ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Suy hô hấp là một tình trạng bệnh lý thường gặp, nguyên nhân có thể do tại cơ quan<br />
hô hấp hoặc tại các cơ quan khác gây ra. Một số trường hợp suy hô hấp có thể điều trị<br />
dễ dàng và hiệu quả nếu được chẩn đoán và điều trị sớm.<br />
Suy hô hấp có thể là cấp tính hoặc mạn tính. Trong suy hô hấp cấp đặc trưng bởi sự<br />
rối loạn khí máu và toan kiềm đe dọa tính mạng người bệnh. Suy hô hấp mạn thường<br />
biểu hiện không rõ ràng, kín đáo và yên lặng.<br />
Mặc dù có nhiều bước tiến quan trọng trong chẩn đoán, theo dõi và điều trị, song suy<br />
hô hấp cấp (SHHC) vẫn là nguyên nhân chủ yếu trực tiếp gây tử vong ở các đơn vị<br />
chăm sóc tích cực (ICU). Rất khó đưa ra một con số thống nhất về tỷ lệ SHHC, do còn<br />
tồn tại nhiều quan niệm, định nghĩa và phân loại khác nhau, nhưng thường chiếm 1015% các trường hợp nhập ICU và là biến chứng của 50-75% bệnh nhân nằm ICU trên<br />
7 ngày. Tỷ lệ tử vong do suy hô hấp cấp trong khoảng 6-40%[1]. Khoảng cách dao<br />
động này có liên quan đến tính không đồng nhất trong các tập hợp thống kê nghiên cứu<br />
của các tác giả khác nhau.<br />
Theo nghiên cứu của tác giả Phan Hữu Duyệt và cộng sự, tại thành phố Hồ Chí<br />
Minh có : 1775 ca phải vào cấp cứu do suy hô hấp trong đó độ I: 18,6%, độ II: 65,4%,<br />
độ III 16,5%[1]. Một số nghiên cứu của khoa cấp cứu Viện Phụ Sản TW (1984-1990)<br />
thì tỷ lệ tử vong do bệnh hô hấp chiếm 40,5% và trong đó số trẻ em tử vong trong tình<br />
trạng suy hô hấp là trên 50%.<br />
Khoa Cấp Cứu bệnh viện Thanh Nhàn là nơi tiếp nhận và xử trí gần như tất cả các<br />
trường hợp bệnh nhân suy hô hấp cấp, vì vậy việc nghiên cứu về phân loại ban đầu tình<br />
trạng suy hô hấp cấp là rất cần thiết….Cho tới nay chưa có một nghiên cứu nào về vấn<br />
đề này. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài :<br />
“ Thực trạng về phân loại và xử lý ban đầu bệnh nhân suy hô hấp cấp tại khoa<br />
Cấp Cứu bệnh viện Thanh Nhàn 01/2011-10/2011” với mục tiêu :<br />
<br />
1<br />
<br />
1- Mô tả phân loại mức độ và xử trí ban đầu bệnh nhân suy hô hấp cấp tại khoa cấp<br />
cứu bệnh viện Thanh Nhàn 01/2011-10/2011.<br />
2- Mô tả một số yếu tố liên quan đến mức độ suy hô hấp cấp ở bệnh nhân tại khoa<br />
cấp cứu bệnh viện Thanh Nhàn 01/2011-10/2011.<br />
<br />
2<br />
<br />
Thang Long University Library<br />
<br />
CHƢƠNG 1 : TỔNG QUAN<br />
1.1 Sinh lý hô hấp: Chức năng thông khí phổi<br />
Không khí trong phế nang được thường xuyên đổi mới nhờ quá trình thông khí<br />
(ventilation). Máu được đưa lên phổi nhờ tuần hoàn phổi được gọi là quá trình tưới<br />
máu (perfusion). Quá trình trao đổi khí ở phổi xảy ra liên tục là nhờ không khí phế<br />
nang thường xuyên được đổi mới và máu qua phổi cũng thường xuyên được đổi<br />
mới[2].<br />
Không khí di chuyển từ nơi áp suất cao đến nơi áp suất thấp. Các động tác hô<br />
hấp tạo ra sự chênh lệch áp suất khí giữa phế nang và không khí bên ngoài làm cho<br />
không khí ra vào phổi, dẫn đến khí phế nang thường xuyên đổi mới[2].<br />
1.1.1 Các động tác hô hấp.<br />
- Động tác hít vào.<br />
+ Hít vào bình thường được thực hiện do các cơ hít vào thông thường co lại làm<br />
tăng kích thước của lồng ngực theo cả ba chiều: Chiều thẳng đứng, chiều trước sau và<br />
chiều ngang. Động tác hít vào là động tác chủ động vì đòi hỏi co cơ. Do kính thước<br />
lồng ngực tăng theo cả ba chiều nên dung tích lồng ngực tăng lên làm cho áp suất âm<br />
trong khoang màng phổi càng âm hơn, kéo phổi giãn ra theo lồng ngực, áp suất không<br />
khí ở phế nang thấp hơn áp suất ở khí quyển và không khí từ ngoài tràn vào phổi[2].<br />
+ Khi hít vào gắng sức, đầu và tay trở thành điểm tỳ và cơ co sẽ nâng xương sườn<br />
lên thêm nữa; đường kính của lồng ngực tăng, phổi giãn ra nhiều hơn và khí vào phổi<br />
nhiều hơn. Động tác hít vào tối đa là động tác chủ động[2].<br />
- Động tác thở ra.<br />
+ Thở ra thông thường: Cuối thì hít vào, các cơ hít vào giãn ra làm các xương<br />
sườn hạ xuống, cơ hoành lồi lên phía lồng ngực, thể tích của lồng ngực giảm đi áp<br />
suất màng phổi bớt âm, phổi co lại, dung tích phổi giảm, áp suất trong phế nang cao<br />
hơn áp suất khí quyển, không khí từ phổi ra ngoài. Động tác thở ra thông thường là<br />
động tác thụ động[2].<br />
3<br />
<br />
+ Thở ra gắng sức: Thở ra gắng sức là động tác chủ động vì cần co thêm một số<br />
cơ chủ yếu là cơ thành bụng. Những cơ này co sẽ kéo các xương sườn xuống thấp<br />
nữa đồng thời ép vào các tạng ở bụng, đẩy cơ hoành lồi lên thêm về phía lồng ngực<br />
làm dung tích lồng ngực giảm thêm, dung tích phổi cũng giảm thêm, áp suất phế<br />
nang tăng cao hơn nữa nên không khí ra ngoài nhiều hơn[2].<br />
1.1.2 Các thể tích và dung tích thở.<br />
- Các thể tích thở.<br />
+ Thể tích khí lưu thông: Ký hiệu là TV (Tadal Volume) là thể tích khí của một<br />
lần hít vào hoặc thở ra bình thường. Ở người trưởng thành bình thường, thể tích khí<br />
lưu thông khoảng 0,5 lít, bằng 12% dung tích sống[2].<br />
+ Thể tích khí dự trữ hít vào: Ký hiệu là IRV (Inspiratory Reserve Volume) là thể<br />
tích khí hít vào thêm được tối đa sau khi hít vào bình thường. Thể tích này ở người<br />
bình thường khoảng 1,5 - 2 lít, chiếm khoảng 56% dung tích sống[2].<br />
+ Thể tích khí dự trữ thở ra: Ký hiệu là ERV (Expiratory Reserve Volume) là thể<br />
tích khí thở ra tối đa thêm được sau khi thở ra bình thường. Thể tích này ở người<br />
bình thường khoảng 1,1 - 1,5 lít, chiếm 32% dung tích sống[2].<br />
+ Thể tích khí cặn: Ký hiệu là RV (Residual Volume) là thể tích khí còn lại trong<br />
phổi sau khi đã thở ra tối đa. Bình thường thể tích khí cặn khoảng 1 - 1,2 lít[2].<br />
-<br />
<br />
Các dung tích thở.<br />
Dung tích là tổng của hai hoặc nhiều thể tích. Ký hiệu dung tích là C (Capacity).<br />
<br />
+ Dung tích sống: Ký hiệu VC (Vital Capacity). Dung tích sống là thể tích khí<br />
thở ra tối đa sau khi đã hít vào tối đa. Dung tích sống bao gồm thể tích khí lưu<br />
thông, thể tích khí dự trữ hít vào và thể tích khí dự trữ thở ra (VC = TV + IRV +<br />
ERV). Dung tích sống thể hiện khả năng tối đa của một lần hô hấp. Người Việt<br />
Nam trưởng thành bình thường có dung tích sống khoảng 3,5 - 4,5 lít ở nam giới và<br />
2,5 - 3,5 lít ở nữ giới. VC phụ thuộc vào tuổi, giới, chiều cao. VC ở nam giới cao<br />
hơn nữ giới ở cùng tuổi. VC giảm theo tuổi, tăng theo chiều cao. VC tăng lên nhờ<br />
luyện tập, giảm nhiều ở một số bệnh phổi hay bệnh ở lồng ngực như tràn dịch màng<br />
phổi, u phổi, gù, vẹo cột sống[2].<br />
4<br />
<br />
Thang Long University Library<br />
<br />
Dung tích sống dùng để đánh giá thể lực, đánh giá sự phục hồi chức năng phổi và<br />
dùng đánh giá hạn chế hô hấp.<br />
+ Dung tích hít vào: Ký hiệu là IC (Inspiratory Capacity) là thể tích khí hít vào tối<br />
đa sau khi đã thở ra bình thường. IC thể hiện khả năng hít vào, bao gồm thể tích khí<br />
lưu thông và thể tích khí dự trữ hít vào (IC = TV + IRV). Bình thường dung tích<br />
cặn chức năng khoảng 2 lít. Dung tích cặn chức năng có ý nghĩa quan trọng vì<br />
chính lượng khí này được pha trộn với lượng khí mới hít vào tạo hỗn khí có tác<br />
dụng trao đổi với máu. Dung tích cặn chức năng càng lớn thì khí hít vào được pha<br />
trộn càng ít, nồng độ oxy trong phế nang càng thấp, hiệu suất trao đổi khí với máu<br />
càng thấp. Dung tích cặn chức năng tăng trong một số bệnh gây khí phế thũng như<br />
các bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh hen phế quản, bụi phổi ở giai đoạn nặng[2].<br />
+ Dung tích toàn phổi: Ký hiệu là TLC (Total Lung Capacity) là thể tích khí chứa<br />
trong phổi sau khi đã hít vào tối đa, bao gồm dung tích sống và thể tích khí cặn (TLC =<br />
VC + RV). Bình thường, dung tích toàn phổi khoảng 5 lít, thể hiện khả năng chứa đựng<br />
tối đa của phổi[2].<br />
1.2Đại cƣơng về suy hô hấp:<br />
SHHC là tình trạng hệ thống hô hấp đột ngột giảm cấp tính chức năng trao đổi khí hoặc<br />
thông khí,gây ra thiếu oxy máu, có hoặc không có kèm theo tăng cacbonic (CO2 )máu,<br />
được biểu hiện qua kết quả đo khí máu động mạch.<br />
-<br />
<br />
Suy hô hấp cấp là một trong những cấp cứu thường gặp nhất tại các khoa phòng<br />
<br />
trong bệnh viện.<br />
- Suy hô hấp làm suy kém hoặc đe dọa chức năng các cơ quan sinh tồn như não,<br />
tim…<br />
- Theo bệnh sinh có 3 dạng suy hô hấp :<br />
+ Thiếu oxy máu khi PaO2 ≤ 50-60 mmHg<br />
+ Tăng CO2 máu khi PaCO2 ≥ 50 mmHg kèm theo tình trạng toan máu<br />
pH < 7,37<br />
<br />
5<br />
<br />