intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động học tập của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:200

39
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận án là nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về quản lý hoạt động học tập của học viên; đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động học tập của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để hội nhập quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động học tập của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực

  1. 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và  sự  xuất hiện của nền kinh tế tri thức  cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội  nhập quốc tế đang diễn ra sâu rộng và cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc   gia trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực chất, cạnh tranh giữa các   quốc gia hiện nay là cạnh tranh về chất lượng nguồn nhân lực va v ̀ ề  khoa  học và công nghệ. Chính vì vậy, đổi mới giáo dục đang là một xu thế  tất  yếu mang tính toàn cầu. Nước nào không đổi mới, hoặc cải cách giáo dục  không thành công thì nước đó mất khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế  và sẽ bị tụt hậu. Nhiều quốc gia đã và đang tiến hành cải cách để hướng tới   một nền giáo dục hiện đại. Giáo dục Việt Nam cũng cần có sự  đổi mới  mạnh mẽ để có thể tự tin hội nhập. Có thể  khái quát đổi mới giáo dục là đổi mới những vấn đề  cốt lõi  như  đổi mới tư  duy giáo dục; đổi mới quản lý giáo dục và phát triển đội   ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; làm lành mạnh hóa môi trường giáo  dục; đổi mới nội dung và phương thức, cơ  chế  phát triển giáo dục và đặc  biệt là tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình đổi mới giáo dục.  Trong đó, đổi  mới quản lý giáo dục và đào tạo, kiểm tra, thi và đánh giá kết quả  là khâu  đột phá. Để thực hiện đổi mới giáo dục, trước tiên cần thay đổi triết lý giáo  dục, Nghị  quyết Hội nghị  lần thứ  Tám, Ban Chấp hành Trung  ương khóa  XI đã xác định mục tiêu đào tạo để  chuyển giáo dục từ  “chủ  yếu trang bị  kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học ” [32,  tr.6],  đặc biệt là dạy làm “người” để  người học có khả  năng thích  ứng   nhanh với hoàn cảnh, có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ  quốc  chính là chuyển từ giáo dục định hướng nội dung sang giáo dục định hướng  năng lực (tiếp cận năng lực).
  2. 6 Giáo dục  được thực hiện bằng nhiều con  đường khác nhau, một   trong   những  con   đường   hiệu  quả   nhất   là  tổ   chức   hoạt  động  dạy   học.  Thông qua dạy học vừa cung cấp cho người học hệ thống kiến thức khoa   học, phát triển tư  duy sáng tạo và bồi dưỡng người học phát triển toàn  diện, vừa thu thập những thông tin phản hồi giúp cho cán bộ quản lý, giảng  viên  kịp thời  điều chỉnh, hoàn thiện quá trình dạy ­ học nâng cao chất   lượng giáo dục và đào tạo.  Chất lượng giáo dục và đào tạo phụ  thuộc vào nhiều yếu tố, trước  hết là hoạt động dạy học, trong đó hoạt động học tập của người học đóng  vai trò rất quan trọng, vì chỉ khi người học tích cực chủ động tiến hành các  hoạt động nhận thức dưới sự  tổ  chức, điều khiển của người dạy thì hoạt  động dạy học mới hoàn thành mục đích nhiệm vụ  đề  ra. Nếu, quản lý xã  hội lấy tiêu điểm là quản lý giáo dục (giáo dục và đào tạo cùng với khoa   học và công nghệ là quốc sách hàng đầu) thì quản lý giáo dục phải coi con  người là nút bấm (quản lý nhà trường làm nền tảng) và quản lý nhà trường  phải lấy quản lý dạy học là khâu cơ bản, việc dạy học phải xuất phát (từ)  và hướng (vào) người học. Luật Giáo dục năm 2005 được sửa đổi, bổ  sung năm 2009 chỉ  rõ:  “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động, tư  duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự  học,   khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [90, tr.13­14].  Để  làm được điều đó, phải đổi mới chương trình, sách giáo khoa, người   thầy và cách thức giảng dạy; đổi mới đánh giá theo năng lực; đặc biệt phải  đổi mới quản lý dạy học theo tiếp cận năng lực. Song đây là vấn đề khó, vì  không chỉ  là vấn đề  mới mẻ  còn bỏ  ngỏ  trong nghiên cứu lý luận  ở  Việt   Nam mà còn là vấn đề hết sức trừu tượng phức tạp, đặc biệt trong lĩnh vực  hoạt động quân sự. Hệ  thống các nhà trường trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã và  đang thực hiện Nghị  quyết số  86 của Đảng  ủy quân sự  Trung  ương “Về 
  3. 7 công tác giáo dục ­ đào tạo trong tình hình mới” [34], trong bối cảnh khoa  học kỹ  thuật quân sự  phát triển nhanh chóng, với một khối lượng lớn tri   thức rất lớn cần phải trang bị  cho học viên, trong khi thời gian đào tạo   không thay đổi, vấn đề  đặt ra là phải làm như  thế  nào? và bằng cách nào  để tối ưu hoá mục tiêu đào tạo, muốn tối ưu hoá mục tiêu đào tạo, xét đến   cùng phải tối ưu hoá hoạt động dạy học. Muốn tối  ưu hoá hoạt động dạy  học, phải tối ưu hoá hoạt động quản lý. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này  còn những mâu thuẫn chủ  yếu cần được nghiên cứu làm sáng tỏ  cả  trên  phương diện lý luận và thực tiễn. Về lý luận, đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu về tự học; về  phương pháp học tập chủ động; về  quản lý giáo dục và đào tạo  trong các  nhà trường quân đội đáp ứng yêu cầu mới; về dạy học và đổi mới phương  pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực cho người học; về  đổi mới  chương trình đào tạo  ở  các học viện, trường sĩ quan quân đội theo hướng  phát triển năng lực của học viên… Có thể nói, những công trình nghiên cứu  trên đã đề cập đến vấn đề  quản lý dạy học trong các nhà trường quân đội  góp phần chỉ đạo, định hướng khả thi trong thực tiễn. Song, chưa có những  nghiên cứu về  mô hình quản lý dạy học vừa đáp  ứng mục tiêu phát triển  năng lực người học vừa đảm bảo kết quả đào tạo theo chuẩn đầu ra… Từ  đó, đặt ra yêu cầu khách quan cho việc nghiên cứu lý luận  của đề  tài này  một cách khoa học, khả thi. Về thực tiễn, quản lý dạy học là vấn đề đặc biệt quan trọng trong xu  hướng chuyển sang đào tạo theo tiếp cận năng lực, để hoạt động dạy học  trở  thành công cụ  thực sự hữu ích thúc đẩy việc hình thành và phát triển  năng lực của học viên hiện nay đã và đang vướng mắc nhiều khó khăn về  đội ngũ  cán bộ  quản lý, giảng viên; về  cơ  sở  hạ  tầng, nguồn học liệu,  chương trình đào tạo; đặc biệt là phương thức quản lý dạy học, chưa được  đưa ra trên bình diện vĩ mô lẫn vi mô; khi triển khai thực hiện còn lúng   túng, chưa đảm bảo tính thống nhất nên chưa thật sự làm thay đổi và thúc 
  4. 8 đẩy theo chiều hướng tích cực là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn phải giải  quyết một cách thấu đáo [14]. Nguyên nhân, do nhận thức về dạy học và quản lý dạy học theo năng  lực đầu ra chưa rõ ràng, quá chú trọng tới đào tạo đặc thù quân sự; tư  duy  về  giáo dục và đào tạo chậm đổi mới để  phù hợp với quá trình hội nhập  quốc tế, chưa tạo nên được những thế  hệ  học viên vững vàng về  tri thức,   năng động về tư duy, thích ứng với sự phát triển của quân đội, đất nước và   thời đại [14, tr.6].  Vậy, quản lý hoạt động học tập và  sự  phát triển năng lực có mối  quan hệ với nhau như thế nào? làm thế nào để thực hiện có hiệu quả mục   tiêu phát triển năng lực người học trong quá trình dạy học? Và các chủ thể  quản lý hoạt động học tập cần xem xét quá trình dạy học theo hướng tiếp  cận nào trong mối quan hệ  với sự  phát triển năng lực của học viên là  đòi  hỏi  cấp thiết  phải có công trình nghiên cứu  giải quyết thấu đáo vấn đề  này.  Vì vậy, “Quản lý hoạt động học tập của học viên  ở  các trường sĩ   quan quân đội theo hướng phát triển năng lực” là đề tài có ý nghĩa cả về lý  luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề  lý luận, thực tiễn về  quản lý hoạt động  học tập của học viên; đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động học tập  của học viên  ở  các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực  đáp  ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để  hội  nhập quốc tế.  2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xây dựng khung lý luận về quản lý hoạt động học tập của  học viên  ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực; Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động học tập và quản lý hoạt   động học tập ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực;
  5. 9 Đề  xuất những biện pháp cơ  bản trong quản lý hoạt động học tập   của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực; Kiểm chứng kết quả  nghiên cứu của đề  tài luận án thông qua khảo  sát tính cần thiết, tính khả  thi của các biện pháp và thử  nghiệm một biện   pháp.  3. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả  thuyết khoa  học 3.1. Khách thể nghiên cứu Quá trình quản lý hoạt động dạy học  ở các trường sĩ quan quân đội  theo hướng phát triển năng lực. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Quá trình quản lý hoạt động học tập của  học viên  ở  các  trường sĩ  quan quân đội theo hướng phát triển năng lực. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nội dung của đề  tài tập trung nghiên cứu những vấn đề  lý  luận, thực tiễn về quản lý hoạt động học tập của học viên đào tạo sĩ quan  cấp phân đội trình độ đại học  ở các trường sĩ quan quân đội; trên cơ sở đó  đề xuất những biện pháp cho các chủ  thể  quản lý hoạt động học tập của  học viên theo hướng phát triển năng lực với cách tiếp cận chức năng quản   lý. Phạm vi khảo sát của đề tài là 5 trường sĩ quan quân đội phía Bắc là:  Lục quân I; Chính trị; Pháo binh; Tăng Thiết giáp và Đặc công.  Phạm vi  đối tượng  nghiên cứu  của đề  tài là  cán bộ  quản lý, giảng  viên và học viên đang thực hiện đào tạo  ở  các trường sĩ quan quân đội nói  trên. Phạm vi thời gian, các số liệu thu thập, xử lý và sử dụng trong đề tài  luận án được khảo sát, điều tra, tổng hợp từ năm 2012 đến nay. 3.4. Giả thuyết khoa học
  6. 10 Quản lý  hoạt động học tập đáp  ứng yêu cầu phẩm chất, năng lực  cần có của học viên tốt nghiệp ra trường khi được tổ  chức quản lý một   cách khoa học. Nếu chủ thể quản lý ở các nhà trường sử dụng tổng hợp các  tác động trong lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá hoạt động  học tập theo năng lực đầu ra thì sẽ  hình thành, phát triển các năng lực chung  và năng lực chuyên biệt của học viên ở các trường sĩ quan quân đội góp phần  nâng cao chất lượng dạy học đáp  ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện  giáo dục và đào tạo.  4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận  Đề  tài luận án được nghiên cứu dựa trên cơ  sở  phương pháp luận  khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ  nghĩa duy vật lịch sử;   quán triệt tư  tưởng Hồ  Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt   Nam; Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về giáo dục và đào tạo.  Dựa trên phương pháp luận nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục  với các quan điểm lịch sử ­ logic; hệ thống ­ cấu trúc; quan điểm thực tiễn  và nguyên tắc tiếp  cận chức năng ­  mục tiêu  quản lý giáo dục;  tiếp cận  phát triển năng lực;  tiếp cận  nội dung quản lý  và  quá trình dạy học làm  phong phú thêm các vấn đề  nghiên cứu trong xác định khung lý thuyết và  tìm hiểu, đánh giá thực trạng; trên cơ sở  đó đề xuất các biện pháp quản lý  hoạt động học tập theo năng lực đầu ra của học viên ở các trường sĩ quan  quân đội để giải quyết các nhiệm vụ khoa học của đề tài luận án.      4.2. Phương pháp nghiên cứu  4.2.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam,  Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam; Quân đội nhân dân Việt  Nam; các công trình nghiên cứu khoa học, báo khoa học có liên quan đến đề  tài được công bố và đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học. 
  7. 11 Phân tích, tổng hợp các tài liệu, các công trình nghiên cứu về công tác  quản lý nhà trường, hoạt động dạy và học trong trường đại học…. Từ đó,  xây dựng cơ  sở  lý luận về  quản lý hoạt động học tập của học viên  ở  trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực. 4.2.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn  Tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục thông qua các văn bản pháp  lý; các báo cáo tổng kết giáo dục và đào tạo của các trường sĩ quan quân   đội nhằm rút ra những kinh nghiệm quản lý  hoạt động học tập của  học  viên. Phương pháp  quan sát,  hoạt động lãnh đạo, chỉ  huy; hoạt động dạy  học; tổ chức, chỉ đạo của cán bộ quản lý, giảng viên và tự quản lý hoạt động  học tập của học viên; quan sát hoạt động dạy học đối với các lớp bồi dưỡng   phương pháp dạy học, các lớp tập huấn để rút ra những kết luận về nội dung  nghiên cứu. Tiến hành phân tích, đáng giá thực trạng của hệ thống đào tạo  ở các  trường sĩ quan quân đội, thực trạng của việc học tập của học viên bao gồm  cả giờ lên lớp và ngoài giờ lên lớp ở các trường sĩ quan quân đội. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi với 830 cán bộ quản lý, giảng  viên và học viên  ở  5 trường sĩ quan quân đội (Lục quân I; Chính trị; Pháo  binh; Tăng Thiết giáp và Trường Sĩ quan Đặc công) được tiến hành qua 3  bước: Thiết kế bảng hỏi; Điều tra thử; Điều tra, khảo sát  tính cần thiết và  tính khả thi của các biện pháp để đề xuất các nội dung quản lý  hoạt động  học tập của học viên  ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển  năng lực. Phương pháp  phỏng vấn cá nhân,  trò chuyện cùng một số  cán bộ  quản lý, giảng viên ghi chép các nội dung cơ  bản có liên quan thực trạng  quản lý hoạt động học  nhằm  thu thập, bổ  sung, kiểm tra và làm rõ hơn  những thông tin đã thu được từ khảo sát thực tiễn.
  8. 12 Phương pháp đàm thoại, tọa đàm, trao đổi với cán bộ quản lý, giảng  viên cấp phòng, khoa, bộ  môn, giảng viên và học viên theo chủ  đề  phỏng  vấn sâu giúp cho các số  liệu đã khảo sát mang tính khách quan, trung thực  để  thu thập thêm những thông tin cần thiết liên quan đến vấn đề  nghiên  cứu. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia để tìm hiểu thực trạng và ý kiến  về  tính hợp lý và khả  thi của các biện pháp mà đề  tài đề  xuất, những ý   kiến đóng góp quý giá của các nhà khoa học giúp tác giả thực hiện và hoàn   thiện đề tài nghiên cứu với chất lượng tốt nhất. 4.2.3. Phương pháp bổ trợ Phương pháp  thống kê toán học  để  xử  lý các số  liệu và kết quả  nghiên cứu, tiến hành đánh giá thử  nghiệm một biện pháp quản lý hoạt  động học tập của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát  triển năng lực. Phương pháp thử  nghiệm, dùng để kiểm chứng tính hiệu quả quản  lý thông qua nội dung giải pháp chỉ  đạo bồi dưỡng năng lực cho các chủ  thể  quản lý  hoạt động học tập của học viên theo hướng  phát triển năng  lực. Phương pháp xử lý số  liệu, khảo sát thu thập từ phiếu điều tra thực  trạng, từ  thử  nghiệm được xử  lý bằng chương trình phần mềm Microsof  Xcel.  5. Những đóng góp mới của luận án Quản lý hoạt động học tập của học viên  ở  các  trường sĩ quan quân  đội theo hướng phát triển năng lực là đề tài với nội dung nghiên cứu có tính  cấp thiết trong xu thế đổi mới căn bản giáo dục, đúng mã số  chuyên ngành  đào tạo.
  9. 13 Tên luận án và các nội dung nghiên cứu, các số liệu khảo sát, điều tra,   kết luận và năm biện pháp đề xuất không trùng lặp với các công trình, đề tài   khoa học đã nghiên cứu trước đó.  Phân tích làm rõ thực trạng hoạt động học tập và quản lý hoạt động  học tập của học viên  ở  các  trường sĩ quan  quân đội theo hướng phát triển  năng lực, chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu và các nguyên nhân của thực  trạng. Đề xuất năm biện pháp quản lý hoạt động học tập theo năng lực đầu  ra của học viên ở các trường sĩ quan quân đội khoa học, khả thi giúp các chủ  thể vận dụng có hiệu quả vào nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án 6.1. Về mặt lý luận  Luận án đã phân tích được sự  cần thiết, tính phù hợp của việc áp  dụng quy trình đào tạo mới theo năng lực đầu ra của học viên ở các trường  sĩ quan quân đội  trong bối cảnh hiện nay; khẳng định vị  trí, vai trò của   quản lý hoạt động học tập theo năng lực đầu ra của học viên ở các trường  sĩ quan quân đội. Luận án xây dựng bổ  sung và làm phong phú cơ  sở  lý luận về  giáo  dục theo hướng hiện đại nói chung và quản lý hoạt động học tập của học  viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực nói riêng,  đưa ra những nội dung lý luận cơ  bản, cốt lõi, khẳng định và nhấn mạnh  vai trò, ý nghĩa quan trọng của việc xây dựng và áp dụng mô hình  quản lý  hoạt động học tập theo năng lực đầu ra của học viên ở các trường sĩ quan  quân đội; đề  ra năm biện pháp quản lý hoạt động học tập của học viên ở  các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực. 6.2. Về mặt thực tiễn
  10. 14 Luận án trình bày có hệ thống, khách quan toàn diện về quá trình phát  triển của giáo dục đại học trong quân đội gắn liền với yêu cầu đổi mới quy  trình đào tạo từ  niên chế  kết hợp với học phần sang đào tạo theo tiếp cận   năng lực. Kết quả  nghiên cứu của đề  tài  luận án có thể  được vận dụng trong  thực tiễn đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả  quản lý hoạt động học  tập của học viên  ở  các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng  lực hiện nay. 7. Cấu trúc của luận án  Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, bốn chương (12 tiết) kết luận và  kiến nghị; danh mục các công trình khoa học của tác giả  đã được công bố  liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Những công trình nghiên cứu về hoạt động học tập Thời cổ  đại  ở  phương Tây  có các đại biểu như: Sôcrát (469 ­ 399  tr.CN), đề xuất phương pháp “đàm thoại” ­ “thuật đỡ đẻ” [ 41], Platon (427 ­  348 tr.CN), sáng tạo ra cách phân chia học tập theo tuổi [98], Arisxtốt (384 ­   322 tr.CN), với luận điểm giáo dục phải xuất phát từ đặc điểm tự nhiên và   nhu cầu của con người [98]. Ở phương Đông có Khổng Tử (551 ­ 479 tr.CN)  ­ người đầu tiên trong lịch sử nêu quan điểm “giáo học tương trưởng”, ông  đòi hỏi người dạy phải có cách dạy cho phù hợp để người học chiếm lĩnh tri  thức và giá trị  đạo đức: “Dụ  ­ Đạo ­ Trợ  ­ Khải ­ Phát”. Ông nhấn mạnh:  “Học mà chẳng chịu suy nghĩ thì  chẳng  được thông minh. Suy nghĩ  mà 
  11. 15 chẳng chịu học thì lòng dạ chẳng yên ổn” đã phản ánh tư tưởng về phương  pháp cách thức học tập cẩn trọng, tích cực, kiên trì và tư duy linh hoạt để đi  đến miêu tả chân lý và đòi hỏi người học phải: “Bác học ­ Thẩm vấn ­ Thận   tư  ­ Minh biện ­ Đốc hành”, người học phải có suy luận những kiến thức   mới từ kiến thức người dạy đã trang bị: “Vật có bốn góc, bảo cho biết một   góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa” [65].  Ngoài ra, còn có  Mặc Tử  (475 ­ 390 tr.CN), với quan niệm học tập phải xuất phát từ  thực  tiễn, từ đặc điểm người học, theo sức lực và khả  năng của người học [41]  và Hàn Phi Tử (280 ­ 233 TCN), với lý thuyết cai trị phải chú ý tới ba yếu tố  “Pháp ­ Thế ­ Thuật” [41] trong quản lý xã hội và tổ chức học tập trong giáo  dục tất yếu là hoạt động cần được quản lý.  Các nghiên cứu trên cách ngày nay gần ba mươi thế  kỷ  nhưng  nhìn  chung vẫn có giá trị  lý luận và thực tiễn to lớn, vẫn là những bài học quý  giá cho quản lý hoạt động học tập của người học  ở  các nhà trường hiện   nay.  Thời kỳ chủ nghĩa tư  bản hình thành và phát triển , xuất hiện nhiều  tư  tưởng giáo dục tiến bộ, được nâng lên tầm cao mới, khái quát thành lý  luận với các đại biểu như: John Locke (1632 ­ 1704), J.J.Rut­xô (1712 ­  1778), Pét­xta­lô­di (1746 ­ 1827) [41]. Song, do hạn chế  bởi “cảm giác  luận” và triết học duy lý, nên những tư tưởng đó còn phiến diện, giản đơn;  còn tuyệt đối hoá sự  phát triển tự  nhiên, dẫn tới hạ  thấp, coi nhẹ  yêu cầu  đòi hỏi của xã hội đối với người học. Tuy nhiên, cuốn “Lý luận dạy học vĩ   đại” (1632) của J.A. Kô­men­xky (1592 ­ 1670) đã đi vào lịch sử  như  một  cột mốc đánh dấu sự ra đời của lý luận giáo dục và lý luận dạy học, đây là  bước tiến mới trong việc xây dựng hệ  thống lớp – bài quy định chặt chẽ  về nội dung và phương pháp giáo dục đến nay vẫn đang áp dụng trong các  nhà trường hiện đại [62].  Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với sự xuất hiện của nhiều trào lưu   triết học mang màu sắc duy tâm chủ  quan như  chủ  nghĩa hiện sinh, chủ 
  12. 16 nghĩa thực dụng, cùng với sự xuất hiện thuyết hành vi trong tâm lý học dẫn  tới sự xuất hiện đa dạng với nhiều trường phái và tên gọi khác nhau về học   tập như: Rét­di, một bác sĩ người Anh đã đề  xướng tư  tưởng “Nhà trường  mới” [98]; Kéc­Sens­ten­ơ  (1854 ­ 1932), Giáo sư  người Đức đề  xuất loại  hình “Nền giáo dục công dân” và “Nhà trường lao động” [98]; A.Bi­nê (1857  ­ 1911), người Pháp với “Nền giáo dục thực nghiệm” [98]; John Dewey  (1859 – 1925), nhà sư phạm người Mỹ đưa ra phương hướng canh tân giáo  dục, yêu cầu bổ  sung vào vốn tri thức của học sinh hoạt động thực tiễn  “Học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục” [98];  Tsunesaburo Makiguchi (1871 ­ 1944) người Nhật Bản nhấn mạnh: “Giáo  viên không bao giờ học thay cho học sinh mà học sinh phải tự mình học lấy”   [119].  Các nghiên cứu ở thời kỳ này đã đưa ra nhiều quan điểm luận bàn về  hoạt động học tập của học sinh, sinh viên và nhấn mạnh tầm quan trọng  của hoạt động học tập đối với sự phát triển tư duy và hình thành thói quen  học tập cho người học; khẳng định, muốn nâng cao hiệu quả  học tập thì  người giáo viên phải biết tổ chức hoạt động nhận thức, hướng dẫn tự học   cho học sinh.  Thực tiễn xây dựng, phát triển nền giáo dục Xô Viết, với những đóng   góp rất  to  lớn  của các  nhà  sư   phạm  lỗi  lạc N.A.Danilốp;  M.N.Xcatkin;   B.P.Êxipốp; N. K.Krúp­xcaia, B­lôn­xki  [27]; A.S.Ma­ka­ren­kô, Lu­na­trat­ xki [76]; Ia.Lecne [67]; đặc biệt N.A.Rubakin (1862 ­ 1946) nhà bác học, nhà  sư phạm người Nga trong tác phẩm “Tự học như thế nào”, đã chỉ ra phương   pháp tự  học để  nâng cao kiến thức, mở  rộng tầm nhìn đã góp phần phát   triển lý luận học tập để  trang bị  cho người học kiến thức để  họ  tham gia  vào lĩnh vực lao động sản xuất và cuộc chiến tranh vệ  quốc một cách có   hiệu quả [92].
  13. 17 Có thể  khẳng định rằng, các nghiên cứu trên của các nhà giáo dục  học Liên Xô (cũ) có đóng góp hết sức quan trọng tới việc tổ chức dạy ­ học   gắn chặt với những hoạt động khác của mọi lĩnh vực xã hội.  Ngoài ra, hoạt động học tập của học sinh, sinh viên cũng đã được các  nhà tâm lý học trên thế  giới như: Pavlov, Watson, Thorndike, Skiner, J.   Piaget,   Ghestalt,   Benjamin   Bloom,   X.   L.   Vưgốtxki,   A.N.   Léonchiev…  nghiên cứu và đưa ra những khái niệm và cơ chế của hoạt động học tập.  Giáo dục ở thế kỷ XXI đã có những thay đổi lớn nhằm hướng tới mục   tiêu đào tạo những con người có năng lực tự quyết định; trong tương lai gần,  mỗi người học sẽ  phải có đủ  các phẩm chất: tự  học (self learning), tự  tổ  chức   (self   organizing),   tự   quyết   định   (self   defining)   và   tự   phát   triển   (self  developing); tiêu biểu như các nghiên cứu của: Alvin Toffer (1992) với “Làn  sóng thứ ba” [105]; Jean – Marc Denommé, Madeleine Roy (2000) với “Tiến  tới một phương pháp sư phạm tương tác” [77]; R.Colin và Malcolm J. Nicholl  (2008) với “Kỹ  năng học tập siêu tốc thế  kỷ  XXI” [ 26]; đặc biệt Jeannette  Vos và Cordon Dryden (2004) với “Cách mạng học tập những yếu tố  và  phương pháp để  học tập tốt” đề  ra công thức MASTER (M: Mind set for   success,   A:   Acquire   knowledge,   S:   Search   out   the   meaning,   T:   Trigger   the  memory, E: Exhibit, R: Reflect how to learn) để  hướng dẫn người học phát  huy năng lực học tập của bản thân [134].  Nhìn chung, các tác giả trên đã phân tích nhiều vấn đề  của giáo dục  khi bước vào thế  kỷ  XXI; trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của   người học và hoạt động học tập trước sự phát triển nhanh chóng của cách  mạng khoa học; đồng thời chỉ  ra cách học cần phải được dạy cho thế  hệ  trẻ.  Truyền thống của dân tộc Việt Nam rất coi trọng việc giáo dục, thời  phong kiến với các danh nhân, các nhà sư phạm tiêu biểu như: Chu Văn An  (1292 – 1370), luôn “Nêu gương sáng cho kẻ  sĩ học tập” [121, tr.62]; Lê 
  14. 18 Quý Đôn (1726 – 1784), với luận điểm “Biết học thì không thể  biện lẽ  thiếu thì giờ” [121, tr.70] để hướng dẫn người học tích cực học tập. Đến đầu thế kỷ XX, phong trào cổ xúy Tân học của Phan Chu Trinh   và Phan Bội Châu nổi lên rầm rộ từ Bắc chí Nam nhằm trực tiếp chống lại   thứ giáo dục lạc hậu của thời phong kiến, chống lại cả giáo dục nô dịch của   thực dân Pháp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân thời kỳ này giáo dục không  có sự  phát triển đáng kể  cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945  đánh dấu sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự thành lập nhà nước   Việt Nam đã làm cho khoa học giáo dục có bước phát triển về chất  với các  tác giả tiêu biểu: Hồ Chí Minh (1890 – 1969), khi bàn về vấn đề học tập phải xác định  rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn; nghĩa là phải   hiểu “Học để làm gì? – Học để sửa chữa tư tưởng – Học để tu dưỡng đạo  đức   cách   mạng   –   Học   để   tin   tưởng   –   Học   để   hành”,   khi   đến   thăm  Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương tại Việt Bắc, tháng 9 năm 1949 (nay  là Học viện Chính trị ­ Hành Chính quốc gia Hồ Chí Minh), Người ghi trong  trang đầu Quyển sổ  vàng của Nhà trường: “Học để  làm việc, làm người,  làm cán bộ. Học để phụng sự  đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ  quốc và   nhân loại” [80, tr.684]. Sinh thời, Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng trong nhà trường,  điều chủ  yếu không phải là nhồi nhét cho học trò một mớ  kiến thức hỗn  độn, mà phải giáo dục cho học trò các rồi đến phương pháp nghiên cứu,   phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề [35, tr.25]. Bước vào thời kỳ đổi mới, các công trình nghiên cứu phát triển giáo   dục và đào tạo theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá đã được cụ  thể  thành   phương châm, Chiến lược giáo dục và đào tạo với các tác giả  tiêu biểu:  Nguyễn Như  An (1996), với “Phương pháp dạy học Giáo dục học” [1];   Phạm  Trung Thanh (1999), với nghiên cứu về  “Phương pháp học tập – 
  15. 19 nghiên cứu của sinh viên cao đẳng, đại học” [9 7]; Đặng Thành Hưng (2002),  với “Dạy học hiện đại lý luận – biện pháp – kỹ  thuật” [52]; Phạm Minh  Hạc (2002) với công trình nghiên cứu về vấn đề  “Giáo dục thế giới đi vào  thế kỷ XXI” [38], đã đề cập khá toàn diện tới vị trí vai trò, của người học;   đồng thời chỉ ra những hạn chế về phương pháp học tập – nghiên cứu của  sinh viên cao đẳng, đại học. Các tác giả, Nguyễn Kỳ (2005) bàn về “Phương pháp giáo dục tích cực  lấy người học làm trung tâm” [63]; tác giả  Phạm Viết Vượng (2007), trong  cuốn sách “Giáo dục học” [136]; Thái Duy Tuyên (2008), với “Phương pháp  dạy học truyền thống và đổi mới” [122]; đặc biệt công trình của các tác giả  Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo (2004) đã bàn  về học tập trong cuốn sách “Học và dạy cách học”, đã bàn về mối quan hệ  giữa dạy và học, cho rằng mục đích của dạy là làm cho người học học đúng  cách, làm cho người học biết cách học và cách đó là khả thi; có nghĩa là “làm   cho học sinh, sinh viên hiểu được các nhà khoa học đó” [105, tr.61], nghiên  cứu này đã làm thay đổi và chỉ ra cách hiểu của người học, sao cho học sinh,  sinh viên bắt đầu quan niệm về hiện tượng và ý tưởng theo cách của các nhà   khoa học.  Ngoài ra, các tác giả Hoàng Anh và Đỗ Thị Châu (2010), bàn về hoạt   động học tập – tự học của sinh viên trong cuốn sách “Tự học của sinh viên”  [3], cùng các tác giả  Đỗ  Linh và Lê Văn với cuốn sách “Phương pháp học  tập hiệu quả” [70]; Joe Landsberger cuốn sách “Học tập cũng cần chiến  lược” [66]; Bobbi Deporter và Mike Hernacki với cuốn sách “Phương pháp  học tập siêu tốc” [10] đã đưa ra bản chất và đặc điểm của hoạt động học  tập có mục đích, cấu trúc của hoạt động học tập, động cơ  học tập và các  yếu tố  tâm lý  ảnh hưởng tới hoạt động học tập – tự  học của sinh viên và  hướng dẫn phương pháp học tập hiệu quả… Nhìn chung, các công trình tiếp  cận về hoạt động học tập  ở những góc độ, khía cạnh khác nhau. Song, các 
  16. 20 nhà khoa học đều đi đến thống nhất nhận thức về vị  trí, vai trò của người   học; đưa ra những cách thức, phương pháp giúp người học đạt được hiệu   quả cao khi tiến hành hoạt động học tập.  Trong quân đội, công trình của Cục nhà trường Bộ Tổng Tham mưu   bàn về  “Tổ chức và phương pháp huấn luyện” (1999) đã xác định ba quan   điểm; tám nguyên tắc và sáu mối kết hợp trong huấn luyện đã  chỉ ra việc  sử  dụng  tổng  hợp  các   cách  thức,  biện  pháp  phối  hợp  thống  nhất  giữa   người dạy và người học nhằm tổ chức cho người học học tập trong nhóm,  học cùng nhau trao đổi thảo luận, chia sẻ hiểu biết, kinh nghiệm và động  viên khuyến khích, giúp đỡ nhau cùng đạt mục đích; nghiên cứu này có giá  trị  lý luận và thực tiễn chỉ  ra  quan điểm nguyên tắc và các mối kết hợp  trong hoạt động học tập [16]. Tiếp cận vấn đề ở góc độ học tập khác nhau các tác giả Trịnh Quang   Từ  (1996),  với  nghiên cứu “Những phương hướng tổ  chức hoạt động tự  học của sinh viên các trường quân sự” [125]; Nguyễn Chính Trung (1999),  bàn “Về việc xây dựng phương pháp học tập chủ động ở các học viện, nhà  trường quân đội” [112]; Nguyễn Đình Minh (2013), bàn về  “Đổi mới căn  bản, toàn diện  giáo dục  và đào tạo  trong nhà trường quân đội hiện nay”  [81], cùng với nghiên cứu của Mai Văn Hoá [46]; Nguyễn Văn Chung [24]  đã đề ra những phương hướng cơ bản của việc tích cực hoá hoạt động học  tập của học viên. Bàn về  vận dụng phương pháp và hình thức trong học tập, các t ác  giả   Đặng  Đức  Thắng  [99];  Trần  Đình Tuấn [120];  Lê  Minh  Vụ  [135];  Nguyễn   Đình   Minh,  Nguyễn   Văn   Chung   [82]   và  Bùi   Hồng   Thái  [95].  Khẳng định, những vấn đề  thực tiễn đối với hoạt động học tập và việc  vận dụng phương pháp dạy học trong nhà trường quân sự với tổ chức hoạt  động học tập chủ động được xem như là biện pháp đột phá trong đổi mới  phương pháp dạy học.  
  17. 21 Điểm qua các công trình nghiên cứu về  hoạt động học tập của sinh   viên, học viên  ở  các nhà trường trong và ngoài quân đội cho thấy, vấn đề  học tập đã được các tác giả quan tâm nghiên cứu và đưa ra những cơ sở lý   luận vững chắc. Tuy nhiên, những công trình này mới chỉ đi sâu nghiên cứu  về  học tập, tự  học và đưa ra những cách thức, phương pháp giúp người   học đạt được hiệu quả cao khi tiến hành hoạt động học tập.  1.2. Những công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động học tập   theo quan điểm giáo dục hiện đại 1.2.1. Quản lý hoạt động học tập nói chung Trong lịch sử  giáo dục thế  giới có rất ít công trình trực tiếp đề  cập  đến quản lý hoạt động học tập, nhưng thông qua tác phẩm kinh điển của  C.Mác (1818 ­ 1883) và Ph.Ăng ghen (1820 ­ 1894), khi bàn về  quản lý và  điều khiển hoạt động học thể  chất và quân sự  các ông cho rằng phải phù  hợp với đặc điểm, tâm lý, sinh lý, lứa tuổi, tăng cường tổ chức lao động sản   xuất hợp lý  [78]. Vì vậy, tổ  chức học tập trong giáo dục tất yếu là hoạt  động được quản lý theo quy luật khách quan, khoa học.  Người đầu tiên nghiên cứu về  “Thuyết quản lý theo khoa học” là  F.W. Taylor (1856 ­ 1915) người Mỹ, bên cạnh đó là “Thuyết quản lý hành  chính” của Henry Fayol (1841 ­ 1925) người Pháp và nhà xã hội học người   Đức là Max Weber (1864 ­ 1920) với “Thuyết quản lý bàn giấy” [100] là  những nghiên cứu về quản lý một cách khoa học có hệ thống vấn đề  hợp  lý hóa thao tác lao động để   ứng dụng vào thực tiễn, có thể  vận dụng vào   quản lý giáo dục đào tạo và quản lý hoạt động học tập  ở  các nhà trường  mang lại hiệu quả cao. Những năm đầu của thế kỷ XX việc dạy nghề cho những người trực   tiếp tham gia vào quá trình lao động sản xuất thuần túy theo cách “mô   phỏng, bắt chước” không còn phù hợp, nên tư  tưởng cải cách xuất hiện ở  một số nước công nghiệp phát triển; người ta nhận thấy, quản lý đào tạo 
  18. 22 theo hệ  thống lớp – bài truyền thống không đáp  ứng được những yêu cầu  của xã hội, nhiều nơi, nhiều ngành nghề  đã thực hiện nguyên tắc “cần gì   học nấy” và người học có nhu cầu đến đâu, thì học đến đó [41].  Cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI là giai đoạn đánh dấu  sự  quan tâm nghiên cứu nhằm phát huy tối đa năng lực của cá nhân tiêu  biểu như: P.V. Zimin (1985) “Những vấn đề  quản lý trường học” [130];  Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich (1994) “Những vấn đề cốt  yếu của quản lý” [61]; Warren Piper.D (1993) “Quản lý chất lượng trong các  trường đại học” bao gồm: Xác lập chuẩn; Xây dựng quy trình; Xác định tiêu   chí đánh giá và vận hành; Đo lường; Đánh giá; Thu thập và xử lý số liệu [dẫn  theo 2, tr.41].  Theo tác giả Petros Kefalas (2003) và các cộng sự, một hệ thống  đảm  bảo chất lượng (QAS) gồm các tiêu chuẩn chất lượng đó là: Chương trình  học tập hiệu quả; Đội ngũ giáo viên; Khả năng sử dụng cơ sở hạ tầng sẵn   có; Phản hồi tích cực từ  học sinh; Sự  hỗ  trợ  từ  các bên liên quan và thị  trường lao động.  Ngoài ra, các mô hình  quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality  Management­ TQM) phát triển từ  các mô hình kiểm soát và đảm bảo chất  lượng; Mô hình  quản lý chất lượng tổng thể  (TQM), với các tác giả  như  W.E.Deming; J.M Juran; K.Ishikawa; A.V Feigenbaum và P.B Crosby. Hiện  nay TQM đã được áp dụng trên nhiều lĩnh vực trong đó có giáo dục. Nhìn chung, các mô hình đảm bảo chất lượng nêu trên đều “hướng  vào con người”. Trong đó, mô hình các yếu tố tổ  chức thì đưa ra 5 yếu tố  quản lý;  mô hình ISO coi trọng làm tốt ngay từ  đầu và quản   lý  theo quá  trình nhưng chưa cụ thể với quản lý dạy học; đáng chú ý là mô hình CIPO  nói đến 10 yếu tố  quản lý và điều kiện tác động đến yếu tố  quản lý phù  hợp với nhà trường nhưng chưa tính đến điều kiện bối cảnh trong quản lý  giáo dục.
  19. 23 Đề  cao vai trò cố  vấn của người thầy trong việc giúp học sinh học   tập Raja Roy Singh (1994), với công trình “Nền giáo dục cho thế  kỷ XXI,   những triển vọng của châu Á – Thái Bình Dương” [94], đã nhấn mạnh quan  điểm “lấy người học làm trung tâm” và chỉ  rõ đặc điểm của một xã hội  phát triển là một xã hội dựa vào “tri thức” vào “kiến thức là sức mạnh”,  giáo dục là trung tâm của xã hội  ấy; nghiên cứu này đòi hỏi người thầy  phải tổ  chức việc học và tăng cường quản lý quản lý hoạt động học tập  của người học. Vấn đề  “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như  thế  nào”  [57] của I.F Kharlamốp (1998) và Paul Hersey và Ken Blanc Hard (2005) cho  rằng: “Quản lý như một quá trình làm việc cùng nhau và thông qua cá nhân,  các nhóm cũng như các nguồn lực khác để hình thành các mục đích tổ chức”  [40, tr.68] trong đó có quản lý hoạt động học tập của người học.  Tổ  chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp quốc (UNESCO)  trên cơ sở nghiên cứu của J.Delors (2002), “Học tập – một kho báu tiềm ẩn”  đã đưa ra bốn trụ cột “The Four Pillars of Education” trong giáo dục cho thế  kỷ XXI. Bốn trụ cột đó là: “Học để biết – Learning to Know”, “Học để làm –  Learning to Do”, “Học để  tự  khẳng định – Learning to Be”, “Học để  cùng  chung sống – Learning to Live together” [28], có thể coi đây là mục đích đã xác  lập các quan điểm giáo dục hiện đại làm nền tảng để  các nhà trường lựa   chọn cách quản lý giáo dục và đào tạo nói chung, quản lý học tập nói riêng  đáp  ứng với thực tiễn của cuộc sống, nghề  nghiệp đã và đang đặt ra cho   người học.  Ở Việt Nam, sử sách viết về Quốc Tử Giám có nói đến cách học tập  của giám sinh. Theo đó, phương pháp học của giám sinh chủ yếu là tự học,  tự  nghiên cứu. Mỗi tháng nghe thầy giảng kinh truyện 2 kỳ, tập làm văn 4  kỳ. Bài tập, có loại làm ngay tại lớp trong ngày phải xong, có loại đem về  nhà làm [103]. Có thể xem đây là một ví dụ về việc quản lý rèn luyện cách  
  20. 24 học, cách tự học cho giám sinh đại học thời phong kiến mà đến ngày nay, ít  nhiều vẫn còn những giá trị  nhất định trong thực tiễn học tập và quản lý  học tập. Kế  thừa và phát triển quan điểm của chủ  nghĩa Mác – Lênin, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh cho rằng phải có kế  hoạch sắp xếp thời gian học tập,   phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế  hoạch đến cùng, không lùi bước trước  mọi trở ngại; phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi   hình thức để tự học; học đến đâu, ra sức luyện tập, thực hành đến đó [80].  Đối với quân nhân Người luôn quan tâm tới việc tổ  chức giáo dục quân  nhân phát triển “hoàn toàn”, cả “văn và võ”, võ là như tay phải, văn là như  tay trái của quân nhân. Biết võ, biết văn, mới là quân nhân hoàn toàn. Vì  vậy, phải tổ chức các lớp huấn luyện chu đáo, lấy tự học làm cốt, có thảo  luận và chỉ  đạo giúp vào Người nhấn mạnh, tổ  chức hoạt động học tập   phải gắn liền với thể chế xã hội, nền nếp dạy học, trình độ người dạy để  phát triển năng lực người học [107].   Bước vào thời kỳ đổi mới đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu   của tác giả như: Đặng Bá Lãm (2005) “Quản lý Nhà nước về giáo dục, lý   luận và thực tiễn” [64];  Phan Văn Kha (2014) về  “Đổi mới quản lý giáo  dục Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [55]; Trần Khánh Đức  (2010), với “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI”  [36]  và  Đặng Quốc Bảo, Vũ Quốc Chung (2013) “Một số  vấn đề  lý luận và  thực tiễn về  lãnh đạo quản lý giáo dục trong thời kỳ  đổi mới” [5]; Đặng  Quốc Bảo – Bùi Việt Phú (2013) với “Một số  góc nhìn về  phát triển và  quản lý giáo dục” [6]. Bàn   về   quản   lý   nhà   trường   các   tác   giả  Nguyễn   Hữu   Châu  [19];  Nguyễn Phúc Châu  [20] đã chỉ  ra các nội dung quản lý rất cụ  thể, nhấn   mạnh và chỉ  rõ về  hoạt động quản lý, tác giả  Nguyễn Thị  Mỹ  Lộc quan  niệm “hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ  đích của chủ 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2