Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 (từ góc nhìn thể loại)
lượt xem 11
download
Mục đích nghiên cứu của Luận án này nhằm khảo sát, thống kê, phân loại, định danh, mô tả, phân tích các dạng tiêu biểu của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 như: truyện cực ngắn, truyện ngắn giàu chất trữ tình, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 (từ góc nhìn thể loại)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI ---------- CHU THỊ HUYỀN CÁC DẠNG CƠ BẢN CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1986 (từ góc nhìn thể loại) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9.22.01.21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Thu Thủy PGS.TS. Vũ Tuấn Anh HÀ NỘI - 2020
- LỜI CẢM ƠN Trải qua quá trình học tập, nghiên cứu, thực hiện luận án tốt nghiệp, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới: PGS.TS Đặng Thu Thủy, PGS.TS Vũ Tuấn Anh - Hai nhà khoa học - Hai người thầy mẫu mực, tâm huyết luôn cảm thông, chia sẻ những khó khăn của nghiên cứu sinh, khích lệ, động viên, nhiệt tình hướng dẫn cho tôi trong quá trình nghiên cứu luận án. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phòng Sau Đại học, Khoa Ngữ văn cùng với các thầy cô tham gia giảng dạy nghiên cứu sinh chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại Khóa 34. Ủy ban nhân nhân thành phố Hải Dương, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Dương, Ủy ban nhân nhân thành phố Hà Nội, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Ban Giám hiệu, giáo viên trường Trung học phổ thông Ninh Giang, Ban Giám hiệu, giáo viên trường Trung học phổ thông Trần Nhân Tông đã tạo những điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án. Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn nhiệt tâm ủng hộ tôi trong suốt chặng đường đã qua. Tác giả luận án Chu Thị Huyền
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa có ai công bố trong bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào khác. Tác giả luận án Chu Thị Huyền
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 2 3. Phạm vi nghiên cứu và phạm vi khảo sát..................................................... 2 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 3 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 6. Những đóng góp mới của Luận án ................................................................ 4 7. Cấu trúc của luận án ....................................................................................... 5 NỘI DUNG....................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1986 .............. 6 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu........................................................ 6 1.1.1. Những công trình nghiên cứu chung và nghiên cứu những hiện tượng nổi bật về truyện ngắn Việt Nam sau 1986 ....................................................... 6 1.1.2. Những công trình, bài viết nghiên cứu các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 ................................................................................. 15 1.1.3. Một số kết luận ...................................................................................... 21 1.2.Những vấn đề chung của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 ................. 22 1.2.1. Bối cảnh xã hội-văn hóa- văn học Việt Nam sau 1986......................... 22 1.2.2. Khái quát về các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 .......... 26 1.2.3. Một số kết luận ...................................................................................... 34 Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 35 CHƢƠNG 2: TRUYỆN CỰC NGẮN ......................................................... 36 2.1.Lịch sử truyện cực ngắn Việt Nam ........................................................ 36 2.2. Đặc điểm cơ bản của truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986 ................ 40 2.2.1. Rút gọn tối đa về dung lượng ................................................................ 40 2.2.2. Giản lược cốt truyện ............................................................................. 43
- 2.2.3 Giản lược tối đa nhân vật ...................................................................... 47 2.2.4. Chắt lọc chi tiết .................................................................................... 48 2.3. Một số dạng truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986............................... 50 2.3.1. Truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn.................................................... 52 2.3.2. Truyện cực ngắn giàu chất kịch ............................................................ 58 Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 69 CHƢƠNG 3: TRUYỆN NGẮN GIÀU CHẤT TRỮ TÌNH ...................... 70 3.1. Lịch sử truyện ngắn giàu chất trữ tình Việt Nam................................. 70 3.2. Đặc điểm cơ bản của truyện ngắn giàu chất trữ tình Việt Nam sau 1986 75 3.2.1. Cốt truyện trữ tình ................................................................................. 75 3.2.2. Tình huống tâm trạng ............................................................................ 82 3.2.3. Kiểu nhân vật nội tâm ........................................................................... 89 3.2.4. Ngôn ngữ đậm chất thơ ......................................................................... 95 3.2.5. Giọng điệu cảm thương, chia sẻ ......................................................... 105 Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 107 CHƢƠNG 4: TRUYỆN NGẮN GIÀU CHẤT TIỂU THUYẾT ............ 108 4.1. Lịch sử truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam........................ 108 4.2. Đặc điểm cơ bản của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ............................................................................................................... 111 4.2.1. Mở rộng tối đa sức chứa của truyện ngắn .......................................... 111 4.2.2. Kiểu nhân vật trải nghiệm, triết luận .................................................. 118 4.2.3. Cấu trúc phức hợp- lồng ghép ............................................................ 132 4.2.4. Sự đan cài nhiều lớp ngôn ngữ, kiểu cú pháp ..................................... 136 4.2.5. Sự đa dạng về giọng điệu .................................................................... 143 Tiểu kết chương 4 .......................................................................................... 147 KẾT LUẬN .................................................................................................. 148 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ................................. 151 TÁC PHẨM KHẢO SÁT ........................................................................... 152 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 157
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam hiện đại, truyện ngắn là một thể loại mạnh, có nhiều thành tựu. Đến với truyện ngắn Việt Nam sau 1986, các nhà nghiên cứu, phê bình không chỉ được đối thoại với những nhà văn xuất sắc của Việt Nam, được thưởng thức những truyện ngắn có giá trị mà còn thấy được quá trình vận động, biến đổi không ngừng của thể loại này. Từ sau 1986, nhất là những năm gần đây, truyện ngắn đã có sự chuyển dịch quan trọng về phía hiện đại, giao lưu và hội nhập với truyện ngắn nói riêng và văn xuôi thế giới nói chung. Chính sự đa dạng, nhiều màu sắc đó đã đưa truyện ngắn trở thành một đối tượng tiềm năng, hấp dẫn với độc giả và các nhà nghiên cứu. 1.2. Nhà lý luận phê bình, cây đại thụ lý luận của nước Nga, Bakhtin, đã từng khẳng định: “Lịch sử văn học trước hết là lịch sử hình thành, phát triển và tương tác giữa các thể loại”[105; 8]. Lịch sử văn học đã minh chứng điều đó. Sau 1986, độc giả đã chứng kiến quá trình vận động và biến đổi liên tục của thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn (cùng với tiểu thuyết) là thể loại quan trọng cuả văn xuôi, thể hiện một lối tư duy riêng về đời sống. Truyện ngắn đã và đang có sự vận động, đổi thay về quy mô và dung lượng; truyện ngắn đang có xu hướng vươn tới, giao thoa với các thể loại khác như kịch, tiểu thuyết, thơ... Sự giao thoa, tương tác tạo nên một số dạng mới của truyện ngắn đồng thời thể hiện tinh thần dân chủ, hiện đại, sự nỗ lực, cách tân của thể loại truyện ngắn. 1.3. Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 đến nay có nhiều thành tựu, phong phú, đa dạng, phức tạp, phân hướng, phân dòng… Đây là nơi quy tụ nhiều thế hệ nhà văn. Có rất nhiều cây bút đã trở nên quen thuộc với độc giả như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... Họ vẫn chủ yếu tiếp nối dòng mạch văn chương truyền thống. Bên cạnh đó đã xuất hiện khá nhiều cây bút với cách viết mới, lạ, đa dạng về bút pháp như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Đoàn Lê, Nguyễn Quang Lập, Y Ban, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thiều. Từ thập
- 2 niên 90, Hòa Vang, Trần Đức Tiến, Hồ Anh Thái, Cao Duy Sơn đã trở thành những cây bút để lại nhiều tiếng vang. Cuối thập niên 90 tới những năm 2000, sự xuất hiện của những cây bút xuất sắc làm nên diện mạo mới của truyện ngắn như: Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lê Minh Khuê, Võ Thị Xuân Hà, Phan Thị Vàng Anh, Phan Triều Hải, Lưu Minh Sơn, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư... Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau 1986, chúng tôi nhận thấy: truyện ngắn đã và đang tiếp tục hình thành những dạng mới, độc đáo. Bên cạnh truyện ngắn truyền thống là sự xuất hiện đa dạng của các dạng truyện ngắn mới. Nhiều nhà văn có sự gặp gỡ trong quan điểm nghệ thuật, bút pháp thể hiện, tạo ra dạng truyện độc đáo, hấp dẫn. Điều này tạo nên sự đa dạng, phong phú cho bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau 1986 cũng như khẳng định vị thế quan trọng của truyện ngắn trong dòng chảy văn xuôi đương đại Việt Nam. 1.4. Đã có không ít công trình khoa học chọn truyện ngắn Việt Nam sau 1986 làm đối tượng nghiên cứu. Những dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 đã bắt đầu được quan tâm, nghiên cứu trong những năm gần đây. Nhưng, đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên sâu nhận diện, phân loại các dạng cuả truyện ngắn sau 1986 từ góc nhìn thể loại. Cách tiếp cận này hứa hẹn sẽ cho nhiều kết quả thú vị và có nhiều ý nghĩa, không chỉ đối với việc nghiên cứu phê bình mà với cả hoạt động sáng tác. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn Các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 (từ góc nhìn thể loại) làm đề tài nghiên cứu của luận án. 2. Đối tƣợng nghiên cứu Luận án lựa chọn đối tượng nghiên cứu là các dạng cơ bản truyện ngắn Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn thể loại. 3. Phạm vi nghiên cứu và phạm vi khảo sát 3.1. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau 1986 từ góc độ thể loại, tập trung vào ba dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986: truyện cực ngắn, truyện ngắn giàu chất trữ tình, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
- 3 3.2. Phạm vi khảo sát Luận án tập trung khảo sát truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến năm 2019 . Do số lượng tác phẩm xuất bản hàng năm là rất lớn nên việc khảo sát cuả chúng tôi tập trung hướng tới các tác phẩm hoặc có chất lượng hoặc gây được dư luận và tất nhiên phải thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của mỗi dạng truyện ngắn theo định hướng của luận án. Các tác phẩm được khảo sát là khá lớn, được luận án trình bày trong phần Tác phẩm khảo sát (cuối luận án). 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Luận án khảo sát, thống kê, phân loại, định danh, mô tả, phân tích các dạng tiêu biểu của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 như: truyện cực ngắn, truyện ngắn giàu chất trữ tình, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết. - Từ đó tiến tới nhận diện đặc điểm, diện mạo và thành tựu của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn thể loại; đánh giá vai trò, vị trí của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này trong mối tương quan với các thể loại khác của nền văn học; thấy được khát vọng cách tân thể loại, tính chất hiện đại và năng động của thể loại truyện ngắn. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích như trên, luận án hướng tới thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: Luận án khảo sát đối tượng nghiên cứu và lí giải những tiền đề xã hội, văn hóa làm nảy sinh các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Luận án phân loại, khảo sát, mô tả các dạng cơ bản nổi bật của truyện ngắn Việt Nam sau 1986: lịch sử truyện cực ngắn, đặc điểm cơ bản của dạng truyện cực ngắn; lịch sử truyện ngắn giàu chất trữ tình, đặc điểm nổi bật của dạng truyện ngắn giàu chất trữ tình; lịch sử truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết, đặc điểm cơ bản của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết. Luận án lí giải, cắt nghĩa quá trình tiếp biến và phát triển của thể loại truyện ngắn trong sự giao thoa với các thể loại văn học. Luận án đưa ra một số đánh giá về thành tựu của từng dạng truyện ngắn, dự báo về dạng truyện có thiên hướng phát triển, chiếm ưu thế trong đời sống truyện ngắn Việt Nam thế kỉ XXI.
- 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu song trong đó có những phương pháp chính sau: Thứ nhất, phương pháp loại hình là phương pháp quan trọng của luận án. Phương pháp loại hình được sử dụng nhằm phân chia đối tượng nghiên cứu thành những dạng tiêu biểu với những tiêu chí cụ thể, khu biệt các dạng truyện ngắn. Với phương pháp này, chúng tôi nhận diện những bình diện làm nên đặc trưng các dạng của truyện ngắn (tình huống, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu). Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại là phương pháp thứ hai được sử dụng chủ yếu trong luận án. Đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Do vậy, chúng tôi sử dụng phương pháp này dựa vào những đặc trưng của thể loại truyện ngắn. Cũng từ phương pháp này, chúng tôi nhận ra những giao thoa, tương tác giữa truyện ngắn và các thể loại văn học. Thứ ba, luận án sử dụng phương pháp văn học sử. Phương pháp này được luận án sử dụng để nghiên cứu truyện ngắn trong mối tương quan với hoàn cảnh lịch sử- xã hội khi tác phẩm ra đời và được tiếp nhận, nghiên cứu theo giai đoạn văn học. Từ đó, luận án chỉ ra vị trí, vai trò của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 trong nền văn xuôi đương đại. Thứ tư, phương pháp so sánh được sử dụng để nhận diện sự khác nhau giữa các dạng; so sánh để chỉ ra sự kế thừa, đổi mới của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 so với các giai đoạn trước, so với các dạng khác hoặc thể loại văn học khác. Ngoài ra, luận án sử dụng một số thao tác như: thống kê, phân loại, phân tích và tổng hợp. 6. Những đóng góp mới của Luận án - Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu, phân loại, định danh, miêu tả, phân tích các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 (từ góc nhìn thể loại) một cách toàn diện và chuyên sâu. - Từ đây, luận án đã nhận diện những đặc điểm, diện mạo, đánh giá về vai trò, vị trí của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này trong mối tương quan với các thể loại khác
- 5 để thấy được khát vọng cách tân thể loại, tính chất hiện đại và năng động của thể loại truyện ngắn; bước đầu dự báo về xu hướng vận động, phát triển của truyện ngắn trong tương lai. - Cho tới thời điểm này, đây là công trình có tính thời sự hơn cả vì nó đã tiệm cận với truyện ngắn Việt Nam ở thì “hiện tại” (phạm vi nghiên cứu từ 1986 đến năm 2019). - Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích, đáng tin cậy cho những ai quan tâm nghiên cứu, giảng dạy truyện ngắn nói riêng cũng như Văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án bao gồm: Chƣơng 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và những vấn đề chung của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 Chƣơng 2: Truyện cực ngắn Chƣơng 3: Truyện ngắn giàu chất trữ tình Chƣơng 4: Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
- 6 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1986 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Đến nay, ở Việt Nam, truyện ngắn đã và đang trở thành một thể loại không chỉ đạt đến “độ chín trong hình thức và nội dung” mà còn đang mở ra “những mũi thăm dò, khai thác”, mới mẻ về hướng phát triển thể loại. Ngoài một số bài mang tính ghi nhận, đánh giá sự đóng góp của một số truyện ngắn mới lạ, đã có một số công trình nghiên cứu bàn bạc, đề cập tới một vài phương diện cuả truyện ngắn Việt Nam hiện đại, nhất là từ sau 1986 đến nay. Trong khoảng ba mươi năm này, truyện ngắn đã trải qua những bước thăng trầm, phân hóa thành nhiều dạng. Sự nỗ lực đổi mới, cách tân với những tìm tòi, bứt phá cuả giới sáng tác tạo nên cả những đỉnh triều và những con sóng ngầm của thể loại. Song hành cùng sự biến chuyển của thể loại là sự phản hồi mạnh mẽ từ phía độc giả. Đến nay có thể tính đến đơn vị hàng trăm công trình, ý kiến bàn về truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Có những ý kiến xoay quanh vấn đề thể loại, lí giải về những khúc ngoặt, ngả rẽ bất ngờ, thú vị của truyện ngắn Việt Nam sau 1986; có ý kiến bàn về sự tịnh tiến, độ lùi của thể loại; sự giao thoa, tương tác giữa truyện ngắn và các thể loại văn học khác; có nhiều ý kiến bàn về sự xuất hiện cuả những hiện tượng lạ, nổi bật của một cây bút mới, một nhóm sáng tác tạo nên tiếng vang trong đời sống truyện ngắn… Xuất phát từ đề tài của mình, chúng tôi xin lược dẫn những ý kiến tiêu biểu theo hai nhóm: nhóm thứ nhất là những công trình, bài viết nghiên cứu chung và nghiên cứu những hiện tượng nổi bật về truyện ngắn; nhóm thứ hai là những công trình, bài viết nghiên cứu về các dạng truyện ngắn Việt Nam đương đại. 1.1.1. Những công trình nghiên cứu chung và nghiên cứu những hiện tượng nổi bật về truyện ngắn Việt Nam sau 1986 Một trong những công trình được đánh giá cao khi kiến giải về truyện ngắn đó là công trình Văn học Việt Nam hiện đại- Nhận thức và thẩm định của nhà
- 7 nghiên cứu Vũ Tuấn Anh. Tác giả công trình đã khẳng định về tiềm lực của thể loại, đồng thời thể hiện sự tin tưởng và kì vọng của mình: “Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến cả độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến” [98; 32]. Cùng khẳng định thành tựu chung của truyện ngắn Việt Nam, Nguyễn Thị Bích Thu trong Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 cho rằng: “Trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm... Xét trong hệ thống chung cuả các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ”. Bên cạnh đó, khi lí giải về nguyên nhân dẫn đến sự được mùa, phát triển rực rỡ của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, tác giả khẳng định: “Do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng trong tính cách con người, thị hiếu thẩm mĩ cuả công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kì đang chuyển biến” [245; 32-36]. Và truyện ngắn- một thể loại có tính công năng sẽ đáp ứng được yêu cầu đó của công chúng và người sáng tác. Đây là quan điểm có tính khoa học và thực tiễn cao. Điều này góp phần lí giải vì sao truyện ngắn Việt Nam từ sau chiến tranh (và nhất là khi bước vào thời kì Đổi mới) có sự phân hóa thành nhiều dạng khác nhau. Thực tiễn đã trở thành động lực cho sự sáng tạo và bứt phá cuả truyện ngắn Việt Nam. Trong cái nhìn so sánh, đối chiếu giữa các thời kì văn học, Phan Cự Đệ đã khẳng định trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam- Lịch sử- Thi pháp- Chân dung: “Những truyện ngắn của các tác giả này (Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp…) sáng tác trong thời đổi mới đều có những chuyển biến so với giai đoạn trước với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật. Các nhà văn đã bước một bước dài từ khuynh hướng sử thi- lãng mạn sang khuynh hướng thế sự- đời tư” [131; 366]. Có thế thấy, công trình trước hết đã cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về bức tranh truyện ngắn Việt Nam qua các giai đoạn phát triển, các tác giả
- 8 tiêu biểu của từng giai đoạn, thời kì. Cũng như vậy, Phan Cự Đệ lí giải về tính chất hợp quy luật của sự phát triển ở thể loại truyện ngắn: “Truyện ngắn và tiểu thuyết thời kì Đổi mới (1986-2000) phát triển hết sức mạnh mẽ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật. Các thể loại văn xuôi là sự hiện thân của sự uyển chuyển, xét về bản chất dường như không có tính quy phạm. Đó là những thể loại được xây dựng trong khu vực tiếp xúc trực tiếp với hiện thực đang vận động và phát triển” [131; 369]. Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy là công trình tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu tham gia Hội thảo Văn học Việt Nam sau 1975 do Trường Đại học Sư phạm tổ chức nhân dịp kỉ niệm ba mươi năm cuộc kháng chiến chống Mĩ toàn thắng có ý nghĩa thiết thực, thúc đẩy việc nghiên cứu văn học sau 1975. Trong bài Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long viết: “Với truyện ngắn, văn học Việt Nam đang tiệm cận văn học thế giới ở tư duy thể loại [...]. Dư luận đánh giá cao nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Phạm Thị Hoài, Hòa Vang, Nguyễn Bản, Trang Thế Hy, Phan Việt, Ngô Tự Lập, Nguyễn Quang Thân, Trần Thùy Mai, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư. Ưu thế truyện ngắn nói chung thuộc về các tác giả trẻ. Họ trăn trở rất nhiều đến cách viết”. Theo tác giả, văn học thời kì đổi mới có thể được chia làm hai chặng: từ 1986 đến đầu những năm 90 văn học gắn liền với chặng đầu của công cuộc đổi mới đất nước; sang chặng thứ hai từ giữa những năm 90 trở đi, văn học trở lại với những quy luật bình thường. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh: văn học tiếp tục “với hướng tiếp cận đời sống trên bình diện thế sự- đời tư đã mở ra từ những năm 80, nhiều cây bút đã đi vào thể hiện ở mọi khía cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phồn tạp và vĩnh hằng” [182;183]. Công trình của Tiến sĩ Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1995 nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn 1975- 1995 trong đó có những kiến giải quí báu về truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Luận án phân tích những đổi mới của truyện ngắn giai đoạn này trong các
- 9 lĩnh vực: cốt truyện, kết cấu, thời gian nghệ thuật, nhân vật và ngôn ngữ. Theo ý kiến của tác giả, truyện ngắn giai đoạn này có xu hướng giảm nhẹ cốt truyện bên ngoài, gia tăng cốt truyện bên trong, tăng phân tích triết luận, vận dụng các motip folklore để xây dựng cốt truyện. Đánh giá về nhân vật, nhà nghiên cứu cho rằng: “Quan niệm con người cá thể có sự hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, nhân vật là con người đời thường, có sự hòa hợp giữa con người tự nhiên, con người xã hội và con người tâm linh... Các nhà văn mượn lại tên nhân vật trong một số truyện cổ để đặt tên cho nhân vật cuả mình để thực hiện những mục đích sáng tạo mới” [164; 43]. Lê Thị Hường khẳng định về thành tựu của truyện ngắn: “Truyện ngắn hôm nay trở thành một thể loại độc lập, có bản sắc” [164; 45]. Trăn trở về sự dịch chuyển của truyện ngắn từ truyền thống đến hiện đại, Luận án Đặc điểm thi pháp truyện ngắn sau 1975 của Tiến sĩ Đặng Thị Mây là một công trình có giá trị, đã chỉ ra những nguyên nhân (bối cảnh xã hội, sự tương tác giữa các thể loại) tạo nên sự ổn định và biến đổi cuả thể loại truyện ngắn. Nhìn từ thi pháp thể loại, tác giả khẳng định sự đổi mới để phát triển là xu thế tất yếu của truyện ngắn trong sự nỗ lực cách tân về nội dung và hình thức thể loại. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến tính dân chủ và sự đối thoại của truyện ngắn. Theo ý kiến của tác giả, việc “phá vỡ sự đơn nhất về cấu trúc nghệ thuật chính là một trong những lí do trọng yếu để tạo nên tính dân chủ và đối thoại của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Đây cũng chính là tính trội của truyện ngắn Việt Nam sau 1975” [192; 16]. Sự vận động, giao thoa của thể loại truyện ngắn đương đại Việt Nam là một trong những hướng nghiên cứu mới. Trước hết, chúng ta phải kể đến luận án của tiến sĩ Nguyễn Thị Bích- Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng). Lí giải về việc lựa chọn ba nhà văn trên thành đối tượng trong nghiên cứu cuả mình, Nguyễn Thị Bích đã viết: họ là “những đại biểu tinh anh của phong trào đổi mới sau 1975. Họ là những cây bút trưởng thành trong chiến tranh và trở về từ chiến tranh nhưng trong bối cảnh đổi mới, họ vẫn là những tác giả có nhiều bạn đọc” [111; 37]. Với hướng tiếp cận từ tự sự học, Luận án triển khai trên các phương diện chính như ngôi kể, điểm nhìn trần thuật và giọng điệu trần
- 10 thuật. Tác giả đã chứng minh lý thuyết đó qua truyện ngắn của ba cây “gạo cội” Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng. Từ cơ sở đó, luận án chỉ ra sự vận động, chuyển đổi của thể loại truyện ngắn đương đại. Nghiên cứu, đối sánh các tác giả văn học theo vùng miền để nhận diện, đánh giá sự chuyển biến của truyện ngắn là hướng nghiên cứu có ý nghĩa khoa học. Trần Mạnh Hùng trong luận án Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay [160] đã mở ra một cái nhìn bao quát về những gương mặt tiêu biểu của vùng đồng bằng này. Lấy trọng tâm là sự vận động cuả truyện ngắn và một số phương tiện nghệ thuật cơ bản của truyện, tác giả đã chỉ ra những đóng góp không nhỏ của các nhà văn vùng sông nước Nam Bộ làm nên sự phong phú truyện ngắn Việt Nam. Luận án đã khẳng định sự mới lạ trong cách nhìn, cách cảm, cách thể hiện của các nhà văn hôm nay trước bức tranh muôn màu của cuộc sống, đã sáng tạo nên những hình thức biểu hiện mới của tư duy nghệ thuật hiện đại, góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Ngoài các công trình tiêu biểu chúng tôi lược trích, còn có nhiều bài viết, ý kiến có giá trị khác. Mỗi bài viết nhìn từ góc độ riêng song đều thể hiện sự quan tâm, trăn trở của các nhà văn, nhà nghiên cứu về văn xuôi sau Đổi mới nói chung trong đó đặc biệt là thể loại truyện ngắn. Chẳng hạn: Thời hiện tại chưa hoàn thành của truyện ngắn (Lê Lưu Oanh, Trích Tự sự học, 2004) [217; 369-378]; Truyện ngắn hôm nay (Bùi Việt Thắng, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 1, 2004) [238]; Một thoáng nhìn văn học 5 năm đầu thế kỉ (Trần Thanh Đạm, Báo Văn nghệ, số 45, 2004) [153; 6]; Nghĩ tiếp về đặc điểm truyện ngắn hiện đại (Phùng Ngọc Kiếm, Kỉ yếu Hội thảo khoa học những nhà nghiên cứu Ngữ văn trẻ, lần 2, 2004) [171; 221]; Tri thức đọc hiểu truyện ngắn hiện đại (Nguyễn Thanh Hùng, Báo Văn nghệ, số 28, 2005) [159; 15]... Khảo sát truyện ngắn trong vòng ba thập kỉ, chúng tôi thấy đã có hàng trăm bài viết cuả các nhà nghiên cứu, phê bình về tác giả, những hiện tượng nổi bật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Do số lượng là rất lớn, nên trong luận án này chúng tôi xin lược trích những bài viết tiêu biểu, có giá trị và liên quan mật thiết tới đề tài của mình.
- 11 Từ giữa thập kỉ tám mươi đến nay đã từng dấy lên nhiều cuộc tranh luận về những hiện tượng nổi bật trong lĩnh vực truyện ngắn. Trước tiên, chúng ta phải kể đến hiện tượng truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu. Nhiều bài viết đánh giá cao những cách tân nghệ thuật và khẳng định sự đóng góp của nhà văn. Tôn Phương Lan và Lại Nguyên Ân nhận xét: “Các truyện ngắn từ đầu những năm 80 dường như trình diện một Nguyễn Minh Châu khác trước. Những sáng tác này lại trở thành một trong những tiêu điểm chú ý của dư luận”. Theo thống kê của nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan từ năm 1976 đến năm 1991 có 82 bài viết lớn luận bàn về truyện Nguyễn Minh Châu. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu chính là công trình công phu của Tôn Phương Lan về Nguyễn Minh Châu. Bên cạnh đó, tác giả Mai Hương đã sưu tầm tuyển chọn 59 bài viết trong cuốn sách mang tên Nguyễn Minh Châu tài năng và sáng tạo nghệ thuật. Trong cuốn sách, các bài viết quan tâm đến quan niệm nghệ thuật về con người, thế giới xây dựng nhân vật, tình huống truyện hay nghệ thuật xây dựng nhân vật... Ngoài ra, trong số rất nhiều bài viết luận bàn xoay quanh hiện tượng nổi bật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, chúng ta không thể không kể tới ý kiến của tác giả Đỗ Đức Hiểu. Trong bài viết Đọc Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, tác giả chỉ ra nét độc đáo trong cốt truyện. Bốn mạch truyện trong truyện ngắn này: mạch truyện thứ nhất có chiều dài lịch sử của một đời người; mạch truyện thứ hai dừng lại rất lâu ở cái chết oan khuất của Dũng trên đất Campuchia; mạch truyện thứ ba dành cho hồi ức về lịch sử ông Bí thứ huyện, nhà lãnh đạo; mạch truyện thứ tư là giấc mơ khủng khiếp- ông Khúng hóa thân thành con bò, bị đánh vào đầu bằng búa tạ. Trong cái nhìn của các nhà nghiên cứu, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là “người mở đường tinh anh và tài năng” của văn học thời kì Đổi mới. Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp với hàng loạt truyện ngắn mang phong cách mới lạ đã tạo nên “hội chứng Nguyễn Huy Thiệp”. Hiện diện vào giữa những năm 80 của thế kỉ XX, Nguyễn Huy Thiệp lập tức gây chú ý cho bạn đọc, “làm văn đàn lần nữa sôi động sau Nguyễn Minh Châu”. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đã dấy lên những cuộc tranh luận trên văn đàn.
- 12 Sau khi tác phẩm Tướng về hưu được xuất bản khoảng một năm thì cuốn Nguyễn Huy Thiệp- Tác phẩm và dư luận hiện diện. Và khoảng mười năm sau, tập sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp [254] do tác giả Phạm Xuân Nguyên tập hợp ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê bình, độc giả trình làng như một minh chứng cho cơn chấn động văn đàn mà Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra. Tập sách bao gồm 54 bài viết, được coi là câu chuyện “Người đương thời Nguyễn Huy Thiệp bàn về Nguyễn Huy Thiệp”. Các bài viết tiêu biểu phải kể đến là ý kiến cuả các tác giả Diệp Minh Tuyền, Bùi Hiển, Hồ Phương, Mai Ngữ, Nguyễn Văn Bổng, Đông La, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh, Đặng Anh Đào, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Thị Minh Thái, Vũ Phan Nguyên, Nguyễn Thúy Ái, Lê Minh Hà… Tập sách thể hiện hai luồng ý kiến đối lập. Có những ý kiến kịch liệt phản đối, phê phán quyết liệt (Mai Ngữ, Vũ Phan Nguyên, Nguyễn Thúy Ái…). Ngược lại, có những ý kiến không chỉ thể hiện sự đồng thuận mà nồng nhiệt chào đón sự xuất hiện của tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp. Các nhà nghiên cứu ghi nhận sự đóng góp của nhà văn trên mọi lĩnh vực của một truyện ngắn. Diệp Minh Tuyền khẳng định: “Anh đã thoát khỏi căn bệnh trầm kha lâu nay văn học ta vẫn mắc phải: chủ nghĩa đề tài”. Hồ Phương thể hiện sự tâm đắc khi đọc truyện ngắn: “Tôi thấy Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện với một giọng điệu mới, một bút pháp sắc gọn, trẻ trung, rất thích”. Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét: “một lối viết khác hẳn, tiếng Việt được viết lạ chưa từng thấy. Bây giờ, sau hai chục năm, đọc đi đọc lại vẫn thấy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thật lạ về mọi phương diện văn chương”. Còn đối với nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, ông khẳng định Nguyễn Huy Thiệp xứng đáng nhận giải thưởng “cây bút vàng”. Cách viết của Nguyễn Huy Thiệp không chỉ hấp dẫn giới nghiên cứu phê bình trong nước mà còn cả nước ngoài. Trong số các bài viết đó có khoảng mươi bài hướng tới phong cách viết truyện độc đáo, lạ của nhà văn. Các bài viết bao gồm: Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra Tiếng Nhật (Greg Lockhart, Tạp chí văn học, số 4, 1989) [140]; Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vài cảm nghĩ, (Nguyễn Đăng Mạnh, Tạp chí Cửa Việt số 16, 1992) [188]; Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, (Nguyễn Thanh Sơn, Nxb Văn hóa Thông tin, 2001) [225]; Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, (Trần Duy Thanh, Báo
- 13 Nhân Dân, 26/6/2008) [233]; Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, (Nguyễn Thành Thi, Nghiên cứu văn học số 5, 2010) [241]… Truyện ngắn Phạm Thị Hoài vừa xuất hiện đã chiếm được nhiều cảm tình của độc giả. Nguyễn Thị Bình đã ghi nhận những phương diện cách tân của Phạm Thị Hoài: “Ngoài sự độc đáo ngôn ngữ Phạm Thị Hoài còn trình làng một dạng thức truyện ngắn đậm chất huyền thoại, nhiều yếu tố tự luận, nhân vật ít hiện diện như những tính cách mà như một trạng thái tồn tại hoặc một ý niệm về đời sống. Truyện của bà rất giàu chất sắc thái trào lộng, các chi tiết xác thực, châu tuần quanh một cốt truyện có ý rời xa logic hiện thực, phi lí, tạo ra một kiểu “tân huyền thoại” hoặc “phiếm huyền thoại” không phải bao giờ cũng dễ hiểu” [113; 217]. La Khắc Hòa khẳng định: “Phạm Thị Hoài trao gửi người kể chuyện một cách tài tình, tinh tế, một thủ thuật ngôn ngữ bỗ bã, suồng sã. Mỗi sáng tác cuả Phạm Thị Hoài vì thế giống như một hình tượng ngôn từ giễu nhại. Nó giễu nhại tất cả lời nói có vẻ nghiêm túc, nhưng chứa đựng bên trong rất nhiều sự giả dối” [150; 67]. Nghiên cứu truyện ngắn Phạm Thị Hoài còn phải kể đến bài viết như: Những bước đi ban đầu của cây bút Phạm Thị Hoài (Văn Giá, Thông báo khoa học Trường Đại học Sư phạm số 4b, 1989) [139]; Phạm Thị Hoài trên sinh lộ mới của văn học (Thụy Khuê, www.talawas.org) [170]; Đọc và đọc lại “Thiên sứ” cuả Phạm Thị Hoài (Nguyễn Thanh Sơn, www.talawas.org) [224]… Nửa cuối thập niên 80 cho đến suốt thập niên 90 dư luận chú ý tới sự xuất hiện của nhiều cây nút nữ xuất sắc, một hiện tượng văn học thể hiện rõ tinh thần nữ quyền. Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh hay Y Ban được đề cập nhiều và được dư luận khen ngợi về cách đặt và xử lí vấn đề, với quan niệm mới mẻ, táo bạo về nhân sinh. Thảo luận về vấn đề này, Đặng Anh Đào, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân đã ghi nhận sự đóng góp của các cây bút nữ mới trong buổi tọa đàm Phụ nữ và sáng tác văn chương [134]. Nguyễn Đăng Điệp cũng trao đổi, khẳng định vị thế của họ trong Hội thảo Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa quốc tế tại khu vực. Cuối năm 1989, truyện ngắn Tạ Duy Anh đã làm nên sự xáo động văn đàn. Bước qua lời nguyền khơi nguồn cảm hứng từ bức tranh xã hội Việt Nam 1950-
- 14 1970 mang đến cho người đọc thấy bức toàn cảnh nông thôn Việt Nam trên con đường đổi mới. Hình ảnh chàng trai và cô gái dắt tay nhau bước qua lời nguyền, sự hận thù của hai dòng họ phản ánh quy luật tất yếu của xã hội: đã đến lúc cần cởi bỏ những ràng buộc, những sợi dây luật lệ hà khắc với con người. Trong bài đăng trên báo Văn nghệ số 50 (12/1989), Hoàng Ngọc Hiến nhận định: “… đọc truyện ngắn của Tạ Duy Anh, một câu hỏi đặt ra: Giã từ thế kỉ XX bão táp và máu lửa này và chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI “lý trí và nhân bản”, những lời nguyền nào là đáng nguyền rủa, những lời nguyền nào nhân loại trước sau cũng phải bước qua? Phải đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia? Phải chăng truyện của Tạ Duy Anh là tín hiệu của một dòng văn học mới, dòng văn học bước qua lời nguyền”. Còn với nhiều nhà nghiên cứu, nếu tính 50 truyện ngắn hay nhất Việt Nam tính tới thời điểm đó phải có Bước qua lời nguyền và nếu cần chọn ra 20 truyện, 10 truyện cũng phải có, và thậm chí nếu chỉ được phép chọn 5 truyện đặc sắc nhất, không thể thoát Bước qua lời nguyền. Đầu thế kỉ XXI, hiện tượng Nguyễn Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận), Đỗ Hoàng Diệu (Bóng đè) nổi bật trên diễn đàn. Có nhiều ý kiến khác nhau song nhìn chung các ý kiến đều đánh giá rất cao Cánh đồng bất tận- một trong những tác phẩm thấm đẫm chất nhân văn. Tác phẩm đã được trao tặng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2006; được dịch ra tiếng Hàn và được nhà xuất bản Asia tại Seoul phát hành 2007; được dịch sang tiếng Thụy Điển với tên Falt utan slut năm 2008. Đặc biệt với tập truyện cùng tên, Nguyễn Ngọc Tư đã đạt Giải thưởng Literaturpreis do Litprom - Hiệp hội quảng bá văn học Châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh bình chọn năm 2018. Nghiên cứu, lí giải về hiện tượng Nguyễn Ngọc Tư có một số bài viết đáng chú ý như: Phạm Xuân Nguyên (2004), Khi cánh đồng mở ra [203]; Vũ Hồng (2006), Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận [155]; Tiếng thở dài qua Cánh đồng bất tận, http.www.tuoitre.vn; Vũ Thị Hải Yến, Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ... Năm 2005, tập truyện ngắn Bóng đè cuả Đỗ Hoàng Diệu gây rất nhiều tiếng vang. Một số nhà phê bình đánh giá cao về nội dung và lối viết (Phạm Xuân Nguyên, Nguyên Ngọc, Nguyễn Huy Thiệp), một số người khác lại cho rằng tác phẩm khá dung tục, phỉ báng quá khứ, truyền thống và cần phải phê phán (Nguyễn Hòa).
- 15 Sự xuất hiện và bứt phá của các cây bút nữ những năm 90 đã trở thành một trong những tâm điểm văn chương sôi động. Khi một loạt các tuyển chọn truyện ngắn ra đời như Truyện ngắn bốn cây bút nữ [49], Truyện ngắn nữ đầu thế kỉ 21 [57]… ngay lập tức thu hút nhiều ý kiến của nghiên cứu. Trong số đó, những bài viết được đánh giá cao như: Văn xuôi cuả phái đẹp (của tác giả Nguyễn Bích Thu) đăng trên Tạp chí sông Hương, số 3 năm 2001; Đọc truyện ngắn của ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long (của các tác giả Nguyễn Anh Vũ Báo) đăng trên Báo Văn nghệ, số 27 năm 2005. 1.1.2. Những công trình, bài viết nghiên cứu các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 Tính tới thời điểm chúng tôi nghiên cứu đề tài này đã có một vài công trình, bài viết nghiên cứu những vấn đề liên quan gần gũi với đề tài của luận án như: khuynh hướng truyện ngắn, loại hình truyện ngắn. Đó là những gợi dẫn quí giá cho chúng tôi về một số dấu hiệu để nhận diện các dạng truyện ngắn. Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn những công trình, bài viết tiêu biểu: Khi nghiên cứu các khuynh hướng chính trong truyện ngắn Việt Nam (nhìn từ nội dung tư tưởng), nếu chúng ta không đề cập đến ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình và Nguyễn Văn Long sẽ là thiếu sót lớn. Căn cứ vào chủ đề và cảm hứng, Nguyễn Thị Bình phân chia văn xuôi nói chung trong đó có truyện ngắn với ba khuynh hướng nổi bật: “khuynh hướng nhận thức lại hiện thực”, “khuynh hướng đạo đức- thế sự đời tư” và “khuynh hướng triết luận” [214; 246]. Theo Nguyễn Văn Long, bốn khuynh hướng nổi bật của văn xuôi trong đó có truyện ngắn giai đoạn này bao gồm: “khuynh hướng sử thi”, “khuynh hướng nhận thức lại”, “khuynh hướng thế sự- đời tư” và “khuynh hướng triết luận” [182; 183]. Nguyễn Minh Nhựt trong Lời giới thiệu Tuyển truyện ngắn đạt giải cao 30 năm đổi mới 1986-2016 đã gợi dẫn: “Đọc toàn bộ cuốn sách này, bạn cũng có thể hình dung một phần quan trọng trong dòng chảy của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, với sự phong phú vô cùng về đề tài, giọng điệu. Bạn sẽ gặp ở đây những truyện ngắn về đề tài hậu chiến. Trong đó có những vấn đề mà đến tận hôm nay, hàng chục năm sau khi tác giả viết ra chúng, vẫn còn đang tồn đọng,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
322 p | 419 | 84
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Giao thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực thời kì 1932 - 1945
217 p | 364 | 81
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
184 p | 277 | 47
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Đối chiếu cấu trúc – ngữ nghĩa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt
237 p | 188 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
169 p | 124 | 26
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
164 p | 76 | 24
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930)
232 p | 135 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh
202 p | 115 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Thục và Đoàn Nguyễn Tuấn
90 p | 108 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử
172 p | 133 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cấu tạo và phương thức thể hiện tiếng cười của truyện cười hiện đại Việt Nam
179 p | 66 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami
32 p | 26 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Phản trinh thám trong bộ ba New York của Paul Auster
167 p | 108 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập
282 p | 32 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Mĩ cảm trong tiểu thuyết Haruki Murakami
237 p | 15 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tư tưởng thị tài trong thơ trung đại Việt Nam
490 p | 12 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết William Faulkner từ góc nhìn nhân học văn hóa
27 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
27 p | 20 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn