intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn: Thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Sonnet Shakespeare từ góc nhìn ký hiệu học văn hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:212

31
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án so sánh thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare từ góc nhìn kí hiệu học văn hóa, vận dụng các phương pháp của kí hiệu học để chỉ ra các lớp nghĩa tiềm ẩn trong văn bản thơ, so sánh để thấy được nét chung và riêng của chúng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn: Thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Sonnet Shakespeare từ góc nhìn ký hiệu học văn hóa

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH -------------------------- Nguyễn Thị Minh THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE TỪ GÓC NHÌN KÝ HIỆU HỌC VĂN HÓA LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN (Chuyên ngành: Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam)
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH -------------------------- Nguyễn Thị Minh THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE TỪ GÓC NHÌN KÝ HIỆU HỌC VĂN HÓA Chuyên ngành: Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN (Chuyên ngành : Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam ) NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ THU YẾN TPHCM, NĂM 2019 Tên thành phố - Năm
  3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn PGS.TS. Lê Thu Yến, người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận án này, cũng là người cho tôi học được đức khiêm tốn, nhẫn nại của một người làm khoa học, người mang đến cho tôi cảm giác ấm áp của sự sẻ chia mỗi khi tôi nản chí. Xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ và làm điểm tựa tinh thần cho tôi trong suốt quá trình làm luận án. TPHCM, ngày 2 tháng 3 năm 2019 Tác giả luận án Nguyễn Thị Minh
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả được trình bày trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong một công trình nào khác. TPHCM, ngày 2 tháng 3 năm 2019 Tác giả luận án Nguyễn Thị Minh
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 CHƯƠNG I: KÝ HIỆU HỌC VĂN HÓA VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU CHỦ THỂ TÍNH TRONG VĂN HỌC THUỘC TRÀO LƯU NHÂN VĂN CHỦ NGHĨA ......................................................................................................... 28 1.1. Ký hiệu học và ký hiệu học văn hóa với việc nghiên cứu văn học ... 28 1.1.1. Ký hiệu học .................................................................................. 28 1.1.2. Ký hiệu học văn hóa .................................................................... 34 1.1.3. Nghiên cứu văn học từ kí hiệu học văn hóa - một vài định hướng cơ bản ..................................................................................................... 50 1.2. Chủ thể tính trong văn học trào lưu nhân văn chủ nghĩa ................... 68 1.2.1. Khái niệm chủ thể tính................................................................. 68 1.2.2. Chủ nghĩa nhân văn cùng quan niệm về chủ thể thời Nguyễn Du và Shakespeare....................................................................................... 74 CHƯƠNG 2: CHỦ THỂ NỘI QUAN: VẤN ĐỀ THÂN XÁC .................. 80 2.1. Ý thức về chữ thân ............................................................................. 80 2.1.1. Thân xác con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare ........................................................................................... 80 2.1.2. Mối quan hệ giữa thân xác và tinh thần....................................... 87 2.2. Các kí hiệu của thân xác .................................................................... 99 2.2.1. Tóc trong thơ chữ Hán Nguyễn Du ............................................. 99 2.2.2. Mắt trong thơ sonnet Shakespeare ............................................. 116 CHƯƠNG 3: CHỦ THỂ TƯƠNG CHIẾU: NHỮNG SỨC CĂNG TRONG BẢN CHẤT NHỊ NGUYÊN CỦA CON NGƯỜI .................................... 131
  6. 3.1. Chủ thể trong quan hệ với cuộc đời ................................................. 131 3.1.1. Phân biệt “tôi” với “thiên hạ” .................................................... 131 3.1.2. Hướng về cuộc đời trần thế bằng tinh thần hoài nghi .............. 146 3.2. Chủ thể trong quan hệ với chính mình ........................................... 156 3.2.1. Hành động soi gương ................................................................. 156 3.2.2. Suy tư về văn chương ................................................................ 165 KẾT LUẬN ................................................................................................... 191 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 197
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tiến trình văn hóa, văn học của mỗi dân tộc đến một thời điểm nhất định sẽ kết tinh ở những cá nhân đặc biệt, những con người không chỉ cất lên tiếng nói riêng tư của trải nghiệm bản thân mà còn đại diện cho cả thế hệ mình. Nói đến văn học Việt Nam, người ta không thể không nhắc đến Nguyễn Du, người đi vào huyền thoại với “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” đã làm đẹp thêm cho ngôn ngữ dân tộc, đi vào cả câu ca điệu hò của người bình dân lẫn những suy tư sâu sắc nhất của người trí thức, cũng như nhắc đến văn học Anh là người ta nói đến Shakespeare, bậc thầy ngôn ngữ mang đến rất nhiều cách diễn đạt mới mẻ cho không chỉ thời đại mình mà cả nhiều thế hệ sau. Tính đại diện của Nguyễn Du và Shakespeare cho nền văn hóa dân tộc nơi họ sinh ra là một điều có lẽ không cần bàn cãi. Song loài người – loài sinh vật có khả năng tạo ra ý nghĩa và sống trong thế giới ý nghĩa bên cạnh ý thức về tính khu vực, tính dân tộc, còn không ngừng băn khoăn về tính nhân loại. Và có lẽ đó là lý do vì sao văn học so sánh bước vào thế giới của diễn ngôn khoa học, tạo điều kiện cho người nghiên cứu có thể đặt những tiếng nói tương đương ở một phương diện nào đó trong các tương quan đa dạng. Văn học so sánh, khởi đầu bằng nghiên cứu ảnh hưởng của Pháp, tiếp nối và mở rộng bằng nghiên cứu song hành của Mỹ, tiếp tục với các nghiên cứu tổng hợp theo tinh thần chống lại “thuyết lấy châu Âu làm trung tâm” (eurocentrism hay Western-centrism) của phái Liên Xô, đang ngày càng phát triển, hòa vào dòng chảy của nghiên cứu văn hóa. Đại diện tiêu biểu của trường phái Liên Xô là Konrad. Bằng các nghiên cứu của mình, ông đã khẳng định Phục Hưng là một hiện tượng mang tính toàn thế giới chứ không riêng gì ở châu Âu. Mặc dù người viết không hoàn toàn đứng về phía những người
  8. 2 cho rằng ở Việt Nam cũng có một thời kì Phục Hưng theo đúng nghĩa như những gì đã diễn ra ở phương Tây thế kỉ 15-17, song có thể nói các phân tích của Konrad đã tạo một tiền đề nhất định cho sự so sánh Nguyễn Du và Shakespeare: con người sống trong điều kiện có sự xuất hiện của đô thị ngay trong lòng xã hội phong kiến, khi các giá trị văn hóa, tư tưởng cũ đang rạn nứt và đổ vỡ, tiếng nói của họ dễ có những điểm chung đặc biệt với tư cách một chủ thể. 1.2. Trong bối cảnh hiện tại, nghiên cứu văn học Việt Nam rất cần mở rộng, hòa nhập với xu thế chung của thế giới. Trong đó, nghiên cứu văn học từ kí hiệu học là một phương pháp nền tảng nhưng chưa thực sự được quan tâm chú ý, chưa có nhiều công trình nghiên cứu có hiệu quả. Vậy ký hiệu học có thể đóng góp gì cho so sánh văn học? So sánh văn học từ ký hiệu học sẽ thấy một vấn đề: các chất liệu âm thanh thì ngôn ngữ nào cũng có, nhưng việc tổ chức các chất liệu ấy thì khác nhau. Các chất liệu tư tưởng, cảm xúc thì cộng đồng nào cũng có, nhưng tổ chức chúng lại khác nhau. Cần phân biệt giữa sự tương đồng trên bề mặt với sự tương đồng ở bề sâu. Chẳng hạn, sự tương đồng về chủ đề trong sáng tác của một số tác giả trên thực tế lại có nghĩa rất khác nhau theo ký hiệu học. Ngược lại, nhìn vấn đề ở bề sâu, người ta đôi khi lại phát hiện ra những nét tương đồng mà nhìn trên bề mặt chẳng có gì liên quan đến nhau. So sánh văn học từ góc nhìn ký hiệu học mở ra khả năng nhìn vào bề sâu của các đối tượng mà thoạt tiên rất khác biệt. Do vậy, so sánh văn học từ ký hiệu học sẽ giúp tránh cái nhìn giản lược trên bề mặt, tìm hiểu vấn đề ở bề sâu và hứa hẹn phát hiện những bản chất ngầm ẩn của hiện tượng. 1.3. Người viết có cơ duyên làm việc với đối tượng từ luận văn thạc sĩ, xuất phát từ một so sánh về cảm thức thời gian ở hai tác giả. Việc dấn bước tiếp trên con đường đã hé lộ tia sáng dù nhỏ bé mong manh là một thôi thúc
  9. 3 thường trực của đam mê gắn liền với công việc của người nghiên cứu và giảng dạy. Con đường ấy nhiều chông gai song cũng đầy vẫy gọi. Nhiều năm đọc thơ chữ Hán, đọc và dịch sonnet, người viết cũng cảm thấy ký hiệu học là một phương pháp khả hữu vì trước hết nó giúp người đọc thâm nhập vào văn bản, độc lập với các yếu tố ngoài văn bản. Trên đây là những lý do thúc đẩy chúng tôi chọn “Thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare từ góc nhìn ký hiệu học văn hóa” làm đề tài cho luận án của mình. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm của ông (chủ yếu là “Truyện Kiều”) đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Ở Việt Nam, tuy chưa có ngành “Kiều học” hay “Nguyễn Du học” như “Shakespeare học” ở Anh, song sự quan tâm đến Nguyễn Du hầu như chưa bao giờ giảm sút, biểu hiện cụ thể của điều này là các hội thảo khoa học về Nguyễn Du, các luận văn, luận án về Nguyễn Du vẫn tiếp tục đều đều xuất hiện qua các năm. Song một thực tế cần phải thừa nhận là có sự chênh lệch rất lớn về số lượng, chất lượng các công trình nghiên cứu thơ chữ Hán so với “Truyện Kiều”. Nếu theo đúng nhận định của Mai Quốc Liên trong lời giới thiệu “Nguyễn Du toàn tập, tập 1”: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc”* thì sự chênh lệch này rõ ràng là một khiếm khuyết cần phải khắc phục. Về các nguyên nhân dẫn đến thực tế này, chúng tôi sẽ bàn đến trong một bài viết khác, ở đây * Lời nói đầu của Mai Quốc Liên trong “Nguyễn Du toàn tập, tập 1 – Thơ chữ Hán, NXB Văn học, 1996, trang 7”.
  10. 4 chỉ ghi nhận điều này trước khi đi vào cụ thể các nghiên cứu về thơ chữ Hán. Để thuận tiện cho việc tìm hiểu, chúng tôi phân tài liệu về thơ chữ Hán Nguyễn Du làm 2 dạng: dạng tài liệu phân tích một vấn đề trong sáng tác Nguyễn Du nói chung hoặc nói về các vấn đề khác nhưng có đề cập đến thơ chữ Hán; dạng tài liệu lấy thơ chữ Hán làm đối tượng nghiên cứu chính. Dạng tài liệu phân tích một vấn đề trong sáng tác Nguyễn Du nói chung hoặc nói về các vấn đề khác nhưng có nhắc đến thơ chữ Hán Về dạng tài liệu thứ nhất này, ý kiến đầu tiên có thể kể đến là của Nguyễn Đăng Thục trong cuốn Thế giới thi ca Nguyễn Du. Tác giả đã gợi lại không khí xã hội thời Lê mạt Nguyễn sơ qua các dẫn chứng lấy từ Hoàng Lê nhất thống chí, từ đó phân tích tâm hồn Nguyễn Du thể hiện qua các sáng tác của ông. Khi nhắc đến thơ chữ Hán, tác giả chủ yếu gắn nó với tâm Thiền như một biện pháp giải thoát của nhà thơ khỏi tình cảnh bế tắc. Đây cũng là một cách tiếp cận khá lạ so với đương thời, và bằng các nhận định của mình, Nguyễn Đăng Thục cũng phần nào hé lộ tư tưởng văn hóa trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Trong “Chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du”, Đỗ Đức Dục khi tìm hiểu tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du đã đặt ra vấn đề “để xác định được đầy đủ thế giới quan của nhà thơ, cần phải xem xét toàn bộ tác phẩm của ông, tức là cả thơ chữ Hán và “Văn tế chiêu hồn”, trong đó tập thơ “Bắc hành tạp lục” có một vị trí đặc biệt quan trọng”*. Tìm hiểu “Truyện Kiều” và thơ chữ Hán, ông chỉ ra “…có thể xem Nguyễn Du như người mở đầu cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam. Chủ nghĩa hiện thực ở bước đầu đó còn có những hạn chế và mang những đặc thù do điều kiện xã hội – lịch sử và do thế giới quan của bản thân nhà thơ: nó chưa hoàn toàn thoát ra khỏi ràng buộc của mĩ học phong kiến, nó chưa đạt tới điển hình xã hội mà mới dừng * Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, trang 57.
  11. 5 lại ở điển hình tâm lí, nó cũng chịu ảnh hưởng phong cách chung của thời đại là phong cách trữ tình. Cho nên có thể gọi đó là chủ nghĩa hiện thực tâm lí – trữ tình tạo nên cái âm hưởng chủ đạo cho cả nền văn học đương thời”*. Tác giả chú ý đến các thay đổi trong tư tưởng Nguyễn Du qua các tập thơ chữ Hán “…rõ ràng có sự khác biệt giữa hai tập đầu là “Thanh hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm” với tập cuối là “Bắc hành tạp lục”. Trong hai tập trên, nói chung, hầu hết chỉ là những bài thơ trữ tình nói lên tâm sự riêng của Nguyễn Du trong cảnh đầu bạc, ốm đau, lưu lạc, xa anh em, nhớ quê hương, và nhất là cái tâm tư u uất khôn nguôi của nhà thơ, của một con người có tài năng mà cảm thấy mình rất bất lực, không làm được việc gì cho đời. Chỉ đến “Bắc hành tạp lục” mới xuất hiện rất nhiều bài thơ kí sự, hoặc nửa trữ tình nửa kí sự trong đó Nguyễn Du nói lên dõng dạc, đanh thép ý kiến của mình phê phán, đánh giá những nhân vật, sự kiện, những vấn đề chính trị, xã hội quá khứ cũng như đương thời”†. Ông nhấn mạnh tư tưởng “tài mệnh tương đố” ở Nguyễn Du, xem xét các tác phẩm của Nguyễn Du như một quá trình dưới tác động của hiện thực. Vấn đề có hay không nên dùng thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực” để gọi tên một xu hướng trong văn học trung đại còn gây nhiều tranh luận, song tác giả cũng đã thể hiện một tinh thần làm việc nghiêm túc trong thế đối thoại với những người nghiên cứu cùng thời và trước đó. Đây là một điều đáng ghi nhận. Trong cuốn Loại hình học tác giả văn học: Nhà Nho tài tử và văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Vương xếp Nguyễn Du vào loại hình nhà Nho tài tử cùng với Phạm Thái, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà… và lí giải sự xuất hiện của loại hình tác giả này trong một thời điểm đặc biệt: cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX khi mọi thay đổi to lớn diễn ra trên tất cả các phương diện: quan niệm văn học, tư tưởng thẩm mĩ, hệ thống chủ * Đỗ Đức Dục, tlđd, trang 104. † Đỗ Đức Dục, tlđd, trang 112.
  12. 6 đề đề tài, hình tượng văn học trung tâm, hệ thống thể loại, ngôn ngữ văn học. Tác giả lấy Nguyễn Du (bên cạnh Cao Bá Quát) là điển hình tiêu biểu cho kiểu “nhà nho coi văn chương (hiểu theo nghĩa sáng tác văn học) là sự nghiệp chính của đời mình” (108 - 109). Ông có cách phân tích cụ thể, thấu đáo “Tuy làm quan đến bậc đại thần, Nguyễn Du vốn xuất chính bằng một chức quan võ nhỏ. Ông không có cái vinh quang đạt được bằng con đường quen thuộc là đỗ đạt cao trong các kí thi, sự nghiệp cai trị, hoạn lộ cũng không có thành tựu gì nổi bật. Không thấy ông trăn trở nhiều theo hướng “kinh bang tế thế” hay “trí quân trạch dân”. Là “trai thời loạn” như những chàng trai trẻ tuổi nhiều tham vọng của thời đại mình, ông cũng ít nhiều tự vấn, tự thán về “chí làm trai” nhưng nổi bật hơn cả, rõ rệt hơn cả, ở ông, lại là ý thức về tài năng văn chương và cùng với nó, là khả năng sống chết với tài năng đó. Thơ chữ Hán của ông phản ánh khá rõ rệt điều đó”*. Trần Ngọc Vương là người đi tiếp con đường của Trần Đình Hượu, đặt văn học Việt Nam trong chỉnh thể văn hóa. Ông đã làm rõ một khái niệm do thầy mình đặt ra – khái niệm “nhà Nho tài tử” và phần nào chứng minh đây là một hiện tượng mang tính quy luật của cả vùng văn hóa Đông Á chịu ảnh hưởng Nho giáo. Cách đặt vấn đề của ông rất thú vị và cho chúng tôi nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, khi nói về sự vận động, phát triển của con người trong thơ, đã xuất phát từ một đặc điểm văn hóa của thời đại “đô thị phát triển, dù là đô thị theo kiểu phương Đông, gắn với trung tâm chính trị và đời sống kinh tế nông nghiệp, thì cũng tạo một môi trường cho ý thức thị dân phát triển, làm nảy sinh tư tưởng tự do, hưởng lạc. Đến lượt mình tư tưởng ấy lại làm thay đổi diện mạo * Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học – Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB GD, trang 110.
  13. 7 văn học”* từ đó lí giải sự thay đổi quan niệm về con người cá nhân. Tác giả lấy Nguyễn Du làm một trường hợp tiêu biểu “…cùng với ý thức về quyền sống, ý thức về số phận con người được nêu cao. Những nỗi buồn, nỗi oán hận trong các số phận oan trái trở thành niềm day dứt, thổn thức của nhà thơ. Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh, khóc ca nữ La Thành, khóc người đánh đàn ở Thăng Long… Cả mấy tập thơ chữ Hán của ông đều là tiếng khóc than cho đời người bị phôi pha, tan nát, oan uổng”†. Các nhận định trên là những gợi ý cho chúng tôi trong việc nghiên cứu Nguyễn Du từ góc nhìn văn hóa, cần luôn đặt nhà thơ trong dòng chảy của văn học dân tộc có tính đến các đặc điểm riêng biệt của từng thời kì. Trong một đề tài khá hiếm phân tích Nguyễn Du từ cái nhìn so sánh, luận án tiến sĩ Nguyễn Du và Đỗ Phủ - những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật, tác giả Hoàng Trọng Quyền đã so sánh Nguyễn Du – Đỗ Phủ trên các phương diện quan niệm sáng tác, cảm quan hiện thực, tư tưởng nhân văn, cảm hứng chủ đạo để thấy “hành trình tư tưởng thơ của các tác giả là con đường tiến đến bản chất hiện thực (…). Trong diễn tiến tư tưởng nghệ thuật của các nhà thơ, các yếu tố tích cực của Nho, Phật, Lão có những ảnh hưởng nhất định nhưng chính hiện thực cuộc đời mới là yếu tố đóng vai trò quyết định”‡. Tác giả cũng lí giải về những điểm tương đồng và về tư tưởng nghệ thuật của hai nhà thơ lớn này, có phần là do ảnh hưởng của Đỗ Phủ đến Nguyễn Du, phần do tương đồng về thời đại, hoàn cảnh sống cũng như khí chất “đồng thanh tương ứng”, “đồng bệnh tương liên” giữa hai người. Các dẫn chứng dùng để phân tích phần lớn là thơ chữ Hán, song * Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 188. † Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB GD, trang 190. ‡ Hoàng Trọng Quyền (2005), Nguyễn Du và Đỗ Phủ - những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm TPHCM, trang 201.
  14. 8 Hoàng Trọng Quyền chủ yếu dùng bản dịch thơ. Do đặc trưng của đề tài, ông không đối chiếu với nguyên tác và cũng ít quan tâm đến nghệ thuật ngôn từ thơ. Bên cạnh đó, có một dạng tài liệu thường lấy chất liệu từ thơ chữ Hán, đó là các sách viết về tiểu sử Nguyễn Du. Dạng sách này thời gian gần đây có xu hướng tăng lên. Các cuốn tuy viết đã lâu song viết kĩ và có nhiều giá trị tham khảo, thường được nhiều người nhắc đến là “Nguyễn Du – người tình và Nguyễn Du – tình người” của Bùi Văn Nguyên, “Nguyễn Du” của Nguyễn Lộc. Các tác giả văn học trung đại Việt Nam, cho đến tận Tản Đà ở cuối thế kỉ XIX, thường có ý thức phân biệt rất rõ hai mảng sáng tác của mình: một loại được họ gọi là “văn chơi” và loại kia là “văn vị đời”, loại thứ nhất viết bằng chữ Nôm và loại thứ hai viết bằng chữ Hán. Khi cần viết về những vấn đề nôm na bình dị trong cuộc sống, họ chọn ngay chữ Nôm – thứ chữ viết dân tộc mộc mạc, có thể biểu đạt trực tiếp suy nghĩ, tình cảm con người. Song khi cần kí thác tâm sự, nói những vấn đề nghiêm túc, dường như thứ chữ Hán trang trọng cùng các thể loại được quy định chặt chẽ mới giúp họ vừa thổ lộ tâm tình, vừa khéo léo kín đáo giấu chúng đi dưới điệp trùng quy phạm, ước lệ. Nguyễn Du cũng không nằm ngoài quy luật này, ông nói về “Truyện Kiều”: “Lời quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh”, song trong thơ chữ Hán ông lại rất chân thành thể hiện con người thật của mình: con người hùng tâm tráng chí khi còn trẻ, con người đau đớn nỗi đau thất bại, tuyệt vọng trong hành trình sống. Có lẽ thấu hiểu điều này, các nhà nghiên cứu khi viết tiểu sử Nguyễn Du khi cần lấy dẫn chứng cho các dẫn dắt của mình thuyết phục, có chiều sâu, họ đều sử dụng thơ chữ Hán để minh họa. Điều này một lần nữa khẳng định mối quan hệ của thơ chữ Hán với các chặng đường đời, các tâm sự sâu kín của nhà thơ. Cũng theo xu hướng nghiên cứu văn chương gắn với tiểu sử này là luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hà
  15. 9 “Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán”. Tác giả lần theo con đường làm quan của Nguyễn Du để tìm hiểu tâm sự của nhà thơ về thời thế, về bản thân, về phận người. Tất nhiên, ta cần phân biệt giữa con người đời thực với nhân vật trữ tình trong thơ, với hình tượng tác giả - người kể. Song các tư liệu trên cũng đã cung cấp nhiều cứ liệu quan trọng giúp khớp nối các yếu tố tiểu sử giúp hiểu đúng, hiểu sâu hơn văn bản. Dạng tài liệu lấy thơ chữ Hán làm đối tượng nghiên cứu chính Về dạng tài liệu thứ hai, chúng tôi lại chia ra các bài viết lẻ và các sách chuyên luận. Về các bài viết, có thể kể đến: Thơ chữ Hán Nguyễn Du và tâm sự của nhà thơ của Nguyễn Lộc, Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán của Hoài Thanh, Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán của Xuân Diệu, Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán của Nguyễn Huệ Chi, Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán của Trương Chính, Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán của Đào Xuân Quý, Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Mai Quốc Liên… Các bài viết đều đưa ra những nhận định khái quát về thơ chữ Hán Nguyễn Du, khẳng định bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán là một cứ liệu quan trọng nếu muốn thực sự đi sâu vào thế giới tâm hồn, thấu hiểu những suy tư kín đáo của Nguyễn Du. Các tác giả đã phần nào chỉ ra, lí giải thực chất cái gọi là “tâm sự hoài Lê” cùng thái độ chính trị phức tạp trong thơ cụ Nguyễn Tiên Điền. Dù có khi bất đồng ở chỗ này chỗ khác, các ý kiến trên thống nhất với nhau ở một điểm: khẳng định giá trị hiện thực, nhân đạo cùng nét đặc sắc về mặt nghệ thuật của thơ chữ Hán, xem đây như một kho báu còn chưa được khai thác hết và vẫn hứa hẹn những điều bất ngờ. Hai vấn đề đặc biệt được các tác giả quan tâm gồm thứ nhất là cái tôi trữ tình của nhà thơ và thứ hai là các nhân vật được miêu tả trong thơ chữ Hán. Cả hai đối tượng này lại được các nhà nghiên cứu soi chiếu trong mối
  16. 10 quan hệ với thời đại Nguyễn Du sống, thời mà theo Nguyễn Huệ Chi “là một thời kì giằng co quyết liệt giữa nhiều xu thế chính trị khác nhau. Trong đời sống tư tưởng của xã hội, từng mảng nhỏ của hệ thống giáo lí phong kiến cơ hồ bị bung ra, bị lật xáo đến gốc, tạo nên không ít những cuộc khủng hoảng tinh thần. Chiến thắng hiển hách của nông dân khởi nghĩa, rồi sự phục thù của những thế lực phản động, sức vang dội của những yêu cầu tự do và công lý rồi việc lập trở lại một trật tự phong kiến đen tối vào bậc nhất… Tất cả những điều trái ngược đó khiến cho không khí thời đại càng thêm phức tạp, với những màu sắc phấn khởi và tuyệt vọng, lạc quan và bi quan, lẫn lộn”*. Các nhà nghiên cứu lưu tâm chỉ ra các kiểu nhân vật được Nguyễn Du miêu tả trong thơ chữ Hán: người có tài có tình mà bất hạnh, người trung nghĩa bị gian thần hãm hại, người dân nghèo khổ hạnh đáng thương… Có giá trị tham khảo đối với chúng tôi hơn cả là các khía cạnh trong con người Nguyễn Du qua thơ chữ Hán. Theo Nguyễn Huệ Chi, “Nguyễn Du không phải con người hành động mà là con người tư tưởng”† còn theo Xuân Diệu “Tập thơ chữ Hán đựng đầy cái uất ức của Tố Như; như trên tôi đã nói: thơ trong này để lại cảm giác chung một buổi chiều thu tê tái. Buổi chiều đó là xã hội phong kiến ở Việt Nam, ở Trung Quốc, phản ánh trong tâm hồn Nguyễn Du”‡. Trương Chính thì nhấn mạnh sự phức tạp trong tâm sự Nguyễn Du và đề xuất phải xem xét tâm sự ấy từ nhiều khía cạnh, nhất là từ thơ chữ Hán. Ngoài ra có một số bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du trở thành đối tượng được quan tâm trong các nghiên cứu phê bình, bình luận như các bài “Sở kiến hành”, “Long Thành cầm giả ca”, “Phản chiêu hồn”, “Độc Tiểu Thanh kí”… Các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu các tác phẩm này thường nghiên cứu từ góc * Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn và giới thiệu (1992), Nguyễn Du, NXB Tổng hợp Khánh Hòa, trang 112. † Vũ Tiến Quỳnh, tlđd, trang 115. ‡ Nhiều tác giả (2011), Nguyễn Du tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, Hà Nội, trang 177.
  17. 11 độ cảm hứng sáng tác, chỉ ra lòng thương mình, thương người thương đời của nhà thơ. Đặc biệt, riêng tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là một trong các bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du. Đáng chú ý là đã có nhiều người khám phá vẻ đẹp ngôn từ, chữ nghĩa, thể loại của bài thơ này và có nhiều nhận xét có giá trị. Về các sách chuyên luận, có thể nói đến thời điểm hiện tại, công trình công phu, chi tiết về các khía cạnh nghệ thuật thơ chữ Hán phải kể đến là luận án tiến sĩ Ngữ Văn của Lê Thu Yến: Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. Trên cơ sở xử lí những vấn đề liên quan đến văn bản thơ, tác giả xem xét thơ chữ Hán Nguyễn Du từ góc độ thi pháp trên các phương diện: hình tượng nghệ thuật về con người, thời gian, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ. Tác giả, qua quá trình khái quát nghệ thuật đã đi đến định danh các kiểu hình tượng con người trong thơ Nguyễn Du theo những gì bộc lộ ra từ tâm hồn họ: con người lãng mạn, con người lo âu, con người đau khổ; gọi tên các kiểu thời gian: thời gian úa tàn, thời gian kí ức, thời gian khoảnh khắc; dựng lại các mô hình không gian: không gian nhỏ hẹp, không gian rộng lớn. Trong phần ngôn ngữ, tác giả phân tích các kiểu câu, các loại từ được sử dụng trong thơ chữ Hán để thấy nét riêng của Nguyễn Du. Công trình gần đây nhất về thơ chữ Hán là cuốn Đọc và dịch thơ chữ Hán của Thảo Nguyên. Bên cạnh các bài dịch thơ, tác giả cũng đưa ra một số lời bình chú có phần nghiệp dư nhưng nếu chú ý ta sẽ thu được một vài suy ngẫm thú vị. Như vậy, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về Nguyễn Du có thể nói khá nhiều, song mối quan tâm chính của các tác giả là “Truyện Kiều”, mối quan tâm dành cho thơ chữ Hán giữ vị trí khiêm tốn hơn. Trong các công trình nghiên cứu về thơ chữ Hán, các tác giả chủ yếu nghiên cứu khía cạnh nội dung rồi quy chiếu đến hiện thực huyền thoại hoặc theo lối miêu tả, phẩm
  18. 12 bình, cảm thán. Nghiên cứu thơ chữ Hán từ góc nhìn ngôn ngữ - kí hiệu học hầu như rất hiếm. Đặc biệt, nhiều tác giả có xu hướng đồng nhất chủ thể trữ tình – một hình tượng được sáng tạo bằng ngôn ngữ trong thơ và Nguyễn Du với tư cách là một nhân vật lịch sử. Nhiều tác giả chủ yếu nhìn ngôn ngữ của Nguyễn Du ở tầng thứ nhất là ngôn ngữ tự nhiên mà chưa đi sâu vào tổ chức của nó ở tầng thứ hai với tư cách là ngôn ngữ thứ cấp, ngôn ngữ được mã hóa nhiều lần, xếp chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên. Đây là điều mà chúng tôi sẽ cố gắng thực hiện trong luận án. 2.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ sonnet Shakespeare Chúng tôi cũng phân chia tài liệu về thơ sonnet Shakespeare thành hai loại: tài liệu bằng tiếng Việt và tài liệu bằng tiếng Anh. Các tài liệu bằng tiếng Việt rất ít ỏi và chủ yếu mang tính chất giới thiệu, nên chúng tôi cũng không bàn đến vấn đề phương pháp. Riêng đối với mảng tài liệu bằng tiếng Anh, vì khá phong phú và có nhiều bài viết chuyên sâu, chúng tôi cũng sẽ đề cập đến hai vấn đề: nội dung văn hóa và phương pháp nghiên cứu sonnet Shakespeare. Tài liệu bằng tiếng Việt Sonnet là thể thơ rất phổ biến ở phương Tây nhưng ở Việt Nam, thể thơ này chưa thực sự được biết đến một cách rộng rãi. Shakespeare nổi tiếng ở Việt Nam từ cách đây hơn một thế kỉ, tuy nhiên người ta biết đến ông chủ yếu với tư cách là nhà viết kịch. Đến nay hầu hết các tác phẩm kịch của ông đã được dịch ra tiếng Việt, còn sonnet Shakespeare thì vẫn chưa có bản dịch nghĩa nào mà chủ yếu là dịch thơ*. Tài liệu bằng tiếng Việt về thơ sonnet Shakespeare do vậy càng hiếm hơn nữa. Tài liệu sớm nhất mà chúng tôi tìm được là cuốn Khái niệm về ngôn ngữ và thi pháp Anh của tác giả Đỗ Khánh Hoan – Trưởng ban văn hóa Anh – Mĩ Đại học Văn khoa Sài Gòn, xuất bản lần đầu năm 1971, được sửa chữa và in lần thứ hai năm 1974. Trong cuốn * Tuyển tập Shakespeare in năm 2006 cũng chỉ có kịch.
  19. 13 sách này, tác giả đã phân tích quá trình lịch sử của ngôn ngữ Anh, nêu lên một cách khá đầy đủ các hình thức thi ca Anh, trong đó có sonnet mà ông gọi là thể “thập tứ hàng thi”. Khi nhận xét sơ bộ tiến trình phát triển của thể sonnet, ông có nhiều nhận định đáng chú ý: “Thập tứ hàng thi (Anh) kiểu Shakespeare và thập tứ hàng thi kiểu Milton là những biến đổi đầy tính cách thí nghiệm đã được công nhận, bởi vì có nhiều bài thơ giá trị đã được sáng tác theo khuôn khổ này; tuy nhiên, nếu không có Shakespeare và Milton chắc uy tín của chúng chưa hẳn lộng lẫy như thế”*. Tác giả cũng khẳng định: “Cũng như trong các kịch phẩm, qua tập thập tứ hàng thi gồm 154 bài, Shakespeare tỏ ra hiểu cuộc đời, hiểu trái tim con người hơn ai hết. Thêm vào đó ông đã sử dụng một thứ ngôn từ thật thi vị đơn giản nhưng trau chuốt. Không kể 37 kịch phẩm bất hủ, riêng thi phẩm này đã đủ đưa Shakespeare lên hàng thi hào của Anh quốc”†. Do giới hạn của một cuốn sách khái quát về một đối tượng thuộc phạm vi rộng, tác giả không đưa ra dẫn chứng, cũng không phân tích, song các nhận xét của ông đã giúp chúng tôi rất nhiều trong bước đầu tìm hiểu sonnet Shakespeare. Tài liệu thứ hai có thể kể đến là cuốn W. Secxpia thơ xônê chọn lọc của dịch giả Thái Bá Tân. Tác giả đã chọn dịch 77 bài sonnet tiêu biểu của Shakespeare kèm theo lời giới thiệu nhiều tâm huyết. Trong phần này, Thái Bá Tân có giới thiệu sơ bộ về hình thức, bố cục và những yêu cầu nghiêm nhặt đã trở thành bắt buộc của thể sonnet cùng quá trình phát triển của nó và đi vào sonnet Shakespeare : “Nhìn chung, mặc dù chủ đề xen kẽ nhau khá phức tạp, đại khái ta có thể chia toàn tập 154 bài xônê của Shakespeare thành hai phần lớn – một phần nói về người bạn, và phần kia nói về người yêu. Cụ thể hơn, có thể chia thành từng nhóm như sau: - Từ xônê 1 đến xônê 26: ca ngợi vẻ đẹp của bạn, thuyết phục bạn lấy vợ, có con để truyền lại vẻ đẹp ấy cho các thế hệ sau * Đỗ Khánh Hoan (1974), Khái niệm về ngôn ngữ và thi pháp Anh, Nxb Ba Vì, trang 117. † Đỗ Khánh Hoan, tlđd, trang 119.
  20. 14 - Từ xônê 27 đến xônê 32: nỗi buồn xa cách - Từ xônê 33 đến xônê 42: những nghi ngờ và rạn nứt đầu tiên trong tình bạn - Từ xônê 43 đến xônê 75: nỗi buồn và lo sợ - Từ xônê 76 đến xônê 96: lòng ghen tuông và đố kị đối với các nhà thơ khác - Từ xônê 97 đến xônê 99: mùa đông của sự chia li - Từ xônê 100 đến xônê 126: niềm vui của tình bạn được khôi phục - Từ xônê 127 đến xônê 127 đến xônê 152: tình cảm mâu thuẫn của nhà thơ đối với người yêu: “the Dark Lady” - Hai bài 153 và 154 là hai xônê kết, ít liên quan đến toàn bộ “cốt truyện”, chủ yếu phỏng theo các bài xônê cổ điển có trước”*. Nhà nghiên cứu cũng chia sẻ những khó khăn trong quá trình đến với tác phẩm để thấy: “Cho đến nay chưa hề có bản dịch thơ Sêxpia nào ra tiếng Việt, nghĩa là chúng ta hoàn toàn chưa biết đến một Sêxpia khác cũng vĩ đại như Sêxpia kịch, đó là Sêxpia thơ trữ tình. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản nhất là ở chỗ dịch thơ xônê của Sêxpia rất khó, hầu như vượt ra ngoài khả năng của người dịch, ngay cả những người dịch tài năng và kinh nghiệm.”†. Có thể nói trong tình hình tư liệu tiếng Việt còn ít ỏi, cuốn sách của Thái Bá Tân cùng các bản dịch thơ của ông là một nỗ lực đáng quý đưa thơ sonnet đến với độc giả Việt Nam. Tài liệu bằng tiếng Anh Đối với dạng tài liệu này, chúng tôi cũng chia thành hai dạng: các bài viết lẻ đăng trên tạp chí và các sách chuyên khảo. Về dạng tài liệu thứ nhất, chúng tôi thu thập từ hai nguồn: tạp chí chuyên về Shakespeare của “Hiệp hội Shakespeare Anh” (the British * Thái Bá Tân (dịch) (1995), W. Sexpia – Thơ xônê chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội, trang 14-15. † Thái Bá Tân, tlđd, trang 17.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2