intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “ Thị trường chứng khoán Việt Nam hạn chế và giải pháp”

Chia sẻ: Sâu Hư | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:20

432
lượt xem
160
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'đề tài “ thị trường chứng khoán việt nam hạn chế và giải pháp”', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “ Thị trường chứng khoán Việt Nam hạn chế và giải pháp”

  1. Luận văn ĐỀ TÀI " ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG TỔ CHỨC " 1
  2. Mục lục Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp .......... 3 Phần 1: Những vấn đề chung của thị trường chứng khoán .................... 3 Thị trường chứng khoán sơ cấp .................................... 5 Thị trường chứng khoán thứ cấp ................................... 6 Phần 2: Hạn chế của TTCK Việt Nam ................................ 9 Đánh giá về các công ty niêm yết: .................................. 10 Không chính thức lớn gấp nhiều lần chính thức ............. 15 Các nhà đầu tư vẫn dè dặt khi mua cổ phiếu. ............... 17 2.2.1. Thông tin không cân xứng. ................................... 17 2.2.2. Sự tham gia của những nhà đ ầu tư có tổ chức trên thị trường ít ............ 19 2.2.3. Hoạt động của thị trường OTC lớn hơn nhiều lần so với thị trường chính thức .. 19 2.2.4. Chiến lược phát triển thị trường vốn của Chính phủ và khuôn khổ pháp lý liên quan còn có nhiều bất cập ............................................ 20 2.2.5. Quy mô nhỏ và mức độ công khai thông tin thấp của các doanh nghiệp Việt Nam 20 2.3.3.Về phía các công ty chứng khoán ................................ 22 Kết luận.................................................... 23 2
  3. Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp Mở đầu Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là một trong những thị trường tiềm năng, đang phát triển rất nóng, đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ công chúng đến Chính phủ vì nó có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Với vai trò quan trọng đó thì một câu hỏi đặt ra là thị trường chứng khoán Việt Nam đã làm tốt vai trò của mình chưa? Hay nó còn nhiều hạn chế và chưa phát huy hết tính hiệu quả của nó. Để trả lời cho câu hỏi đó tôi chọn đề tài: “ Thị trường chứng khoán Việt Nam hạn chế và giải pháp”. Phần 1: Những vấn đề chung của thị trường chứng khoán 1.1. Sơ lược về thị trường chứng khoán 1.1.1. Thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó có thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung. Tính tập trung ở đây được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất. Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở Giao Dịch chứng khoán (stock exchange). Tại SGDCK, các giao dịch được tập trung tại một địa điểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. 3
  4. TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC ( over the counter). Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này được hình thành theo phương thức thoả thuận. 1.1.2. Chức năng của thị trường chứng khoán Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư - mua chứng khoán do các công ty phat hành, số tiền nhà rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng xản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung - cấp cho công chúng một thị trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK - mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng - khoán, hoạt động của doanh nghiệp được phản ánh một một cách tổng 4
  5. hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách - kinh tế vĩ mô: Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biều của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 1.1.3. Cơ cấu thị trường chứng khoán Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường,, TTCK có 2 loại: Thị trường chứng khoán sơ cấp TTCK sơ cấp là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Chức năng của thị trường sơ cấp: 5
  6. Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của TTCK, đó là huy động vốn cho đầu tư. Thị trường sơ cấp vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư, vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài; các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệ, các tổ chức tài chính, Chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế, mà các phương thức khác không làm được. Như vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách thông qua việc phát hành trái phiếu, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của mình tốt hơn. Thị trường chứng khoán thứ cấp Sau khi chứng khoán mới được phát hành trên thị trường sơ cấp, chúng sẽ được giao dịch trên thị trường thứ cấp. Khác với thị trường sơ cấp, tiền bán chứng khoán trên thị trường thức cấp thuộc về các nhà đầu tư và nhà kinh doanh chứ không thuộc về các công ty phát hành chứng khoán. Xét về phương thức tổ chức và giao dịch, TTCK bao gồm 3 loại: SGDCK, OTC và thị trường thứ 3. 1.1.4. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 6
  7. Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên - TTCk phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, cá nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và đánh giá theo phương thức đấu giá. Nguyên tắc công bằng: Công bằng có nghĩa là mội người - tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó. Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là loại hàng hoá trừu - tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ thông tin theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, SGD, các CTCK và các tổ chức có liên quan. Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này có nghĩa là các giao - dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tôt chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nàh đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp cá khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. 7
  8. Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra - trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản. 1.1.5. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán Nhà phát hành: là các tôt chức thực hiện huy động vốn thông - qua TTCK dưới hình thức phát hành các chứng khoán. Nhà đầu tư: là những người thực sự mua và bán chứng - khoán trên TTCK. Các công ty chứng khoán: là những công ty hoạt động trong - lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh. Các tổ chức có liên quan đến TTCK: Uỷ ban chứng khoán - Nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, công ty đánh giá hệ số tín nhiệm... 8
  9. Phần 2: Hạn chế của TTCK Việt Nam 2.1. Xuất phát điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam thấp Hình thành từ việc cổ phần hoá các DNNN, các công ty có cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam chủ yếu do Nhà nước nắm cổ phần chi phối và vì vậy, hoạt động của các công ty này ảnh hưởng đáng kể về tính chất quản lý theo cách mà các DNNN vẫn làm. Bệ máy với các thành viêc chủ chốt vẫn là những cá nhân do Nhà nước (cổ đông lớn nhất) bổ nhiệm. Phần còn lại, do các cá nhân b ên ngoài và người lao động trong công ty nắm giữ. Nhiều cổ đông trong công ty thậm chí không có đủ kiến thức về pháp luật để biết được mình có quyền lợi như thế nào khi nắm giữ quyền biểu quyết. Hành lang pháp lý chưa đầy đủ và không rõ ràng, thiếu một cơ chế giám sát đủ mạnh đã gần như không bảo vệ được quyền lợi cho các cổ đông thiểu số. Ban giám đốc của một số công ty này vẫn do Nhà nước bổ nhiệm và gần như chẳng có trách nhiệm gì đáng kể về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Chính đặc điểm này làm cho bộ máy quản lý trở nên chuyên chế và có xu hướng chú trọng tới lợi ích các nhân của mình hơn là lợi ích của các cổ đông và các chủ sở hữu. Điều mà chúng ta vẫn thường thấy trong các doanh nghiệp nhà nước. Trước hiện trạng đó câu hỏi đặt ra là các công ty kiểm toán độc lập, người chịu trách nhiệm về sự trung thực của các báo cáo tài chính do các công ty này công bố và cá nàh đầu tư, liệu đã làm hết trach nhiệm của mình? Và các thông tin được SSC yêu cầu công bố là hoàn toàn không đủ để có thể phân tích và đánh giá một cách sát thực hơn về tình 9
  10. hình kinh doanh và tài chính của các công ty này. Một số công ty còn cung cấp thông tin một cách thiếu trung thực và không đầy đủ. Đánh giá về các công ty niêm yết: Các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam hầu như đều là các DNNN cổ phần hoá. Trong một vài năm trước và sau khi cổ phần hoá, các công ty này tạo được mức lợi nhuận tương đối hấp dẫn vì được hưởng những lợi thế nhất định từ khi chuyển đổi sở hữu. Phần lớn các công ty đầu tiên được lựa chọn để tiến hành cổ phần hoá (theo kiểu thí điểm) đều là các công ty đang hoạt động tương đối tốt của các Bộ, các Tổng công ty hoặc của các địa phương. Ngoài ra, việc được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong những năm đầu sau khi cổ phần hoá tạo cho các doanh nghiệp này khả năng tạo được mức lợi thế tương đối hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, lợi thế của một số công ty có được là nhờ một số lợi thế độc quyền mà đơn vị chủ quản trước đây mang lại. Những lợi thế này chỉ tạo được khả năng duy trì lợi nhuận trong một khoảng thời gian ngắn và hầu như không xuất phát từ tiềm năng và khả năng cạnh tranh thực lực của doanh nghiệp. Chính vì vậy, doanh nghiệp không có khả năng đối phó với những biến động của nền kinh tế. Tình hình hoạt động của họ vì vậy chịu tác động rất mạnh của các yếu tố kinh tế vĩ mô. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam vốn được xem là hết sức phức tạp, tuy ít có khả năng xảy ra khủng hoảng nghiêm trọng nhưng lại đầy rủi ro ( khả năng ít xảy ra khủng hoảng nghiêm trọng vì nguyên nhân sự trì trệ về kinh tế chứ không phải xuất phát từ một nền kinh tế đủ tiềm lực để đối phó với rủi ro). 10
  11. Các công ty niêm yết hiện tại hầu hết là các công ty có lịch sử ra đời khá lâu và hoạt động trong các ngành kinh tế rất phổ thông và mang tính cạnh tranh cao như sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng... thị trường Việt Nam và quốc tế đối với các sản phẩm này hầu như đã bão hoà. Mặt khác, các sản phẩm này phần lớn nằm trong danh mục các mặt hàng cắt giảm thuế khi hội nhập. Khả năng mở rộng và phát triển nhanh là rất ít. Việc này duy trì ở mức độ hiện tại và gia tăng chút ít so với năm trước. Điều này làm cho giá trị cổ phiếu của công ty khó có thể gia tăng ổn định. 2.2. TTCK Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập Kinh tế quí 1-2007 tăng 7,7%, nhưng những thử thách trên con đường phát triển cũng đã được phân tích, đó là sự yếu kém về cơ sở hạ tầng, về năng lượng, và những áp lực cải cách… Tình hình của Việt Nam hiện nay, áp lực cải cách vẫn lớn trong khi không gian để cải cách còn rộng. Thách thức nhiều nhưng điều kiện xử lý thách thức cũng rất lớn. Nhìn ra ngoài, nền kinh tế thế giới cũng sẽ phát triển ổn định trong năm nay và điều này cho phép Việt Nam tiếp tục duy trì tăng trưởng cao trong một thời gian nữa. Theo báo cáo kinh tế của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Việt Nam sẽ đạt tốc độ tăng trưởng GDP 8,3% trong năm 2007 và 8,5% trong năm 2008 nếu Việt Nam tiếp tục thúc đẩy việc cải cách kinh tế và hệ thống hành chính công. Quí 1 năm 2007, tiền gửi (bằng tiền đồng) của các tổ chức kinh tế tăng mạnh (11,4% so với mức 1,05% của quí 1-2006) thì tiền gửi của 11
  12. dân cư tăng thấp (6,6% so với mức 13,2% của quí 1-2006 (Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Nguyên nhân được xác định là trong quí 1 nhiều doanh nghiệp đã tích cực phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn trong khi người dân dồn tiền vào chứng khoán thay vì gửi vào ngân hàng. TTCK tiếp tục phát triển nhưng không ổn định. Nguyên nhân có phần do tác động tích cực của tình hình kinh tế tăng trưởng cao và ổn định nhưng chủ yếu do nhu cầu tăng quá lớn và do hoạt động đầu cơ trên trên thị trường Cơ chế hạn chế đầu tư đã đặt các kế hoạch của chính phủ nhằm cải cách các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thiếu hiệu quả hoặc thua lỗ vào tình huống khó xử. Hiện nay, với việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại Thế giới WTO, hoạt động M&A đã bắt đầu có những bước tiến ổn định đầu tiên, bằng việc các nhà đầu tư nước ngoài đã tận dụng được lợi thế của các doanh nghiệp đã cổ phần hòa kết hợp với môi trường pháp lý đang được hoàn thiện, gia nhập vào đội ngũ các doanh nghiệp trong nước, hoặc là đối tác kinh doanh hoặc là thông qua kênh hoạt động độc lập. Hầu hết các công ty trong nước rất cần đến nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, những bí quyết công nghệ - kỹ thuật và phương pháp quản lý của nước ngoài, để có thể cạnh tranh với thị trường thế giới cũng như để duy trì một vị thế vững chắc trước sự đổ xô đầu tư của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài vào thị trường trong nước. Mặc dù vẫn trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam đang dần thích nghi để theo kịp sự phát triển của công nghệ và quy trình quản lý nguồn nhân lực hiện đai trong môi trường kinh doanh quốc tế ngày nay. 12
  13. Chính phủ đã nhấn mạnh mong muốn của mình là sẽ sớm khai trương cổng thông tin điện tử trực tuyến nhằm hỗ trợ các giao dịch M&A , giúp cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài xích lại gần nhau hơn. Đòn bẩy chính trong các hoạt động M&A gần đây chính là do tốc độ tăng trưởng cao của kinh tế Việt Nam, với mức bình quân giai đoạn 2001-2005 là 7,5%. Một số chuyên gia kinh tế rong lĩnh vực ngân hàng và đầu tư dự đoán rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể vượt ngưỡng 8% trong năm 2007, có khả năng vượt qua Trung Quốc để trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất khu vực châu Á Thị trường cổ phiếu của Việt Nam là một trong những thị trường phát triển nóng nhất châu Á, lượng giao dịch trung bình đạt mức 32 lần thu nhập. Công tác kế toán nghèo nàn cũng như các báo cáo tài chính chuẩn đã gần như không thể giúp các nhà đầu tư tiềm năng không biết nên tiến hành đầu tư vào các công ty Việt Nam. Hiện nay, đang có mối lo ngại về chất lượng quản lý ở các công ty tư nhân ở Việt Nam cũng như các công ty nhà nước, mà các công ty đó đang cải thiện tình hình một cách ổn định, tuy nhiên, họ vẫn khó có thể được chấp nhận với những thông lệ quốc tế dù là đơn giản nhất Cho đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 20% khối lượng giao dịch của thị trường trong năm 2006. Tuy nhiên, rất nhiều nhà đầu tư lo ngại xảy ra câu chuyện về sự tăng trưởng nhanh, nóng đang diễn ra ở khu vực châu Á. Số lượng các tài khoản giao dịch chứng khoán ở thị trường trong nước đã tăng gần gấp 4 lần từ 32000 tài khoản lên 13
  14. 120000 tài khoản trong năm 2007, trong khi đó số các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán đã tăng gấp đôi lên con số 107 trong vòng sáu tháng cuối năm 2006. Có những thay đổi quan trọng về quy định đối với thẻ tín dụng, nhằm giảm bớt sự lo ngại đang gia tăng của các nhà đầu tư và tạo khung pháp lý về đầu tư của Việt Nam phù hợp hơn với các tiêu chuẩn của WTO đề ra, một luật về chứng khoán mới đã được ban hành vào đầu năm 2007, nhằm thiết lập những tiêu chuẩn mới đối với các công ty trong việc công bố thông tin và công tác quản lý, cho dù các công ty đó được giao dịch trên sàn giao dịch OTC hay trên sàn giao dịch chính thức. Các quy định về thị trường cũng đang dần theo hướng các tiêu chuẩn tài chính quốc tế cũng như các tiêu chuẩn quốc tế về kiểm toán đối với các doanh nghiệp quốc doanh. Nếu các quy định pháp lý về thị trường chứng khoán theo kịp được tốc độ lưu chuyển vốn nhanh của các tổ chức nước ngoài. Những dự đoán tiêu cực về sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Việt Nam đã buộc chính phủ phải cấp thiết đưa ra việc kiểm soát chặt chẽ, trong đó có mô hình hạn chế của Thái Lan, trong đó bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài, nếu muốn đầu tư, thì phải cam kết tối thiểu là trong thời hạn 1 năm mới được rút vốn ra khỏi thị trường này. Cho dù là tốt hơn, hay xấu đi, cho đến nay, các nhà lãnh đạo Đảng cũng đã lưu tâm tới ý kiến đóng góp của nước ngoài là để cho thị trường tự điểu chỉnh hơn là ban hành những quy định về mặt hành chính để điểu chỉnh việc định giá của cổ phiếu, đây là dấu hiệu gần đây nhất trong những cam kết của Việt Nam hướng tới kinh tế thị trường. 14
  15. Tính đến ngày 15/12/2006, chỉ số VN-Index đã tăng trên 140% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi, chỉ số chứng khoán toàn cầu chỉ tăng 17%; chỉ số chứng khoán của các thị trường đang lên chỉ tăng 40% và chỉ số chứng khoán của các nước Asean chỉ tăng 35%. VN-Index đã tăng đến 70%. VN-Index đã tăng quá nóng. Nguyên nhân gây ra sự gia tăng bất hợp lý của thị trường chủ yếu là do tính không chuyên nghiệp của các nhà đầu tư. Tin tưởng vào đánh giá lạc quan về TTCK Việt Nam của Merrill Lynch, một trong những tổ chức kinh doanh chứng khoán hàng đầu thế giới, và tin rằng sau tháng 6 các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào Việt Nam đã tạo ra cơn sốt vào thời gian giữa tháng 4. Tiếp đến, việc trở thành thành viên thứ 150 của WTO và tổ chức thành công Hội nghị APEC vào tháng 11 cộng với dự báo về khả năng có một làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam có thể là nguyên nhân chính tạo ra cơn sốt cuối năm 2006. Tuy cung tăng mạnh, bình quân một ngày có hai loại cổ phiếu mới lên sàn, nhưng lại chưa đáp ứng được sự mong đợi của thị trường. Ngoài vấn đề về ngành nghề, quy mô, năng lực cạnh tranh khi hội nhập..., thì giá của một số loại CP mới vừa được chào sàn cao hơn khá nhiều so với mức giá giao dịch tại thị trường OTC trước đó. Vì vậy, nhiều loại cổ phiếu không được các NĐT chấp nhận và bị rớt giá vào những phiên giao dịch sau đó. Giá của một số CP mới lên sàn hiện nay khiến cho nhiều người phải xem xét lại và so sánh với giá của các CP tốt đã được niêm yết. Vì thế, lượng tiền được chuẩn bị để mua các CP mới lại tiếp tục nằm trong tài khoản ngân hàng hoặc quay sang mua các loại CP tốt đang được các nhà đầu tư nước ngoài chú ý thâu tóm. Không chính thức lớn gấp nhiều lần chính thức 15
  16. Hiện nay, đến 70-80% vốn đổ vào chứng khoán là để đầu cơ chứ chưa phải là đầu tư vốn cho nền kinh tế”. Theo đánh giá của các chuyên gia, TTCK không chính thức bắt đầu hình thành tự phát không có sự quản lý một vài năm trước khi Trung tâm Giao dịch chứng khoán Tp. HCM đi vào hoạt động năm 2000. Nguồn cổ phiếu chính được giao dịch trên thị trường không có sự quản lý của cơ quan quản lý TTCK là ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM, là các doanh nghiệp nhà nước trước đây đã được cổ phần hóa và các công ty cổ phần do các tổ chức kinh doanh và đầu tư tư nhân thành lập. Trong gần 6.700 công ty cổ phần, thì đến nay đã có 131 công ty đã được niêm yết và đăng ký giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM và Hà Nội tính đến ngày 22/12/2006. Số còn lại chưa niêm yết và vẫn đang được giao dịch trên thị trường không chính thức. Theo ước tính, khối lượng giao dịch cổ phiếu của thị trường không chính thức lớn gấp khoảng 3 đến 6 lần so với lượng giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán, và giá trị giao dịch cổ phiếu bình quân mỗi ngày cũng lớn hơn 3 lần. Tuy nhiên, mức độ rủi ro trong thanh toán trên TTCK không chính thức khá cao. Việc thanh toán các giao dịch không chính thức không được bảo vệ bởi luật pháp hay tổ chức nào, và hoàn toàn phụ thuộc vào uy tín cá nhân của nhà môi giới chứng khoán không có giấy phép. Ngoài ra, TTCK không chính thức cũng không bảo vệ cho nhà đầu tư, không có cơ chế thị trường hiệu quả, công bằng và trật tự, cũng không có được sự minh bạch như ở các trung tâm giao dịch chứng 16
  17. khoán. Các quy định của TTCK không được áp dụng bên ngoài các trung tâm giao dịch chứng khoán có tổ chức, và do vậy, ủy ban CKNN không có khả năng quản lý TTCK không chính thức. Thiếu một hệ thống báo cáo và công bố thông tin giao dịch minh bạch, vấn đề giá cả trở nên không rõ ràng. Năng lực tài chính, chuyên môn và năng lực hoạt động của các nhà môi giới không được kiểm chứng cũng không được giám sát, và thông tin về tổ chức phát hành không được xác minh. Các nhà đầu tư vẫn dè dặt khi mua cổ phiếu. Thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay nhỏ, giá và chỉ số chứng khoán luôn biến động. Các công ty cổ phần chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chưa có sức hút mạnh mẽ đối với nhà đầu tư. Hàng hóa cho thị trường thưa thớt, chất lượng kém. Số lượng tài khoản thường xuyên có giao dịch chiếm tỷ lệ thấp, tài khoản của nhà đầu tư có tổ chức và nước ngoài rất ít, dẫn đến thị trường có những giai đoạn trầm lắng. 2.1. Nguyên nhân 2.2.1. Thông tin không cân xứng. Hiện nay cả nước có khoảng hơn 6.700 công ty cổ phần, bao gồm khoảng 2.000 DNNN cổ phần hoá và còn lại là các công ty cổ phần thành lập theo Luật doanh nghiệp. Chỉ cần khoảng 10% số công ty trên tham gia bán cổ phần ra thị trường chứng khoán thì chúng ta sẽ có con số “cung” cao gấp 15 lần hiện tại. Việt Nam hiện có tổng số tiền gửi tiết kiệm tại các ngân hàng hơn 400.000 tỷ đồng, cộng với hàng chục ngàn tỷ đồng tiền mua bảo hiểm 17
  18. hàng năm và một lượng tiền không nhỏ đổ vào bất động sản, vàng v.v… Nếu những khoản tiền này được đưa vào thị trường chứng khoán, đây chắc chắn sẽ là một tiềm năng rất lớn từ phía “cầu” của thị trường chứng khoán. Nếu với lượng tiềm năng thị trường rất lớn cả về cung và cầu như vậy, tại sao chúng ta chưa có số lượng trao đổi mua bán lớn. Cung và cầu chưa gặp được nhau chính bởi sự ngăn cách của bức tường thông tin Hiện nay, người mua có rất ít thông tin và điều kiện để thẩm định giá trị của loại cổ phiếu mình mua: Thứ nhất, rất khó tìm kiếm báo cáo tài chính của một doanh nghiệp, cần phải nhìn nhận vấn đề công khai thông tin như một điều kiện tiên quyết cho một thị trường chứng khoán lành mạnh. Thứ hai, một số các công ty cung cấp thông tin một cách thiếu trung thực và không đầy đủ như sự kiện của Bánh kẹo Biên Hoà hay Cơ khí Bình Triệu (2005), làm giảm độ tin cậy của thông tin. Thị trường chứng khoán không thể thiếu các qui định được tuân thủ nghiêm ngặt về kế toán và kiểm toán. Thứ ba,nếu các công ty chứng khoán đưa ra thông tin chính xác thì khả năng phân tích toàn diện để xác định giá trị cổ phiếu là rất khó khăn đối với nhà đầu tư. Việt Nam rất cần những tổ chức độc lập có đủ trình độ và uy tín để đánh giá đúng "sức khoẻ" của các doanh nghiệp. Những đánh giá chính xác và công bằng của họ sẽ giúp các nhà đầu tư đủ tự tin để quyết định mua hàng. 18
  19. 2.2.2. Sự tham gia của những nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường ít Về phía cầu, những nhà đầu tư cổ phiếu trên TTGDCK Việt Nam hầu hết là cá nhân mang tính đầu cơ hơn là đầu tư, góp phần tạo tính bất ổn định của thị trường. Điều này làm cho chính các doanh nghiệp ngần ngại khi quyết định huy động vốn qua TTGDCK. Những nhà đầu tư tổ chức Việt Nam cũng như nước ngoài chưa tham gia nhiều vào mua cổ phiếu của các công ty niêm yết, một phần là do tính kém hấp dẫn của các cổ phiếu trên thị trường, nhưng cũng một phần do những khó khăn, phức tạp liên quan đến khuôn khổ pháp lý. Những khó khăn đó là khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số chưa đầy đủ, thiếu các chuẩn mực về công khai minh bạch thông tin, các quy định chưa rõ ràng về chế độ thuế đối với nhà đầu tư, quỹ đầu tư nước ngoài, các hạn chế về hạn mức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, v.v.. 2.2.3. Hoạt động của thị trường OTC lớn hơn nhiều lần so với thị trường chính thức Việc bán cổ phiếu cho công chúng ở bên ngoài TTGDCK (thị trường phi tập trung OTC) diễn ra khá sôi động, nhưng hiện chưa có quy định pháp luật nào kiểm soát hoạt động này. Theo ước tính, số lượng doanh nghiệp huy động vốn cổ đông từ công chúng trên thị trường không chính thức này gấp khoảng 30 lần số doanh nghiệp niêm yết chính thức. Trong số khoảng 1.000 DNNN đã được cổ phần hóa, chỉ có chưa tới 3% đã niêm yết, như vậy có thể cho rằng một số lượng lớn cổ phiếu của các doanh nghiệp này đang được mua bán trên thị trường không chính thức. 19
  20. Ở các nền kinh tế phát triển, thị trường OTC thường cũng có quy mô lớn hơn gấp nhiều lần thị trường tập trung, song thị trường này được kiểm soát bởi các luật lệ khá chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Các luật lệ này vẫn chưa được thiết lập ở Việt Nam. Thị trường phi chính thức không được kiểm soát này có nguy cơ sụp đổ cao và có thể gián tiếp làm tổn hại cho thị trường chính thức mới manh nha phát triển. 2.2.4. Chiến lược phát triển thị trường vốn của Chính phủ và khuôn khổ pháp lý liên quan còn có nhiều bất cập Mặc dù Chính phủ đã thể hiện quyết tâm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam (qua Quyết định số 163/2003/QD-TTg ra ngày 5/8/2003 định ra các mục tiêu chiến lược như đưa tổng giá trị thị trường chứng khoán đạt 2-3% GDP vào năm 2005 và 10-15% GDP vào năm 2010), nhưng các quy định pháp lý hiện hành cũng như những biện pháp triển khai dường như lại không thống nhất với chiến lược này. Ví dụ như theo văn bản Nhà nước gần đây nhất về cổ phần hóa (Chỉ thị số 01 Chính phủ tháng 1 năm 2003), Nhà nước vẫn sẽ nắm giữ ít nhất 51% cổ phần đối với các DNNN cổ phần hóa có vốn trên 5 tỷ đồng và sản xuất kinh doanh có lãi. Như vậy, trong số gần 2.000 DNNN nằm trong kế hoạch cổ phần hóa đến năm 2005, sẽ có rất ít trường hợp mà cổ đông tư nhân được chiếm phần đa số trong các công ty lớn. 2.2.5. Quy mô nhỏ và mức độ công khai thông tin thấp của các doanh nghiệp Việt Nam Các công ty tư nhân của Việt Nam mới phát triển trong vòng hơn một thập kỷ qua, đặc biệt là từ năm 2000. Vì vậy, hầu hết các công ty tư 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2