intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX (qua một số tác giả tiêu biểu)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:189

20
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của Luận án là nghiên cứu những đóng góp của loại hình tác giả Nho học – Tân học cho thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX từ tiếp cận thể loại trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX (qua một số tác giả tiêu biểu)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI BÙI THỊ LAN HƢƠNG TÁC GIẢ NHO HỌC - TÂN HỌC VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP ĐỐI VỚI THỂ LOẠI TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU THẾ KỶ XX (QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2020
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI BÙI THỊ LAN HƢƠNG TÁC GIẢ NHO HỌC - TÂN HỌC VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP ĐỐI VỚI THỂ LOẠI TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU THẾ KỶ XX (QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Vũ Thanh 2. PGS. TS. Trần Thị Hoa Lê HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Vũ Thanh, PGS. TS. Trần Thị Hoa Lê. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào trước đó. Các trích dẫn ý kiến của các nhà khoa học và nguồn tài liệu được thực hiện nghiêm chỉnh theo đúng quy định chung. Nếu vi phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả luận án Bùi Thị Lan Hƣơng
  4. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, cho tôi gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo ở Khoa Ngữ văn, Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ, các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, tận tình giảng dạy, động viên, nhiệt tình giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới hai nhà khoa học hướng dẫn là PGS. TS. Vũ Thanh và PGS. TS. Trần Thị Hoa Lê. Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận án, tôi đã luôn luôn nhận được sự khích lệ, động viên tinh thần kịp thời để tôi có thể có được thành quả như ngày hôm nay. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn người thân trong gia đình và bạn bè đã động viên tôi, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2020 Tác giả luận án Bùi Thị Lan Hƣơng
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 3 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3 5. Đóng góp mới của luận án ............................................................................ 6 6. Cấu trúc của luận án ...................................................................................... 6 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................................................................................. 7 1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................................. 7 1.1.1. Lý thuyết loại hình học văn học ........................................................... 7 1.1.2. Lý thuyết tự sự học.............................................................................. 11 1.2. GIỚI THUYẾT TÁC GIẢ NHO HỌC – TÂN HỌC .............................. 13 1.3. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................................ 17 1.3.1. Những công trình nghiên cứu về các tác giả Nho học - Tân học .... 18 1.3.1.1. Những nghiên cứu về tác giả Nguyễn Chánh Sắt .............................. 18 1.3.1.2. Những nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh ............................................... 21 1.3.1.3. Những nghiên cứu về Tản Đà ............................................................ 24 1.3.1.4. Những nghiên cứu về Nguyễn Trọng Thuật ...................................... 27 1.3.1.5. Những nghiên cứu về Ngô Tất Tố ..................................................... 28 1.3.2. Những công trình nghiên cứu thể loại tiểu thuyết giai đoạn giao thời và tiểu thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học .................... 31 1.3.3. Nhận xét chung .................................................................................... 36 Tiểu kết Chương 1 .......................................................................................... 36 Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHO HỌC - TÂN HỌC GIAI ĐOẠN ĐẦU THẾ KỶ XX ..... 38 2.1. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHO HỌC – TÂN HỌC.. 38 2.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội, tƣ tƣởng - văn hóa................................... 38 2.1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX ......................................... 38
  6. 2.1.1.2. Quá trình phổ biến chữ Quốc ngữ ...................................................... 40 2.1.1.3. Sự ra đời, phát triển của báo chí và xuất bản ..................................... 42 2.1.1.4. Nền giáo dục mới với mô hình nhà trường Pháp - Việt..................... 44 2.1.2. Điều kiện văn học ................................................................................ 46 2.1.2.1. Dịch thuật - cầu nối giao lưu văn học Á - Âu .................................... 46 2.1.2.2. Công chúng và vai trò của công chúng văn học đầu thế kỷ XX ........ 49 2.1.2.3. Sự phát triển tư duy tiểu thuyết Việt Nam: từ tự sự của tiểu thuyết chương hồi chữ Hán đến tiểu thuyết Quốc ngữ hiện đại ................................ 50 2.1.2.4. Quá trình thay đổi ý thức của nhà văn ............................................... 56 2.2. ĐẶC ĐIỂM LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHO HỌC – TÂN HỌC ĐẦU THẾ KỶ XX.................................................................................................... 60 2.2.1. Những tác giả xuất thân Nho học sau đó tham gia và học nhà trƣờng Pháp - Việt......................................................................................... 62 2.2.2. Những tác giả dự các khoa thi Nho học và tự học tiếng Pháp ........ 65 Tiểu kết Chương 2 .......................................................................................... 69 Chƣơng 3: TÁC GIẢ NHO HỌC- TÂN HỌC VỚI TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU THẾ KỶ XX TRÊN PHƢƠNG DIỆN HỆ THỐNG ĐỀ TÀI - CHỦ ĐỀ VÀ TỔ CHỨC KẾT CẤU CỐT TRUYỆN............... 71 3.1. HỆ THỐNG ĐỀ TÀI – CHỦ ĐỀ............................................................. 71 3.1.1. Đề tài - chủ đề về đạo đức, luân lý xã hội ......................................... 73 3.1.2. Đề tài - chủ đề phê phán xã hội .......................................................... 79 3.1.3. Đề tài - chủ đề về tình yêu và hôn nhân gia đình ............................. 85 3.2. TỔ CHỨC KẾT CẤU CỐT TRUYỆN.................................................... 91 3.2.1. Kết cấu cốt truyện vay mƣợn ............................................................. 92 3.2.2. Kết cấu cốt truyện sáng tạo ................................................................ 99 Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................ 102 Chƣơng 4: TÁC GIẢ NHO HỌC- TÂN HỌC VỚI TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU THẾ KỶ XX TRÊN PHƢƠNG DIỆN XÂY DỰNG HỆ THỐNG NHÂN VẬT, GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ .................. 104 4.1. XÂY DỰNG HỆ THỐNG NHÂN VẬT ............................................... 104
  7. 4.1.1. Một số loại hình nhân vật tiêu biểu ................................................. 104 4.1.1.1. Nhân vật là con người đạo đức, có tình có nghĩa ............................ 105 4.1.1.2. Nhân vật là con người tài tử mang ảo mộng thoát ly ....................... 109 4.1.1.3. Nhân vật là con người bị áp bức, bóc lột đến cùng cực ................... 113 4.1.1.4. Nhân vật là con người bị tha hóa và tầng lớp quan lại, địa chủ....... 115 4.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ......................................................... 118 4.1.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và nhân thân nhân vật ..................... 118 4.1.2.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật .................................................. 123 4.2. GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT.............................................................. 126 4.2.1. Giọng điệu triết lí, giáo huấn............................................................ 127 4.2.2. Giọng điệu bình luận thế sự ............................................................. 130 4.2.3. Giọng điệu cảm thƣơng .................................................................... 132 4.2.4. Giọng điệu hài hƣớc, đả kích ........................................................... 134 4.3. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT................................................................ 137 4.3.1. Xu hƣớng giảm dần câu văn biền ngẫu và từ Hán - Việt đến sự gia tăng của ngôn ngữ đời sống.................................................................. 137 4.3.1.1. Xu hướng giảm dần của câu văn biền ngẫu ..................................... 137 4.3.1.2. Sự giảm dần của lượng từ ngữ Hán - Việt ....................................... 139 4.3.1.3. Sự gia tăng của ngôn ngữ đời sống .................................................. 141 4.3.2. Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại nội tâm ....................... 145 4.3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại........................................................................... 145 4.3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ............................................................. 147 Tiểu kết Chương 4 ........................................................................................ 149 KẾT LUẬN .................................................................................................. 151 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................................... 156 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 157
  8. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Lý do khoa học Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX là một trong những giai đoạn đặc biệt của lịch sử văn học dân tộc, lâu nay vẫn được các nhà khoa học định danh là giai đoạn giao thời, chuyển tiếp giữa hai thời kỳ, hai phạm trù từ văn học trung đại sang văn học hiện đại, từ những ảnh hưởng mang tính khu vực sang những mối liên hệ trực tiếp với văn học thế giới. Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt đó, nền văn học Việt Nam đã xuất hiện một vài loại hình tác giả mới, trong đó có một kiểu loại tác giả là sản phẩm của thời điểm giao thời giữa cái cũ truyền thống và cái mới, ảnh hưởng phương Tây, đó là các tác giả Nho học - Tân học. Hiểu một cách đơn giản nhất, đó là những tác giả có sự kết hợp hai yếu tố trong cấu trúc, trong ý thức hệ tư tưởng: Nho giáo và học phong của thời đại mới. Họ có thể là những người đỗ đạt trong các kỳ thi Nho học, hoặc là những người đã nhiều năm theo đòi chữ nghĩa thánh hiền và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền học vấn này. Song, do những biến thiên của thời cuộc, trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng mới của phương Tây, những nhà nho này đã theo học tiếng Pháp, tiếp thu văn hóa Pháp và chuyển sang viết văn bằng chữ Quốc ngữ. Đội ngũ tác giả Nho học - Tân học là một mẫu hình tác giả nhà nho kiểu mới và họ có những đóng góp không nhỏ cho quá trình hình thành và phát triển của nền văn học Quốc ngữ giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tác giả Nho học - Tân học Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho sự hình thành và phát triển của văn học đương thời, đặc biệt cho sự duy trì và tiếp nối những thành tựu và ảnh hưởng của văn học quá khứ với nền văn học mới, trong một bối cảnh khi mà đa số người sáng tác đã quay lưng hoặc tìm cách xóa bỏ dấu vết của nền “cựu học”. Loại hình tác giả này, từ trước tới nay mới được các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ là những nhà văn riêng lẻ, độc lập, hoặc tìm hiểu họ trên những phương diện khác mà chưa phải với tư cách là một loại hình tác giả. Đôi khi những đặc điểm mang tính loại hình của họ như sự duy trì trạng thái tiếp nối truyền thống trên các phương diện như đề tài, chủ đề, cảm hứng tư tưởng hay những thủ pháp nghệ thuật, ngôn từ, cách xây dựng hình tượng nghệ thuật lại chỉ được coi là những hạn chế rơi rớt từ quá khứ. Những thành tựu của loại hình tác giả Nho học - Tân học ở nhiều trường hợp lại bộc lộ ngay trong sự thể hiện 1
  9. những vấn đề tưởng như đã cũ so với thời đại. Chính những thành tựu to lớn, cũng như những vấn đề còn để ngỏ của nghiên cứu văn học đầu thế kỷ XX đã gợi ý cho chúng tôi triển khai đề tài về các tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp (cũng như hạn chế) của họ cho sự hình thành và phát triển của văn học giai đoạn giao thời. 1.2. Lý do thực tiễn Các tác giả trên, cũng như văn học đầu thế kỷ XX là đối tượng nghiên cứu và giảng dạy của chúng tôi bấy lâu trong nhà trường đại học. Riêng sáng tác của Hồ Biểu Chánh, Tản Đà và Ngô Tất Tố đã từ lâu được đưa vào chương trình ngữ văn từ bậc trung học cơ sở đến bậc trung học phổ thông. Do vậy, đây là một đề tài rất thiết thực, giúp cho chúng tôi cơ hội được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các hiện tượng văn học quá khứ, nhất là văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Với những lí do khoa học và lý do thực tiễn trên đây, chúng tôi chọn đề tài “Tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX (qua một số tác giả tiêu biểu)” làm nội dung nghiên cứu trong luận án của mình. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng luận án lựa chọn nghiên cứu là loại hình tác giả Nho học – Tân học và đóng góp của họ đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX thông qua năm tác giả Nho học - Tân học tiêu biểu là: 1) Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947); 2) Hồ Biểu Chánh (1884-1958); 3) Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889- 1939); 4) Nguyễn Trọng Thuật (1883-1950) và 5) Ngô Tất Tố (1894-1954). Ngoài ra, luận án còn quan tâm đến các nhà văn đầu thế kỷ XX khác cùng loại hình hoặc có một số điểm tương đồng như Nguyễn Bá Học (1857-1921), Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941), Nguyễn Đôn Phục (1878-1954), Lê Hoằng Mưu (1879-1941) hay Bửu Đình (1898-1931)… 2.2. Phạm vi nghiên cứu - Trên thực tế, số lượng các tác giả Nho học - Tân học trong quy loại của chúng tôi khá nhiều song do khuôn khổ của luận án chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sâu về năm tác giả đã được chọn. Thứ tự xuất hiện theo thời gian của năm tác giả, về cơ bản cũng thể hiện được phần nào bước tiến, bước chuyển tiếp trên một số phương diện của loại hình tác giả này cả về quan niệm nghệ thuật và những thành tựu trong sáng tác. 2
  10. - Về hệ thống tác phẩm được khảo sát: chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát tất cả các cuốn tiểu thuyết của năm tác giả Nho học - Tân học trên đây. Các sáng tác ở các thể loại khác của họ, cũng như sáng tác của các nhà văn khác đầu thế kỷ XX sẽ là nguồn tư liệu để chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu, phân tích khi cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu loại hình tác giả Nho học -Tân học và loại hình tác phẩm (tiểu thuyết Quốc ngữ) của các tác giả này, chúng tôi hướng đến hai mục đích chính sau đây: - Nghiên cứu cơ sở hình thành và đặc điểm loại hình tác giả Nho học – Tân học Việt Nam đầu thế kỷ XX; - Nghiên cứu những đóng góp của loại hình tác giả Nho học – Tân học cho thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX từ tiếp cận thể loại trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tập trung tìm hiểu loại hình tác giả Nho học - Tân học giai đoạn giao thời đầu thế kỷ XX và các sáng tác của họ ở thể loại tiểu thuyết, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Lý giải nguyên nhân, điều kiện lịch sử - văn hóa, xã hội và văn học ở giai đoạn giao thời giữa hai thế kỷ đã góp phần hình thành nên loại hình tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp của họ cho sự phát triển văn học dân tộc. Đây sẽ là bối cảnh có ý nghĩa quan trọng, góp phần hình thành một kiểu loại nhà văn mới mang đặc trưng của giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thời kỳ, hai phạm trù văn học. Từ đó, luận án bước đầu nhận diện một số đặc điểm mang tính loại hình quy định đến sự lựa chọn cuộc đời, sự nghiệp, cũng như con đường mà các nhà văn đến với sáng tác tiểu thuyết Quốc ngữ; những đổi thay trong quan niệm văn học, quan niệm thẩm mỹ của họ cũng cho thấy sự khác biệt giữa tác giả Nho học - Tân học so với các kiểu loại tác giả khác đương thời. - Nhận diện các sáng tác tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học trên một số phương diện nội dung và nghệ thuật cơ bản: hệ thống đề tài - chủ đề, kết cấu cốt truyện; xây dựng nhân vật, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện nội dung nghiên cứu này, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: 3
  11. 4.1. Phương pháp loại hình học và nghiên cứu văn học theo thể loại Loại hình học văn học hướng tới việc xác định và chỉ ra những đặc điểm chung mang tính loại hình tác giả và thể loại tác phẩm văn học. Tuy nhiên, để tránh sơ lược hóa và khiên cưỡng vấn đề, trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, chúng tôi luôn dành sự quan tâm thỏa đáng đến tính đặc thù lịch sử - xã hội, tư tưởng - văn hóa cũng như sự khác biệt trong cá tính sáng tạo của từng tác giả thể loại tiểu thuyết quốc ngữ đầu thế kỷ XX.Bên cạnh đó,chúng tôi cũng luôn tuân thủ những định hướng mang tính phương pháp của việc nghiên cứu thể loại để có những nhìn nhận về các vấn đề của tác giả và tác phẩm tiểu thuyết quốc ngữ trong đặc trưng, nguyên tắc tổ chức của thể loại, có sự giao thoa, tiếp nhận kinh nghiệm nghệ thuật của các thể loại khác, nhất là những giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển. 4.2. Phương pháp tiếp cận tự sự học Thể loại tiểu thuyết vốn là một trong những thể loại mang đặc trưng cho loại hình tự sự. Vì thế, đặt vấn đề nghiên cứu loại hình tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp của họ đối với sự vận động và phát triển của tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX nên phương pháp tiếp cận tự sự học là một trong những phương pháp quan trọng được vận dụng trong luận án. Phương pháp tiếp cận tự sự học giúp cho chúng tôi tiến hành nghiên cứu những đặc điểm của thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ - một phương thức tự sự cỡ lớn đầu thế kỷ XX trên các nội dung như kết cấu cốt truyện, xây dựng nhân vật cũng như giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật. 4.3. Phương pháp hệ thống Ở cấp độ vĩ mô, đặt trong cái nhìn toàn diện của nền văn học dân tộc, phương pháp tiếp cận hệ thống giúp chúng tôi có cái nhìn ở hai chiều cạnh: một là nhìn nhận loại hình tác giả Nho học - Tân học trong tương quan với các loại hình tác giả nhà nho khác vốn đã được các nhà nghiên cứu lâu nay thừa nhận (như tác giả nhà nho hành đạo, tác giả nhà nho ẩn dật hay tác giả nhà nho tài tử); hai là nhìn nhận loại hình tác giả và loại hình tác phẩm (tiểu thuyết Quốc ngữ) của tác giả Nho học - Tân học như một hệ thống mang tính nội tại. Trong hệ thống lớn, loại hình tác giả cũng như loại hình tiểu thuyết Quốc ngữ sẽ mang những đặc điểm chung nhất định của lịch sử văn học dân tộc. Nhưng cũng đồng thời, trong hệ thống nội tại đó, mỗi một tác giả Nho học - Tân học cũng như mỗi một sáng tác của họ lại được nhìn nhận như những cá tính sáng tạo, những sinh mệnh 4
  12. nghệ thuật riêng, đồng thời tham gia kiến tạo những điểm chung của hệ thống đó. Giữa các tác giả Nho học - Tân học, cũng như giữa các tiểu thuyết Quốc ngữ của họ sẽ cùng mang những đặc điểm chung của loại hình tác giả, tác phẩm song vẫn có những điểm riêng ít nhiều độc đáo. Đây chính là điểm bổ sung cho tiếp cận từ lý thuyết cũng như phương pháp loại hình sẽ được chúng tôi bàn kĩ hơn ở Chương 1 của luận án. 4.4. Phương pháp so sánh – đối chiếu So sánh văn học có thể đồng thời vừa được hiểu là phương pháp, vừa được hiểu là thao tác tiếp cận trong nghiên cứu văn học. Vì thế, so sánh văn học đã phát huy hiệu quả đáng kể trong nghiên cứu của chúng tôi ở luận án này. Trong quá trình triển khai các nội dung, khi cần thiết chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp so sánh văn học để nhìn nhận tác giả Nho học - Tân học trong tương quan với loại hình nhà nho khác; so sánh các tác giả Nho học - Tân học và so sánh các tiểu thuyết Quốc ngữ của các tác giả Nho học - Tân học với nhau. Cũng đồng thời, trong một số trường hợp khác, khi cần thiết, chúng tôi cũng tiến hành so sánh các tiểu thuyết Quốc ngữ của cùng một tác giả Nho học - Tân học để thấy được quá trình vận động của phong cách nghệ thuật ở mỗi tác giả. Phương pháp và thao tác so sánh cùng đồng thời sẽ kết hợp với phương pháp và thao tác đối chiếu để từng bước nhận diện và luận giải thỏa đáng đặc điểm loại hình tác giả Nho học – Tân học trong tương quan với các loại hình tác giả khác; đặc điểm tiểu thuyết của họ với tiểu thuyết của các loại hình tác giả khác cùng thời kỳ. 4.5. Phương pháp nghiên cứu liên ngành Vận dụng phương pháp này cho phép chúng tôi nhìn nhận đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa Việt Nam bối cảnh giai đoạn giao thời. Phương pháp nghiên cứu liên ngành được vận dụng để tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa. Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi thấy được những nền tảng hình thành và quá trình vận động, phát triển của các tác giả Nho học - Tân học trong bối cảnh lịch sử, xã hội và tư tưởng, văn hóa lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, những nội dung được phản ánh trong thể loại tiểu thuyết của các tác giả Nho học - Tân học cũng đồng thời là sự phản ánh sinh động đời sống văn hóa lúc bấy giờ. Vì thế, việc tiếp cận tiểu thuyết của đội ngũ Nho học - Tân học từ góc nhìn liên ngành văn hóa – văn học sẽ giúp chúng tôi đưa ra những luận giải tường rõ hơn về nội dung cũng như nghệ thuật tác phẩm. 5
  13. Ngoài các phương pháp cơ bản trên, trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi còn vận dụng kết hợp một số thao tác nghiên cứu khác như phân tích - tổng hợp, thống kê - phân loại... 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Tìm hiểu đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp của họ cho sự hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết giai đoạn đầu thế kỷ XX, luận án sẽ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối hệ thống về loại hình tác giả và loại hình tác phẩm (tiểu thuyết Quốc ngữ) của các tác giả này trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn học dân tộc nói chung. 5.2. Trên cơ sở giới thuyết khái niệm, luận án đã bước đầu làm sáng tỏ điều kiện hình thành cũng như đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học trong mối tương quan với các loại hình tác giả khác trước đó cũng như các loại hình tác giả khác cùng thời gian xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. 5.3. Luận án đã đi sâu khảo sát, mô tả và luận giải các đặc điểm chính về nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX thông qua hệ thống đề tài - chủ đề, tổ chức kết cấu cốt truyện; xây dựng nhân vật; giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật ở giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. 5.4. Ngoài ra, qua kết quả nghiên cứu, luận án cũng hi vọng cung cấp và ứng dụng một hướng tiếp cận, đánh giá đối với một loại hình tác giả đặc biệt, bổ sung kiến thức cho việc tham khảo và nghiên cứu, giảng dạy về một số tác giả, tác phẩm của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận án được triển khai thành bốn chương như sau: - Chương 1: Cơ sở lý thuyết và tổng quan vấn đề nghiên cứu (31trang, từ trang 7 đến trang 37); - Chương 2: Điều kiện hình thành và đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học giai đoạn đầu thế kỉ XX (33 trang, từ trang 38 đến trang 70); - Chương 3: Tác giả Nho học - Tân học với tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX trên phương diện hệ thống đề tài - chủ đề và tổ chức kết cấu cốt truyện (33 trang, từ trang 71 đến trang 103); - Chương 4: Tác giả Nho học - Tân học với tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX trên phương diện xây dựng hệ thống nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ (47 trang, từ trang 104 đến trang 150). 6
  14. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Trong chương này, chúng thôi sẽ điểm qua một số cơ sở lý thuyết có liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, bao gồm lý thuyết về loại hình học văn học, lý thuyết tự sự và những công trình nghiên cứu đi trước có liên quan, làm cơ sở cho việc đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu tiếp theo. 1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1.1. Lý thuyết loại hình học văn học Trước khi có những giới thuyết khái quát về lý thuyết loại hình học văn học, trên cơ sở tham bác ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đưa ra cách hiểu về khái niệm loại hình và khái niệm loại hình tác giả như sau: Chữ loại hình (tiếng Anh và tiếng Pháp: type) cũng có nghĩa là kiểu, loại. Loại hình là tập hợp sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào đó, cùng có quan hệ cộng đồng về mặt giá trị. Khái niệm loại hình tác giả dùng để chỉ tập hợp những tác giả văn học có một số đặc điểm tương đồng về điều kiện hình thành, sự lựa chọn con đường lập nghiệp, sự hấp thu nền học vấn và các học thuyết tư tưởng – chính trị hay đạo đức xã hội; hệ thống đề tài - chủ đề trong sáng tác; hình tượng nghệ thuật, các vấn đề về thể loại và ngôn ngữ trong sáng tác… Dù sự rạch ròi loại hình tác giả ở đây không phải lúc nào cũng rành mạch như bản thân sự tồn tại vốn có của nó, song loại hình học vẫn có nhiệm vụ tối thượng trong việc khu biệt hoá, thành tố hoá họ như những đối tượng nghiên cứu đặc thù để từng bước nhận diện diện mạo, đặc điểm con người, văn chương cũng như vai trò của họ trong lịch sử văn học dân tộc ở một mức độ tương đối có thể chấp nhận được. Loại hình học (tiếng Anh: typology, tiếng Pháp: typologie) là khoa học nghiên cứu về loại hình nói chung. Đây vừa là một lý thuyết vừa là một phương pháp trong nghiên cứu văn học, vốn xuất phát từ rất sớm, ngay từ trong nền văn hóa cổ đại Hi Lạp - La Mã với cách phân chia văn học của Aristot. Tuy nhiên, nhắc đến lý thuyết loại hình học văn học, chúng ta phải kể đến thành tựu của các nhà nghiên cứu văn học Nga trước đây. Tên tuổi của một số nhà nghiên cứu tiên phong có thể nhắc đến như V. Propp, M.B. Khrapchenko hay B.L. Riptin… Ở Việt Nam, tư duy loại hình, 7
  15. phương pháp loại hình ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu chú ý. Trước hết phải kể tới một số công trình dịch thuật về vấn đề tư duy loại hình và phương pháp loại hình như: Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học [95] Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học [135]; Hình thái học truyện cổ tích [290]; Cấu trúc văn bản nghệ thuật [93], Thi pháp văn học Nga cổ [118]… Đây là những công trình khá tiêu biểu của một số học giả, nhà nghiên cứu uy tín trên thế giới tiếp cận văn học theo hướng loại hình và những công trình này khi được công bố bản tiếng Việt đã trở thành những sách công cụ hữu ích cho những ai quan tâm đến lĩnh vực chuyên ngành. Nhiều vấn đề đặt ra trong đó đã được vận dụng linh hoạt và hữu ích khi soi chiếu vào thực tiễn của nền văn học dân tộc. Hướng đến việc phân chia, phân loại các sự vật, hiện tượng, các vấn đề của văn học (trong đó có vấn đề về tác giả) để từ đó xác định vị trí, ý nghĩa, vai trò của nó trong một hệ thống, trong cấu trúc tổng thể cũng như nhận dạng được diện mạo và đặc điểm của cả một hệ thống chính là điểm nổi bật của lý thuyết loại hình học văn học. Các nhà nghiên cứu, bằng nhãn quan tư duy này đã tìm cách “rạch ròi hóa” các vấn đề, các hiện tượng của văn học dựa trên những tiêu chí, những cơ sở tương đối có thể chấp nhận. Từ đây, các nhà nghiên cứu đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến một bộ phận không nhỏ tác giả, tác phẩm trong đời sống văn chương dân tộc thời trung đại, cũng như thời cận hiện đại sau này. Về vấn đề tác giả, loại hình học đã giúp các nhà nghiên cứu đề xuất những tiêu chí xếp loại, xác định được đặc điểm của đội ngũ tác giả cũng như thời điểm hình thành và đóng góp của họ cho lịch sử văn học dân tộc. Kể từ Trương Tửu với trường hợp tác giả cụ thể là Nguyễn Công Trứ, việc ứng dụng lí thuyết loại hình học liên tục được kế thừa và tỏ ra ưu việt trong nghiên cứu đội ngũ tác giả trong văn học trung cận đại ở nước ta. Điều đó được thể hiện bằng hàng loạt công trình mang tính khái quát của Trần Đình Hượu như: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930 [90], Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại [88]… Có thể nói, bằng phương pháp loại hình, Trần Đình Hượu đã đề xuất một hướng nghiên cứu đầy tiềm năng cho văn học trung cận đại. Ông đã chỉ ra tính quy luật của đội ngũ tác giả nhà nho và mối quan hệ giữa loại hình tác giả nhà nho với văn chương Nho giáo thời trung cận đại. Việc phân loại mẫu hình tác giả nhà nho đã tạo tiền đề cơ sở để tiến hành nghiên cứu chuyên sâu và khu biệt được những nội dung tư tưởng cũng như đặc sắc nghệ thuật 8
  16. của các mẫu hình nhà nho thời trung đại. Đó là văn học nhà nho (qua Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Đào Tấn, Nguyễn Thông…); văn học nhà chí sĩ - kiểu nhà nho tiếp thu tư tưởng tư sản, tiên phong đi làm cách mạng (qua Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, đặc biệt qua Phan Bội Châu…); văn học nhà nho tài tử trong xã hội tư sản (qua Tản Đà); văn học giai đoạn giao thời (qua sáng tác của nhiều kiểu nhà nho trong bối cảnh chuyển hướng từ văn học Hán - Nôm sang văn học bằng chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX); văn học hiện đại qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông nhìn từ góc độ tính liên tục của lịch sử (qua trường hợp Tự lực văn đoàn)… Tiếp nối Trần Đình Hượu là hàng loạt công trình nghiên cứu lấy lí thuyết loại hình làm cơ sở để triển khai và tạo được dấu ấn trong trường phái lí thuyết loại hình ở Việt Nam. Tiêu biểu nhất là công trình Loại hình học tác giả văn học - Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam của Trần Ngọc Vương [293]. Trong công trình này, ông đã phân loại mẫu hình nhà nho trong văn học Việt Nam thời trung đại thành ba loại: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử. Công trình đã mở ra tính ứng dụng trong việc nghiên cứu loại hình tác giả cũng như những đặc trưng văn học của từng loại hình tác giả. Công trình đã tạo bước ngoặt và cổ vũ cho việc ứng dụng lí thuyết loại hình vào nghiên cứu văn học Việt Nam. Tiếp đó là hàng loạt những công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu vào từng loại hình tác giả như Nguyễn Hữu Sơn với nghiên cứu về đội ngũ tác giả Thiền sư trong Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh [189], Lê Văn Tấn nghiên cứu về loại hình nhà nho ẩn dật và đóng góp của họ đối với sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam [216]... Về loại hình học tác phẩm, đa số các công trình nghiên cứu về đội ngũ tác giả cũng dành khá nhiều công phu trong việc nghiên cứu sáng tác của từng nhóm tác giả để tìm ra những nét đặc trưng và có tính khu biệt trong sáng tác của họ. Ngoài ra, lí thuyết loại hình còn được ứng dụng để nghiên cứu từng loại hình hay thể loại của văn học Việt Nam như Đặc điểm văn học trung đại Việt Nam: Những vấn đề văn xuôi tự sự của Nguyễn Đăng Na [39], Thơ Nôm Đường luật của Lã Nhâm Thìn [235], Ngâm khúc: quá trình hình thành, phát triển và đặc trưng thể loại của Ngô Văn Đức [55], Văn học trào phúng Việt Nam thời trung đại của Trần Thị Hoa Lê [112], Loại hình văn học trung đại Việt Nam của Biện Minh Điền [45]… Những công trình trên đây giúp chúng tôi hiểu một cách thấu đáo hơn về lý thuyết cũng như phương pháp loại hình trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là cách thức 9
  17. lựa chọn đối tượng và vận dụng lý thuyết này trong những trường hợp cụ thể.Trên thực tế, việc nghiên cứu lịch sử văn học không thể không chú ý đến vấn đề hệ thống các loại hình, loại thể của văn học. Khi tư duy nghiên cứu hướng tới yêu cầu tổng hợp, phân loại các hiện tượng văn học dựa trên những hệ tiêu chí khả dĩ có thể khái quát và thâu tóm thành một “cộng đồng thẩm mỹ” nhất định, nói lên tư cách tồn tại của chúng, khi ấy loại hình học văn học ra đời. Vận dụng lý thuyết loại hình học vào đề tài nghiên cứu được chúng tôi cụ thể hóa qua những vấn đề sau: - Về vấn đề tác giả: Loại hình học cho phép chúng tôi bước đầu nhận diện đội ngũ tác giả Nho học - Tân học. Đây là những tác giả có những đặc điểm chung ở sự tiếp nhận cả hai mô hình giáo dục là mô hình giáo dục theo kiểu Nho học và mô hình giáo dục Tây học. Họ là những trí thức sinh ra trong bối cảnh giao thoa, chuyển giao giữa hai thế kỉ, phải chứng kiến sự giao tranh giữa văn hóa truyền thống với văn hóa phương Tây hiện đại; - Về vấn đề tác phẩm: Vận dụng lý thuyết loại hình để nghiên cứu thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX qua sáng tác của các tác giả này. Đây vốn là một thể loại có quy mô phản ánh hiện thực tương đối rộng lớn trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật: + Ở phương diện thể hiện nội dung tư tưởng: lý thuyết loại hình học giúp chúng tôi chỉ ra được sự tương đồng trong việc nhà văn thể hiện mối quan tâm đến hệ thống các đề tài, chủ đề cũng như hệ thống hình tượng nghệ thuật trung tâm trong sáng tác của tác giả Nho học - Tân học. Mặc dù có những điểm khác nhau mang cá tính sáng tạo riêng nhưng về cơ bản, sự lặp lại mang tính phổ biến ở một số đề tài - chủ đề và hình tượng nghệ thuật trung tâm cho thấy sự gặp gỡ của các tác giả về nhu cầu phản ánh hiện thực cũng như những thông điệp nhân sinh khác mà những tác giả Nho học - Tân học muốn gửi gắm tới người đọc. + Ở phương diện thể hiện một số đặc điểm nghệ thuật: lý thuyết loại hình giúp chúng tôi tổng hợp và từ đó sẽ chỉ ra sự tương đồng về mô hình tổ chức kết cấu cốt truyện, về giọng điệu nghệ thuật cũng như ngôn ngữ nghệ thuật tiểu thuyết Quốc ngữ của các tác giả Nho học - Tân học. Trong quá trình vận dụng lí thuyết, như các nhà nghiên cứu đi trước đã nhắc đến, việc tuyệt đối hóa hay cực đoan ở bất kể chiều hướng nào đều sẽ dẫn đến những kết luận không thỏa đáng, không phù hợp với thực tiễn của quá trình vận động, phát triển văn học 10
  18. dân tộc. Vì thế, trong quá trình vận dụng lí thuyết loại hình, chúng tôi sẽ có sự kết hợp với những lý thuyết khác nhằm lý giải các vấn đề về loại hình tác giả và loại hình tác phẩm của tác giả Nho học - Tân học một cách xác đáng nhất. Trên thực tế, loại hình tác giả Nho học - Tân học, thoạt nhìn có vẻ thuần nhất song sự khác biệt ở từng tác giả lại khá rõ nét. Đó cũng chính là định hướng cho chúng tôi trong quá trình luận giải cần có sự kết hợp giữa những phân tích đặc điểm chung và những khác biệt ở từng tác giả. Như vậy, sự xuất hiện của hàng loạt công trình nghiên cứu lấy lí thuyết loại hình làm nền tảng đã cho thấy việc tiếp nhận lí thuyết này ở Việt Nam khá sôi nổi. Sau gần một thế kỉ xuất hiện ở Việt Nam, có thể nói lí thuyết loại hình học đã trở thành công cụ nghiên cứu hữu hiệu cho những ai quan tâm đến văn học Việt Nam, nhất là những tiếp cận từ phương diện loại hình học tác giả văn học. Tính đến nay, lý thuyết loại hình học đã trở nên khá quen thuộc, so với một số lý thuyết nghiên cứu văn học khác, nó không bị cũ đi và vẫn luôn hữu ích cho nhiều nhà nghiên cứu. Có thể khẳng định, ở Việt Nam đã hình thành nên một xu hướng nghiên cứu văn học theo lý thuyết loại hình học là trên thực tiễn như vậy. 1.1.2. Lý thuyết tự sự học Trước hết, cần nhắc đến thuật ngữ tự sự học được đề cập đầu tiên là nhà nghiên cứu T.Todorov vào năm 1969 để gọi tên lĩnh vực nghiên cứu lấy đối tượng căn bản là văn bản tác phẩm tự sự, với phạm vi là đặc điểm cấu trúc văn bản, đặc điểm trần thuật văn bản. Bản thân, khái niệm tự sự vốn có nội dung khá rộng, nó không chỉ dùng để chỉ một nguyên tắc trong kể chuyện tác phẩm văn học mà còn chỉ phương thức biểu đạt của các loại hình nghệ thuật khác như hội họa, kiến trúc, điêu khắc hay âm nhạc... Còn ở phạm vi nghĩa hẹp, sau đề xuất của T.Todorov, các nhà nghiên cứu, lí luận văn học dùng thuật ngữ tự sự để chỉ tự sự văn học, tự sự trong văn bản tác phẩm văn học. Tự sự văn học ở đây sẽ gắn chặt với việc nhà văn kể về một câu chuyện, một hiện tượng của đời sống xã hội, hay tư tưởng, tinh thần nào đó cho người nghe bằng những phương thức riêng hướng đến một hiệu quả thẩm mĩ cao nhất. Cùng một nội dung phản ánh, cùng một câu chuyện song cách tự sự, nghệ thuật tự sự khác nhau sẽ mang lại những hiệu ứng khác nhau với người tiếp nhận. Tự sự có trong các thể loại như tiểu thuyết, truyện dài, truyện ngắn... và cũng có trong cả một số thể loại khác như thơ trữ tình hay kịch (chúng ta vẫn nói tới cái gọi là tự sự trong thơ hay kể chuyện trong thơ chẳng hạn). Có điều, với tư cách là một phương thức tái 11
  19. hiện, phản ảnh đời sống thông qua các biến cố, các sự kiện, tình tiết, suy nghĩ, tâm trạng... của nhân vật thì tự sự vẫn được vận dụng soi chiếu phổ biến hơn cả. Khái niệm tự sự (narratology) vốn có thể được hiểu: hoặc là lý thuyết nghiên cứu hình thức, quy luật vận động, tính chất của các tác phẩm tự sự với các chất liệu khác nhau, nghiên cứu năng lực tự sự của chủ thể sản sinh và đối tượng tiếp nhận tác phẩm tự sự. Các bình diện mà nó tìm hiểu bao gồm nội dung của câu chuyện ra sao và hình thức trần thuật của nó như thế nào, trong mối quan hệ của chúng với nhau; tự sự cũng được hiểu là một biểu đạt văn tự đối với sự kiện câu chuyện (nghĩa là theo hướng này, người nghiên cứu sẽ ít quan tâm đến bản thân câu chuyện mà quan tâm chủ yếu là diễn ngôn tự sự. Như thế, trong hướng tập trung thứ nhất của tự sự học, người nghiên cứu sẽ quan tâm đến tác phẩm tự sư trong tính trọn vẹn của chỉnh thể tác phẩm. Các phương diện của nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm tự sự sẽ được quan tâm luận giải thỏa đáng trong mối quan hệ qua lại giữa chúng. Còn trong hướng tập trung thứ hai, nhà nghiên cứu sẽ hạn định sự quan tâm của mình vào biểu đạt ngôn từ (tức sẽ đi sâu vào lời văn) mà bỏ qua các yếu tố thuộc về nội dung tác phẩm, thậm chỉ bỏ qua nhiều phương diện khác của nghệ thuật tác phẩm. Dù sao thì việc cực đoan một trong hai chiều hướng này đều khiến cho việc nghiên cứu với những trường hợp cụ thể chưa thật thỏa đáng. Tự sự học, thực chất là khoa học nghiên cứu cấu trúc văn bản tự sự và những vấn đề liên quan như chúng tôi đã nhắc phía trên. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, nhìn chung, tự sự học tìm cách phân biệt giữa việc kể “cái gì” và “kể như thế nào”, và từ đó làm nổi bật vai trò của chủ thể trong trần thuật. Lý thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của cấu trúc trần thuật. “Nhà văn sẽ không bao giờ hiện diện trong tiểu thuyết như là một người kể, người phát ngôn, mà chỉ xuất hiện như là một tác giả hàm ẩn, một cái Tôi thứ hai của nhà văn, với tư cách là người mang hệ thống quan niệm và giá trị trong tác phẩm. Tác giả thực sự xuất hiện chỉ như người ghi, người sao lục lời kể hoặc là người nghe trộm người kể. Người trần thuật là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của người trần thuật đó mà sản phẩm là văn bản tự sự. Người trần thuật trong văn bản văn học là một hiện tượng nghệ thuật phức tạp nhất, mà ngôi kể chỉ là hình thức biểu hiện ước lệ...” [202, tr.16-17]. Lí thuyết cũng như quá trình vận dụng lí thuyết tự sự học vào quá trình nghiên cứu thực thể văn học dân tộc nhiều năm qua đã cho ra đời khá nhiều các công trình nghiên cứu có giá trị. Điều đó cho thấy sự khả dĩ của lí thuyết này trong khoa 12
  20. nghiên cứu văn học và xét cho đến cùng, tự sự không chỉ là kĩ thuật đơn thuần mà rõ ràng, ẩn chứa sau những kĩ thuật hình thức chính là truyền thống văn hóa, nếp nghĩ, nếp sống của dân tộc qua văn chương. Những thành quả của tự sự trong văn học ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào cũng chính là sự kế thừa truyền thống cũng như những tiếp thu của đương thời. Đó là lí do mà trong quá trình luận giải những nội dung nghiên cứu trong luận án này, chúng tôi sẽ luôn cố gắng chỉ ra những tiếp thu của tác giả Nho học - Tân học đối với truyền thống tự sự trung đại Việt Nam cũng như tiếp thu truyền thống tự sự phương Tây đầu thế kỷ XX. Như vậy, trong luận án này, lí thuyết tự sự học sẽ giúp chúng tôi tập trung giải quyết những đặc điểm đặc sắc trong phương thức nghệ thuật loại hình tiểu thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học như tổ chức kết cấu cốt truyện, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. 1.2. GIỚI THUYẾT TÁC GIẢ NHO HỌC – TÂN HỌC Các tác giả được chúng tôi khảo sát trong luận án này, vốn cũng có thể duy danh là tác giả nhà nho tân học. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, nếu gọi họ là nhà nho tân học thì các tác giả này, trước hết phải là nhà nho đã. Trong bối cảnh lịch sử xã hội, cũng như tư tưởng văn hóa Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khái niệm “nhà nho” đã dần mờ nhạt. Việc gọi những tác giả này là nhà nho có thể đã không còn chính xác nữa. Đó là lí do chúng tôi mạnh dạn sử dụng thuật ngữ “Tác giả Nho học - Tân học” để chỉ loại tác giả chịu ảnh hưởng của hai hệ tư tưởng là Nho học và Tân học mà chúng tôi sẽ bàn kĩ hơn dưới đây. Thuật ngữ Nho học - Tân học, theo chúng tôi là có thể ít nhiều tránh được sự chủ quan trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án này. Nhà nho (cũng có thể viết là nhà Nho - chữ Nho viết hoa) chỉ những người theo học khoa cử chữ Hán một cách trường quy lẫn phi trường quy, chịu ảnh hưởng của hệ thống giáo dục, của hệ tư tưởng, giáo lý Nho giáo. Những khái niệm như nhà nho, Nho học, Nho gia hay Nho giáo đều có liên quan mật thiết đến ý thức hệ, tư tưởng, giáo lý, giáo dục Nho giáo thời trung đại. Nhà nho là một loại hình nhân cách của Nho giáo, mang ý nghĩa khu vực bởi sự lan tỏa ảnh hưởng của nó từ Trung Hoa đến các nước lân cận như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Những nhà nho này khi sáng tác thì văn học của họ thuộc bộ phận văn chương Nho giáo (hay văn học mang 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2