốn tiết lộ các ghi chép tài chánh. •  Không có khả năng chi trả chi phí áp dụng SA8000. •  Khó khăn trong hệ thống giám sát. •  Chênh lệch về nguồn lực giữa các công ty đa quốc gia và các doanh nghiệp vừa và  nhỏ:  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 18
  19. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn •  Nhận thức của các bên lợi ích về SA8000 chưa cao. •  Cách biệt văn hóa giữa khách hàng và các nhà cung cấp. •  Thực tế của hoạt động gia công gây ra nhiều khó khăn trong việc xác định khối  lượng công việc giám sát. Hoạt động gia công tại Việt Nam cho thấy rằng một sản phẩm cuối cùng thường trải  qua nhiều công đoạn khác nhau trong các doanh nghiệp độc lập khác nhau. Các công ty  áp dụng việc gia công nhằm trả chi phí thấp cho hàng hóa và dịch vụ có chất lượng.  Và chính các đơn vị gia công có thể đưa ra giá gia công thấp bởi vì họ không đáp ứng  được các quy định luật pháp của nhà nước về mức lương tối thiểu hay các quy định  lao động chẳng hạn. Quy mô nhỏ của doanh nghiệp giúp họ trốn tránh sự thanh tra  giám sát của nhà nước. Các doanh nghiệp này từ chối hoạt động của công đoàn bởi vì  họ không muốn bị phiền nhiễu bởi họ không thể đáp ứng hết được những yêu cầu  của nghiệp đoàn và công đoàn. Làm thế nào để các điều kiện lao động và các thực tiễn  lao động có thể cải thiện trong những doanh nghiệp này khi chính những công ty lớn  hơn tạo ra thịnh vượng và việc làm cho các xí nghiệp vừa và nhỏ chính là một vấn đề  đang thách thức các cấp quản lý lao động, bản thân các doanh nghiệp và các nhà  nghiên cứu xã hội đang quan tâm đến lãnh vực này. CHƯƠNG 4 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. Kết luận chung: Từ những phân tích so sánh giữa Tiêu chuẩn SA 8000 và Bộ luật Lao động, đồng thời  đi sâu phân tích những quy định về pháp luật lao động của nước ta và thực tiễn áp  dụng, có thể rút ra một số kết luận sau.  1. Nhìn chung, có thể nhận thấy sự tương đồng ở mức độ cao giữa Tiêu chuẩn SA  8000 và những quy định về pháp luật lao động Việt Nam. Từ đó, có thể tin tưởng việc  áp dụng SA 8000 vào Việt Nam có nhiều thuận lợi. Aùp dụng các tiêu chuẩn mới này  cho doanh nghiệp nhằm vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động, vừa nâng cao uy  tín sản phẩm của doanh nghiệp, phù hợp với xu hướng hòa nhập trong khu vực và trên  thế giới hiện nay. 2. Nhiều tiêu chuẩn đặt ra trong Tiêu chuẩn SA 8000 cũng như yêu cầu của ILO còn  một số mặt vượt quá khả năng so với mức trung bình của các doanh nghiệp Việt Nam.  Nhưng khuyến khích áp dụng Tiêu chuẩn SA 8000 sẽ tạo điều kiện nâng cao dần chất  lượng của môi trường lao động tại các doanh nghiệp, phù hợp với mong muốn của các  nhà chức trách Việt Nam.  SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 19
  20. Chuyên đề chuyên sâu                                                              GVHD:Nguy ễn Ng ọc  Tuấn 3. Cũng như các nước đang phát triển khác, hệ thống pháp luật lao động của Việt Nam  vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện, còn nhiều bất cập cần sớm sửa đổi, để phù  hợp với xu hướng chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Giữa việc phổ  biến Tiêu chuẩn SA 8000 và hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động có mối liên hệ  nhân quả và tác động qua lại lẫn nhau. 4. Hiện nay, dân số Việt Nam thuộc loại trẻ và số ngừơi trong độ tuổi lao động rất  đông, hàng năm có khoảng 1,4 triệu người bước vào độ tuổi lao động, khiến cho nhu  cầu công ăn việc làm lớn. Aùp lực công ăn việc làm càng làm cho người lao động có vị  thế yếu hơn so với người sử dụng lao động. Các chính sách về lao động phải lưu ý  vấn đề này để đảm bảo quyền lợi toàn diện của người lao động. 5. Vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn tại các Doanh nghiệp hiện nay còn rất yếu.  Nhiều cán bộ Công đoàn phụ thuộc giới chủ nên không phát huy vai trò, chức năng của  mình. Người lao động lại không có sự lựa chọn tổ chức nghiệp đoàn nào khác (do Việt  Nam chỉ có một tổ chức công đoàn duy nhất). Vì vậy, cần nghiên cứu tổ chức một hệ  thống công đoàn có tính chuyên nghiệp tại các doanh nghiệp, có lương riêng (từ ngân  sách và từ sự đóng góp của người lao động). Từ đó, có cơ sở nâng cao vị thế và vai trò  của các cán bộ công đoàn trong doanh nghiệp, nhằm bảo vệ hiệu quả quyền lợi của  người lao động. Lao động trong khu vực nhà nước: Lao động trong khu vực Nhà nước bao gồm lao động trong các đơn vị hành chánh sự  nghiệp và lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. Đối với lao động  trong khu vực này các quyền lợi xã hội được đảm bảo khá tốt theo Bộ Luật Lao động  Việt Nam. Người lao động trong khu vực này có được Tổ chức Công đoàn bảo vệ  quyền lợi rất tốt, ngoài ra ở khu vực này còn có sự chỉ đạo rất sát sao của các cấp ủy  Đảng. Đây có thể coi là một thế mạnh, một yếu tố rất mạnh trong việc thu hút lao  động vào làm việc trong khu vực này. Tuy nhiên lao động sử dụng nhiều chất xám  trong khu vực này hầu hết đều phải chịu thiệt thòi, chủ yếu nhất là yếu tố tiền lương,  do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các quy định của Bộ Luật lao động do bị khống chế  bởi khung tiền lương, trong đó đặc biệt là khu vực hành chánh sự nghiệp, tiền lương  quá thấp, không thể đảm bảo cuộc sống. Chính vì thế hiện tượng sử dụng giờ làm  việc cho Nhà nước để chạy việc riêng là rất phổ biến. Trong hiện tượng này, chúng ta  thấy nổi lên một vấn đề, các quy định của nhà nước không phù hợp với cuộc sống,  nên những người giám sát việc thực hiện quy định này (lãnh đạo các đơn vị) phải chấp  nhận làm ngơ phần nào cho người lao động chạy thêm để kiếm thêm thu nhập. SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2