intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:214

43
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 4 chương trình bày các nội dung: Xã hội – Văn hoá – Tư tưởng Đại Việt thế kỷ XVIII và tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh; trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh nhìn từ nội dung tư tưởng; trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh nhìn từ hình thức nghệ thuật; vị trí và đóng góp của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------- TRẦN HOÀNG HÙNG TRÚC LÂM TÔNG CHỈ NGUYÊN THANH TRONG VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 62.22.34.01 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------- TRẦN HOÀNG HÙNG TRÚC LÂM TÔNG CHỈ NGUYÊN THANH TRONG VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 62.22.34.01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN CÔNG LÝ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được trình bày trong luận án này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận án, Trần Hoàng Hùng
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Ý nghĩa khoa học của đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 14 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 15 5. Đóng góp mới của luận án 15 6. Giới thiệu kết cấu luận án 16 CHƯƠNNG 1. XÃ HỘI - VĂN HOÁ - TƯ TƯỞNG ĐẠI VIỆT THẾ KỈ XVIII VÀ TÁC PHẨM TRÚC LÂM TÔNG CHỈ NGUYÊN THANH 17 1.1. Xã hội - văn hoá - tư tưởng Đại Việt thế kỉ XVIII 17 1.1.1. Sự sụp đổ của xã hội phong kiến và bi kịch lịch sử của dân tộc 17 1.1.2. Văn hoá - tư tưởng Đại Việt thế kỉ XVIII 22 1.2. Tác giả của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh 28 1.2.1. Ngô Thì Nhậm 28 1.2.2. Phan Huy Ích 34 1.2.3. Ngô Thì Hoàng 35 1.2.4. Vũ Trinh 37 1.2.5. Nguyễn Đăng Sở 37 1.2.6. Nguyễn Đàm 39 1.3. Về văn bản tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh 40 1.3.1. Nhan đề tác phẩm 40 1.3.2. Giới thiệu tác phẩm 41 1.3.3. So sánh các bản dịch phần chính văn của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh42 ]Tiểu kết 65 CHƯƠNG 2. TRÚC LÂM TÔNG CHỈ NGUYÊN THANH NHÌN TỪ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG 66 2.1. Tư tưởng Phật giáo Đại thừa Thiền tông trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh 66
  5. 2.2. Sự dung hợp các hệ tư tưởng trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh 84 2.3. Tinh thần nhập thế yêu nước trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh 103 Tiểu kết 112 CHƯƠNG 3. TRÚC LÂM TÔNG CHỈ NGUYÊN THANH NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT 113 3.1. Thể loại tác phẩm 113 3.1.1. Sự kế thừa thể loại luận thuyết triết lý tôn giáo của văn học Phật giáo đời Trần 113 3.1.2. Bút pháp luận thuyết bậc thầy trong tác phẩm 118 3.2. Kết cấu tác phẩm 125 3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm 127 3.3.1. Thiền ngữ 130 3.3.2. Ngôn ngữ biểu tượng 136 3.3.3. Sử dụng điển cổ 138 3.3.4. Những biện pháp tu từ 141 Tiểu kết 147 CHƯƠNG 4. TỪ KINH VIÊN GIÁC ĐẾN TRÚC LÂM TÔNG CHỈ NGUYÊN THANH VÀ VỊ TRÍ CỦA TÁC PHẨM TRONG VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI 149 4.1. Ảnh hưởng của kinh Viên giác trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh 149 4.1.1. Về Kinh Viên giác 149 4.1.2. Về mối quan hệ số chương trong hai tác phẩm 151 4.1.3. Dấu ấn của kinh Viên giác trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh 152 4.2. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh với sự kế thừa và phát triển tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm đời Trần 163 4.2.1. Vài nét về Thiền phái Trúc Lâm đời Trần 163
  6. 4.2.2. Sự kế thừa và phát triển tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh 171 4.3. Vị trí của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại 178 Tiểu kết 184 KẾT LUẬN 185 DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 191 TÀI LIỆU THAM KHẢO 193
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Văn hoá là cái hồn của dân tộc, là bảo vật vô giá và đặc thù để tạo nên bản sắc riêng của dân tộc; là động lực để đất nước phát triển kinh tế, xã hội. Thực tế lịch sử đã chứng minh chính nền văn hoá đặc sắc của cư dân lúa nước phương Nam đã thổi một luồng sinh khí vào hồn dân tộc Việt tạo nên sức sống vô cùng mãnh liệt và bất diệt, dù cho bao nhiêu thế lực ngoại xâm muốn thống trị và đồng hoá nhưng vẫn không làm gì được. Văn học là xương sống của văn hoá, là tấm gương phản chiếu trung thực và đầy đủ mọi khía cạnh vật chất, tinh thần của đời sống xã hội. Hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay việc kế thừa, gìn giữ và phát huy văn hoá truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu văn hoá của quá khứ, của nhân loại để làm phong phú thêm cho văn hoá nước nhà là việc làm vô cùng bức thiết. Bởi lẽ cùng với sự bùng nổ của khoa học công nghệ thông tin và xu hướng toàn cầu hoá, vấn đề xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập, tự chủ, phát triển - bền vững hiện không chỉ là vấn đề biên cương, lãnh thổ, hải phận, không phận… mà quan trọng hơn hết chính là được xác định ở đặc trưng văn hoá mang bản sắc dân tộc. Nếu ở thời Lý - Trần với sự phát triển cực thịnh của Phật giáo mang bản sắc văn hoá Đại Việt, góp phần làm nên hào khí cùng chất dân chủ - rộng mở của thời đại, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, thì về sau, nhất là từ giữa thế kỷ XIV trở đi, khi thiền sư Huyền Quang Trúc Lâm đệ tam Tổ lãnh đạo giáo hội thì Phật giáo hồi này không còn thịnh đạt như trước. Phật giáo đã nhường chính trường cho Nho giáo và rút về nơi thiền môn, tự viện. Từ đó đến cuối thế kỷ XVIII và về sau cũng vậy, Phật giáo chỉ ảnh hưởng sâu rộng trong nhân gian, trong đời sống tâm linh của mỗi cá nhân con người, chứ không tham gia chính quyền như trước. Thế nhưng lúc này, có một hiện tượng văn hoá nổi bật, góp một tiếng nói mới cho văn học Việt Nam nói chung và cho bộ phận văn học Phật giáo thời trung đại nói riêng, đó là tiếng nói của một số nhà Nho uyên thâm Nho - Lão; hiểu sâu Thiền - Phật, lòng mộ đạo Phật, có thực hành Thiền quán, sống nếp sống Thiền và đã viết một tác phẩm luận thuyết triết lý: Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh thể hiện sự dung hợp tư tưởng Tam giáo. Tìm hiểu tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh cũng không ngoài việc nghiên cứu những giá trị văn hoá tinh thần
  8. 2 truyền thống của cha ông cùng bản sắc văn hoá tư tưởng của dân tộc. Đó cũng là cách “ôn cố tri tân” (học cũ biết mới), “học xưa vì nay”, nhất là trong thời đại mở cửa hội nhập hôm nay. 1.2. Các bậc tiên Nho ở thế kỷ XVIII, XIX và đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu ở nửa sau thế kỷ XX và gần đây đã bàn nhiều về cuộc đời, về tư tưởng và thơ văn của Ngô Thì Nhậm hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, nhưng hiện chưa có một công trình nào tập trung tìm hiểu nghiên cứu toàn diện và khảo sát đầy đủ, chuyên sâu về tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, nhất là đặt nó trong tiến trình phát triển của văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại như đề tài luận án này. Có thể nói đây là một đề tài mới và khó, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh được viết bằng chữ Hán, dưới ánh sáng của tư tưởng và mỹ học Thiền mà các tác giả của nó lại là những nhân vật đặc biệt: nhà Nho - Thiền sư - Thi sĩ, nên việc tìm hiểu giá trị của tác phẩm này là khó khăn và phức tạp: phải hiểu Hán học; phải thông tư tưởng Phật giáo, Thiền học, mà Phật - Thiền Đại Việt có sự dung hợp tư tưởng tam giáo, và đặc biệt là, muốn thực hiện thành công đề tài, người viết phải đích thân trải nghiệm vào cảnh giới Thiền định thì mới mong giải mã được một cách chính xác nội dung tư tưởng của tác phẩm. Thật may mắn là người viết luận án này thân ở cửa Thiền, tu học và thực hành Thiền định đã hơn hai chục năm; có cơ hội được tiếp xúc và nghiên cứu Thiền học, Hán học gần hai mươi năm; giảng dạy chữ Hán và tiếng Hoa trên năm năm; đặc biệt là từ thuở nhỏ bản thân đã rất thích và học thuộc làu không ít những tác phẩm thơ văn mang đậm chất Thiền và giàu tính nhân văn của bộ phận văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Luận án đặt tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong tiến trình phát triển của bộ phận văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại, do vậy, luận án không thể không nêu lại những thành tựu sưu tầm văn bản văn học Phật giáo Việt Nam, những thành tựu nghiên cứu về văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại (với hai thời đại: Lý - Trần, Lê - Nguyễn) của các nhà nghiên cứu từ trước đến nay, trong đó trọng tâm là tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. 2.1. Thành tựu về văn bản học và nghiên cứu văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại Trước khi luận thuyết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh ra đời, thì văn học Phật giáo đã có nhiều tác phẩm có giá trị. Thế kỷ thứ II có Lý hoặc luận của Mâu Bác,
  9. 3 một tác phẩm luận thuyết nổi tiếng của Phật giáo vùng Đông Á, cắm cái mốc khởi đầu cho văn học Phật giáo Việt Nam; thế kỷ thứ III có Lục độ tập kinh cùng một số tác phẩm khác của Khương Tăng Hội; thế kỷ thứ V có cuộc tranh luận về Phật pháp giữa hai vị thiền sư là Đạo Cao và Pháp Minh với sứ quân Lý Miễu thông qua Sáu bức thư; từ thế kỷ thứ VI đến đến đầu thế kỷ thứ X có những thi kệ của các vị thiền sư: Pháp Hiền, Đại Thừa Đăng, Cảm Thành, Thiện Hội, Vân Phong, La Quý An, Định Hương, v.v.. Thời Lý - Trần (thế kỷ X - XIV) có những tác phẩm: Thiền uyển tập anh ngữ lục, Thánh đăng ngữ lục, Tam Tổ thực lục… chép hành trạng của các vị thiền sư, trong đó có thi kệ, nên những tác phẩm ấy không những có giá trị tư tưởng mà còn có giá trị thi ca rất lớn. Đặc biệt Khóa hư lục của Trần Thái Tông và Thượng sĩ ngữ lục của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung, có thể nói là hai tác phẩm vừa có giá trị văn chương lại vừa có giá trị tư tưởng Thiền mang bản sắc độc đáo của Đại Việt. Ngoài ra, cần phải kể thơ văn của các vị vua chúa quý tộc quan lại thể hiện tư tưởng Thiền, mang cảm quan Thiền đạo v.v.. Những tác phẩm văn học Phật giáo thời Lý - Trần đã được các nhà nghiên cứu ở Viện Văn học sưu tầm, dịch thuật và công bố tương đối đầy đủ trong bộ tuyển tập đồ sộ Thơ văn Lý - Trần ba tập, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, 1979, 1988. Thời Lê - Nguyễn (thế kỷ XV-XIX) có một số thi phẩm mang cảm hứng Thiền hoặc thể hiện Thiền ý của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, v.v.. Đóng vai trò chủ đạo của bộ phận văn học này vẫn là những tác phẩm của các vị thiền sư như Chân Nguyên, Hương Hải, Toàn Nhật, Liễu Quán, Nguyên Thiều, Phúc Điền, v.v.. Những văn bản văn học Phật giáo vừa nêu đã được các vị thiền sư của phái Trúc Lâm sưu tầm, khắc bản rồi in ấn vào các thế kỷ: XVII, XVIII và XIX. Sau này, những tác phẩm của các vị thiền sư vừa nêu đã được Việt dịch có kèm nguyên tác chữ Hán mà người có đóng góp nhiều nhất phải kể đến những công trình nghiên cứu và dịch thuật của Lê Mạnh Thát. Cho nên, có thể khẳng định dòng chảy của văn học Phật giáo là liên tục và xuyên suốt trong lịch sử văn học Việt Nam, là một bộ phận không thể tách rời của văn học Việt Nam. Riêng nghiên cứu về tác gia tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại thì trước đây đã được các nhà nghiên cứu trực tiếp hay gián tiếp giới thiệu vài đoạn hoặc nhắc qua sơ lược vài dòng trong các bộ văn học sử, chẳng hạn trên miền
  10. 4 Bắc có: Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi (1942); Văn học đời Lý và Văn học đời Trần của Ngô Tất Tố (1942); Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm (1943); Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, Bùi Văn Nguyên chủ biên (1961); Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, Lê Trí Viễn chủ biên (1961); Văn học cổ Việt Nam, 2 tập, Đinh Gia Khánh chủ biên (1964); Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XVIII, 2 tập, Đinh Gia Khánh chủ biên, (1977, 1978); Văn học Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, 2 tập, Nguyễn Lộc, (1976, 1978), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII, Bùi Văn Nguyên chủ biên (1989). Ở miền Nam có: Văn học sử Việt Nam của Lê Văn Siêu (1956); Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ, tập 1: Văn học lịch triều - Hán văn; tập 2: Văn học lịch triều - Việt văn, (1961-1965); Việt Nam văn học giảng bình của Phạm Văn Diêu (1960), Hai trăm năm văn học đời Lý và Văn học Trần - Hồ của Phạm Văn Diêu, in rônêô, bài giảng tại Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm Sài Gòn niên khóa 1971-1972 v.v.. Những công trình nghiên cứu về Phật giáo sử, về tư tưởng Thiền Phật, trong đó có đề cập văn học Phật giáo của các nhà nghiên cứu như của Trần Văn Giáp: Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIIe siècle (BEFEO, Hà Nội, 1932); của Mật Thể: Việt Nam Phật giáo sử lược (1943); một loạt công trình nghiên cứu của Nguyễn Đăng Thục xuất bản trước năm 1975: Thiền học Việt Nam (1967), Lịch sử tư tưởng Việt Nam (1967), Lịch sử triết học Đông phương (tb 1968), Thiền học Trần Thái Tông (1971), Phật giáo Việt Nam (1974) và các bài viết đăng trên Tạp chí Tư tưởng số 2 và 4-1972, số 4 và 6-1972. Qua những công trình trên, Nguyễn Đăng Thục đã chỉ ra những nét đặc thù của Thiền học Việt Nam: mô hình tổ chức, đường lối hoạt động, phương thức tu trì… có những đóng góp lớn trong việc phục hưng văn hóa Đại Việt. Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) trong bộ Việt Nam Phật giáo sử luận, 3 tập, Lá Bối, SG, 1973, đã nêu lên cốt lõi tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần thông qua thi, kệ, ngữ lục, luận thuyết trong chương viết về Phật giáo đời Trần; giới thiệu nội dung đặc sắc của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm ở chương viết về Phật giáo cuối thời Lê trung hưng. Những công trình của Lê Mạnh Thát: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, 3 tập (bản in ronéo 1974, xuất bản 1999, 2001, 2002); Khương Tăng Hội toàn tập (1975); Tuyển tập Chân Nguyên thiền sư (2 tập, in ronéo 1978); Nghiên cứu về Mâu Tử (1982); Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh (1999); Toàn tập Minh Châu Hương Hải (2000);
  11. 5 Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài (2 tập, 2005); Trần Thái Tông toàn tập (2006); Trần Nhân Tông toàn tập (2006)… Công trình của Viện Triết học: Lịch sử Phật giáo Việt Nam (1988) do Nguyễn Tài Thư chủ biên. Đặc biệt những công trình của Thích Thanh Từ như Tham đồ hiển quyết và thi tụng các thiền sư đời Lý đã chỉ ra nét đặc sắc tư tưởng Thiền học Việt Nam qua hai dòng Thiền Tỳ ni đa lưu chi và Vô Ngôn Thông có chép trong sách Thiền uyển tập anh ngữ lục; Thánh đăng lục giảng giải, tác giả đã trình bày quan điểm tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm hay giải thích ý chỉ của Trúc Lâm sơ Tổ, hoặc nhận xét về hồn thơ, về chất Thiền độc đáo, thấm đẫm tinh thần dân tộc trong thơ các vị vua Trần; Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải, tác giả đã giảng giải yếu chỉ tư tưởng thiền trong từng văn bản thơ văn. ngữ lục của Tuệ Trung Thượng sĩ. Công trình tập thể do Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh chủ biên: Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam là sự tập hợp 34 bài nghiên cứu từ Hội thảo khoa học về Tuệ Trung Thượng sĩ mà Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh cùng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đã tổ chức vào năm 1993. Bên cạnh, cần phải kể đến những công trình tập thể như của Viện Sử học: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần (1981) với 17 bài viết về ba vấn đề lớn của thời đại này: Hình thái kinh tế, Thể chế chính trị và kết cấu đẳng cấp, Văn hóa và tư tưởng; của Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam: Thiền học đời Trần (1995) với 28 bài viết của các nhà nghiên cứu; của Nguyễn Hùng Hậu: Lược khảo tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam (1997); của Trương Văn Chung: Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm (1997); và Kỷ yếu Hội thảo Khoa học kỷ niệm 700 năm (1308- 2008) ngày Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn: “Đức vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông: cuộc đời và sự nghiệp” với 81 bài viết của các nhà nghiên cứu, do Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức tại Quảng Ninh ngày 26-11-2008. Những bài giới thiệu và dịch thơ văn Lý - Trần, trong đó có văn học Phật giáo, của các nhà nghiên cứu đã công bố trên các tạp chí từ trước năm 1945 như: Đinh Văn Chấp, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Ngô Tất Tố đã dịch thơ văn đời Lý, đời Trần công bố trên tạp chí Nam Phong nhiều số liền, để sau này các nhà nghiên cứu ở Viện Văn học kế thừa tiếp bước và hoàn thành bộ Thơ văn Lý – Trần ba tập (1977, 1979, 1988) mà ở trên chúng tôi có nêu.
  12. 6 Những bài viết về thơ văn Lý - Trần của các nhà nghiên cứu như: Nguyễn Trọng Thuật với Bình luận về sách Khóa hư đăng trên Tạp chí Nam Phong, tập XXXIII, số 189, tháng 10-1933 đã nêu lên nhận thức của tác giả về nội dung tư tưởng tác phẩm của Trần Thái Tông; Đặng Thai Mai với bài Về mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc (Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 7-1961) đã chỉ ra mối quan hệ tác động qua lại giữa thơ văn Lý - Trần với thơ văn Đường - Tống; còn trong bài Mấy điều tâm đắc khi đọc lại thơ văn của một thời đại (Tạp chí Văn học số 6-1974) vị học giả lão thành đã chia văn học nước ta làm ba thời kỳ: từ thế kỷ thứ III TCN đến đầu thế kỷ thứ X; từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XIX; từ giữa thế kỷ XIX đến thế kỷ XX. Trong đó, tác giả nêu lên giá trị nội dung tư tưởng của văn học đời Trần góp phần làm nên lịch sử văn học nước nhà, qua những đóng góp đáng kể của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang. Đồng thời bài viết còn đề cập đến một đạo Phật khoan dung cởi mở, từ đó sinh ra những nhà thơ có bản lĩnh, có tâm hồn phóng khoáng, giàu chất nhân bản với những bài thơ Thiền độc đáo, có khí sắc, đạo nhưng rất đời. Kiều Thu Hoạch qua bài Tìm hiểu thơ văn của các nhà sư Lý - Trần (Tạp chí Văn học số 6-1965) đã nhận định bên cạnh những tác phẩm thơ văn đề cao ý thức tự cường dân tộc, tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, còn có thơ văn của các thiền sư, nổi bật là thơ văn của Thiền phái Trúc Lâm. Thời Lý - Trần có nhiều nhà sư nổi tiếng về văn học. Các thiền sư hay làm thơ và có thơ hay, mảng thơ văn này có nhiều yếu tố siêu thoát, chất thơ bàng bạc, giáo lý nhà Phật được trình bày dưới một hình thức nghệ thuật khá bóng bẩy, sinh động. Nguyễn Huệ Chi với một loạt bài viết về văn học Lý - Trần, trong đó có văn học Phật giáo đăng trên Tạp chí Văn học như: Từ nghĩa rộng và nghĩa hẹp hai chữ “văn học” trong quá khứ, đến việc phân loại các loại hình văn học Lý - Trần (số 5- 1976); Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý - Trần (số 4- 1977); Các yếu tố Nho – Phật – Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời đại Lý - Trần (số 6-1978); Hiện tượng hội nhập văn hóa dưới thời Lý - Trần (số 2-1992)… Những bài viết vừa nêu đã cho người đọc có cái nhìn bao quát về văn học Phật giáo, trong đó có văn thơ Thiền phái Trúc Lâm. Ở đó, tác giả đã khám phá chiều sâu tư tưởng Phật giáo được thể hiện qua văn thơ. Qua các bài viết, hệ thống thể loại văn học Phật giáo, loại hình tác giả thiền sư, mối
  13. 7 liên hệ giữa văn học Thiền Trung Hoa và Việt Nam cũng được tác giả bài viết định hướng cụ thể. Bài viết của Trần Thị Băng Thanh: Thử phân tích hai mạch cảm hứng trong dòng văn học Việt Nam mang đậm dấu ấn Phật giáo (Tạp chí Văn học, số 4-1992) đã cho rằng bộ phận văn học này có hai mạch cảm hứng chính: một là, những tác phẩm bàn trực tiếp về triết học giáo lý, phương pháp tu hành; hai là nội dung triết học sâu sắc của đạo Phật, những cảnh già lam chỉ là những hiện thực gợi ý, những luồng ánh sáng để đưa thi nhân đến cảm hứng thi ca giúp thi nhân có những cảm hứng về cuộc đời sâu sắc hơn. Trong công trình Những suy nghĩ từ văn học trung đại (1999), có bài nghiên cứu về Trần Nhân Tông, về Huyền Quang. Mai Quốc Liên trong bài viết Các nhà thơ đời Trần (trong tiểu luận Dưới gốc me vườn Nguyễn Huệ, 1986) đã đề cập đến những điểm cơ bản của đặc trưng thơ Thiền: văng lặng, hư tịch, phản ánh chân như của vũ trụ theo quan điểm Phật giáo, mà thơ Thiền của Trần Nhân Tông đã mang đặc trưng ấy. Phạm Ngọc Lan trong Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong thơ (Tạp chí Văn học, số 4-1992) đã đề cập cảm hứng Thiền trong những bài thơ viết về thiên nhiên của Trần Nhân Tông. Những bài viết trên Tạp chí Văn học, số 2-1992, số 3-1993, và công trình Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỷ XI - XIV (luận án Tiến sĩ bảo vệ 1995, xuất bản 1996) đã nêu lên những đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền qua khảo sát ngôn ngữ thơ Thiền, hình tượng con người, thiên nhiên; không gian và thời gian nghệ thuật; thể thơ, kết cấu, cách miêu tả, giọng điệu thơ Thiền; so sánh đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền với thơ Nho cùng thời, có đối chiếu với thơ Thiền Trung Hoa và Nhật Bản. Công trình của Nguyễn Phạm Hùng Văn học Lý - Trần nhìn từ thể loại (1998) đã nghiên cứu hệ thống thể loại văn học thời Lý - Trần trong đó có các thể loại văn học Phật giáo như Kệ và thơ Thiền, Ngữ lục, Truyện ký v.v..; Một loạt bài viết của nhà nghiên cứu này về văn học Phật giáo in trong tuyển tập Trên hành trình văn học trung đại (2001) đã giúp người đọc có một cái nhìn chung về thẩm mỹ của thơ Thiền, cảm hứng sáng tạo của thơ Thiền, hình ảnh biểu tượng Phật lý, thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học Phật giáo và bút pháp của từng gương mặt tiêu biểu trong bộ phận văn học Phật giáo. Nguyễn Hữu Sơn với chuyên luận Loại hình Thiền uyển tập anh (2002) đã xác định tác phẩm là sự đan xen nhiều thể loại như ngữ lục, truyện truyền đăng, có sự
  14. 8 tích hợp folklore và có giá trị tàng trữ thi ca, và theo ông có thể xem tác phẩm như là một thể tài biến văn. Những bài viết của nhà nghiên cứu này in trong tuyển tập Văn học trung đại Việt Nam – Quan niệm con người và tiến trình phát triển (2005) như Vịnh Vân Yên tự phú – nẻo về thiên nhiên Phật và cõi vô tâm đã khái quát cuộc đời và hành trạng của Huyền Quang, chuyển hóa cõi thiên nhiên thành cõi Phật trong bài phú; tác giả còn đặt bài phú này trong tương quan với các văn phẩm Nôm cùng thời như Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông, Giáo tử phú tương truyền của Mạc Đĩnh Chi? để thấy được tiến trình hình thành và phát triển dòng văn học Nôm ở Việt Nam. Nguyễn Công Lý với Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý - Trần (1997) đã chỉ ra nét riêng của Phật giáo Thiền tông Việt Nam, nhất là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, cùng nét những đặc sắc của văn học Thiền giai đoạn này. Trong Văn học Phật giáo thời Lý - Trần: diện mạo và đặc điểm (2002) đã trình bày lực lượng tác giả, hệ thống thể loại, ngôn ngữ văn tự, đề tài phản ánh làm nên diện mạo cùng nêu lên sáu đặc điểm cơ bản của bộ phận văn học này. Ở đó, công trình nêu lên mối quan hệ giữa Phật giáo và văn học nghệ thuật, chỉ ra mối tương liên giữa tư duy Phật giáo Thiền tông và tư duy Đạo học của Lão - Trang với tư duy văn học, có đối sánh với tư duy Nho giáo, rồi khẳng định có một kiểu tư duy nghệ thuật trực cảm tâm linh trong văn chương mà bộ phận văn học Phật giáo Thiền tông thời Lý - Trần thể hiện rõ nét nhất, bởi đó là tinh hoa của văn học Phật giáo Việt Nam. Mấy chục bài viết của tác giả này đăng trên Tạp chí Văn học, Tạp chí Hán Nôm, Tạp chí Nghiên cứu Phật học… về văn học Phật giáo trước thế kỷ thứ X và về văn học Phật giáo thời Lý - Trần (công bố từ 1996 đến 2012) đã chỉ ra những nét đặc trưng tư tưởng của Phật giáo Thiền tông Việt Nam, về văn học Phật giáo Việt Nam, nhất là thời Lý - Trần. Lê Thị Thanh Tâm với luận án Tiến sĩ: So sánh thơ Thiền Lý - Trần với thơ Thiền Đường - Tống (2007) đã tiếp thu và kế thừa những thành tựu nghiên cứu đã có để từ đó bằng phương pháp so sánh loại hình tác giả đã chỉ ra nét riêng, cái hay, cái đẹp của thơ Thiền Việt Nam thời Lý - Trần so với với thơ Thiền Trung Quốc thời Đường - Tống, mà trước đó, tác giả này cũng có một số bài viết về Phật về Thiền qua cái nhìn so sánh đăng trên tạp chí hay trong kỷ yếu hội thảo khoa học. Thích Phước Đạt (Trần Lý Trai) với luận án Tiến sĩ: Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm (2008) đã giới thiệu Thiền phái Trúc Lâm và lịch sử truyền thừa cùa Thiền phái cùng nêu lên hai giá trị: nội dung tư tưởng và nghệ thuật
  15. 9 trong các tác phẩm văn - triết của các tác giả thuộc Thiền phái này. Bên cạnh, tác giả này còn có một số bài viết về tác giả, tác phẩm văn học Thiền thời Lý – Trần, nhát là về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, công bố vào các năm 2004, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010. Thời Lê - Nguyễn (thế kỷ XV - thế kỷ XIX), bên cạnh một số công trình viết về hành trạng và tác phẩm của các vị thiền sư thuộc giai đoạn này của các nhà Phật học, nhất là các công trình của Nguyễn Lang Thích Nhất Hạnh và của Lê Mạnh Thát như ở trên vừa nêu thì còn có một số bài viết về văn học Phật giáo, về ảnh hưởng tư tưởng Thiền Phật trong thơ văn của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, v.v.. của các nhà nghiên cứu như: Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Bùi Duy Tân, Minh Chi, Hà Thúc Minh, Trần Thị Băng Thanh, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Công Lý, Nguyễn Phạm Hùng, v.v.. 2.2. Thành tựu nghiên cứu về tác gia Ngô Thì Nhậm và tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh Từ thế kỷ XIX về trước, các bậc tiên Nho, các sử gia trong các bộ chính sử triều Nguyễn ít nhiều đã có nhắc đến Ngô Thì Nhậm. Sang thế kỷ XX, trong các bộ văn học sử của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, của Phạm Thế Ngũ, v.v.. mà ở trên có đề cập, ít nhiều đều có nhắc qua Ngô Thì Nhậm dù rất sơ lược, còn về tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh thì hầu như chưa được tìm hiểu trong các công trình nghiên cứu ở Việt Nam từ 1954 trở về trước. Lần đầu tiên Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) trong Việt Nam Phật giáo sử luận tập 2 (1972), ở chương XXIV Lý học và Phật giáo đã dành 27 trang với nhiều mục (từ trang 269 đến trang 295) để giới thiều về Ngô Thì Nhậm và tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh qua các tiêu đề: Đại chân Viên giác thanh; Một tổng hợp Nho Phật độc đáo; Một số chủ đề khác của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh; Quan niệm Thiền của Hải Lượng và các bạn; Con người của Hải Lượng. Chỉ bấy nhiêu đó nhưng cũng gợi mở giúp người đọc có cái nhìn tổng quát về tác giả và tác phẩm luận thuyết triết lý này. Tiếp đến, Thích Minh Tuệ trong Lược sử Phật giáo Việt Nam (1993) cũng đã dành hơn 2 trang để giới thiệu về Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm (trang 443-445). Riêng Lê Mạnh Thát dù nhà nghiên cứu này đã có rất nhiều công trình về Phật giáo sử, về tác phẩm của các vị thiền sư thời Lê - Nguyễn nhưng lại chưa có công
  16. 10 trình nào viết về Ngô Thì Nhậm và tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Còn trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam của ông thì chỉ xuất bản đến tập 3, tức mới viết đến Phật giáo đời Trần (thế kỷ XIII-XIV) nên cũng chưa giới thiệu tác phẩm này. Với các nhà nghiên cứu ngoài nhà chùa, những bài viết về tác giả Ngô Thì Nhậm, về tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh đã công bố trên các tạp chí như Tạp chí Văn học (Nghiên cứu Văn học) của Viện Văn học, Tạp chí Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Tạp chí Triết học của Viện Triết học… Có thể nêu những bài nghiên cứu tiêu biểu như bài viết của cụ Lê Thước và Trương Chính: Tìm hiểu dòng văn học tiến bộ thời Tây Sơn (1971). Nhân kỷ niệm danh nhân Ngô Thì Nhậm, Tạp chí Văn học số 4-1973, đã đăng một loạt bài nghiên cứu của các tác giả: Tảo Trang: Bước đầu tìm hiểu một số nhà văn trong Ngô gia văn phái, Vũ Khiêu: Về đánh giá Ngô Thì Nhậm, Vũ Đức Phúc: Từ Ngô Thì Nhậm đến trào lưu văn học Tây Sơn, Trần Nghĩa: Tìm hiểu thái độ chính trị của Ngô Thì Nhậm, Trần Lê Sáng và Phạm Thị Tú: Về một số tập văn của Ngô Thì Nhậm. Năm 2003, nhân kỷ niệm Ngô Thì Nhậm, trên Tạp chí Hán Nôm số 3 cũng đã cho đăng một loạt bài về tác giả này như của Trịnh Khắc Mạnh: Danh nhân Ngô Thì Nhậm (1746-1803), Nguyễn Ngọc Nhuận: “Cúc thu bách vịnh” - tập thơ xướng hoạ giữa Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm, Lê Việt Nga: Mấy nét về tập thơ “Ngọc đường xuân khiếu”, Trần Thị Băng Thanh: Ngô Thì Nhậm - một tấm lòng Thiền chưa viên thành, Lâm Giang: Ngô Thì Nhậm với đời thường, Phạm Thị Thoa: Văn bản “Hào mân ai lục” của Ngô Thì Nhậm. Bên cạnh, cần phải kể ra đây một số bài viết về Ngô Thì Nhậm hoặc có liên quan đến Ngô Thì Nhậm như ba bài nghiên cứu của Phạm Tú Châu đăng trên Tạp chí Văn học ở các số 2-1979; số 2-1981; số 6-1982, của Phạm Thị Tú: Đăng khoa lục sưu giảng và việc ghi nhận Ngô Thì Nhậm là tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” trên Tạp chí Văn học số 4-1975; Hoàng Hồng Cẩm: Về cuốn “Tam thiên tự” do Ngô Thì Nhậm soạn, Tạp chí Hán Nôm số 1-2007, v.v.. Đặc biệt, trong công trình Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 1 (1978) có hai bài nghiên cứu: Ngô Thì Nhậm - một người trí thức chân chính do học giả lão thành uyên bác Cao Xuân Huy viết và bài Tiểu sử Ngô Thì Nhậm do Mai Quốc Liên soạn; Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 2 (1978), nhóm biên dịch có mục Tiểu dẫn với dung lượng hai trang để giới thiệu tác phẩm. Còn trong công trình Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 3, có bài khảo luận văn bản của nhà nghiên cứu Hà Thúc Minh: Về tình trạng của sách “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh”.
  17. 11 Trần Đình Hượu với bài viết “Về xu hướng Tam giáo đồng nguyên trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh” (1986) đã xác định xu hướng tư tưởng chủ đạo của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là Tam giáo đồng nguyên. Đồng thời tác giả bài viết có lưu ý rằng quan niệm đồng nguyên của Ngô Thì Nhậm trong tác phẩm cũng chưa vượt ra ngoài quỹ đạo của Chu Hy thời Tống ở Trung Hoa. Mai Quốc Liên với sáu chương tiểu luận về Ngô Thì Nhậm trong tập một của bộ “Ngô Thì Nhậm tác phẩm” (2001) đã khái quát những vấn đề về tư tưởng và thi pháp của Ngô Thì Nhậm, khẳng định thơ văn của Ngô Thì Nhậm là đỉnh cao, là tiêu biểu đứng đầu của văn học yêu nước thời Tây Sơn. Lê Giang trong luận án Tiến sĩ “Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam” (2001) cho rằng Ngô Thì Nhậm thật sự là một nhân vật lịch sử lớn, một nhà tư tưởng lớn mà bộ môn lịch sử tư tưởng Việt Nam phải dành nhiều trang hơn nữa để viết về ông. Ông là đại biểu cho loại ý thức văn học của nhà Nho – chính trị gia trong thời hậu kỳ trung đại Việt Nam, cốt lõi là Nho nhưng không bị bó hẹp ở Nho giáo nguyên thuỷ mà tiếp thu tinh hoa của nhiều loại tư tưởng khác. Thích Phước An trong “Từ Nguyễn Trãi đến Ngô Thì Nhậm và con đường lên đỉnh núi Yên Tử” (2002) khẳng định Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV và Ngô Thì Nhậm ở thế kỷ XVIII là hai khuôn mặt lỗi lạc cùng leo lên đỉnh núi Yên Tử. Cả hai đều nhận ra rằng, chỉ có con đường mà Trần Nhân Tông, Tổ sư khai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã vạch ra là con đường thực tiễn nhất để giải quyết mâu thuẫn giằng co giữa sự thanh tịnh tâm linh cho chính mình mà vẫn phụng sự cho đất nước hay cho cả mọi sinh linh đang quằn quại trong khổ đau. Ngô Thì Nhậm cố đem ánh sáng tư tưởng Phật giáo để rọi sáng ý thức hệ Nho giáo hầu giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội cuối thế kỷ XVIII đã đặt ra mà Nho giáo không giải quyết được. Trên Tạp chí Triết học số 1-2003, nhà nghiên cứu Trương Văn Chung có bài “Tìm hiểu tư tưởng Thiền học của Ngô Thì Nhậm” đã chỉ ra những nét đặc sắc trong tư tưởng Thiền học, nhất là sự dung hợp Nho - Phật trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm. Trong bài viết “Xu hướng hội nhập Tam giáo trong tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII” (2004), Nguyễn Kim Sơn thông qua cái nhìn đồng đại và lịch đại, đã lý giải nguồn gốc, sự vận động, khung cảnh hội nhập Tam giáo trong tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII. Tác giả bài viết khẳng định nhà Nho chính là chủ thể tiến hành hội nhập Tam giáo và mục đích của việc hội nhập là nhằm tự bảo vệ vị trí chủ cán của Nho gia trong giai đoạn này.
  18. 12 Nguyễn Bá Cường trong “Tư tưởng của Ngô Thì Nhậm về con người và giáo dục con người” (2006) đã xác định vấn đề con người được Ngô Thì Nhậm quan tâm trước nhất. Ngô Thì Nhậm tiếp cận vấn đề con người và bản tính con người trên cơ sở thiên tính tự nhiên và trong mối quan hệ xã hội phức tạp. Từ đó, bài viết chỉ ra vai trò của giáo dục và điều kiện kinh tế với sự hình thành và thay đổi bản tính con người. Trần Phước Thuận trong bài “Tìm hiểu đôi điều về khái niệm “Không thanh” của Ngô Thì Nhậm trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh” (2007) đã khẳng định Ngô Thì Nhậm đã dùng lý luận nhà Nho để giải thích Thiền học, đậm nét nhất là Lý học của Tống Nho. Hải Lượng thiền sư dàn dựng những hình ảnh mang tính Lý học Tống Nho để thực hiện chủ ý “Chỉ vật truyền tâm” của thiền gia. Dù Ngô Thì Nhậm đã làm một chiếc cầu nối giữa Phật và Nho trong thời kỳ các nhà Nho bảo thủ để kình chống Phật giáo, nhưng ông chưa phải là thiền sư đạt ngộ. Lâm Giang trong bài viết “Tư tưởng Nho - Phật hoà đồng trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm” (2007) đã đi từ phân tích sự hoà đồng nhất trí của Phật - Nho trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh qua các phạm trù nhân quả, luân hồi, định mệnh, tâm tính... đến kết luận là sự nhất trí ấy do Phật kế thừa từ Nho. Hơn nữa Phật của Ngô Thì Nhậm là Phật hành sự trong thực tiễn không yếm thế, chán đời. Trần Ngọc Ánh trong “Nhận thức luận của Ngô Thì Nhậm – bước tiến của tư tưởng triết học Việt Nam thế kỷ XVIII” (2009) đã xác định Ngô Thì Nhậm góp phần tạo ra một bước tiến của lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc thế kỷ XVIII. Mặc dù Ngô Thì Nhậm có kế thừa Lý học của Tống Nho, nhưng ông đã có những đóng góp riêng về mặt nhận thức luận như, không dừng lại ở hiện tượng mà đi sâu vào bản chất; sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Doãn Chính - Nguyễn Thị Hồng Phương trong “Ngô Thì Nhậm – Hải Lượng đại thiền sư” (2010) cho rằng, khuynh hướng chủ đạo trong bản thể luận của Ngô Thì Nhậm là hướng đến sự dung hoà Tam giáo với sự kế thừa tư tưởng các vị Tổ khai sáng Thiền phái Trúc Lâm. Ngô Thì Nhậm không kế thừa, dung hợp triết lý Tam giáo như các học giả đời Tống, mà chỉ sử dụng các phạm trù tâm, tính, lý, dục của Tống Nho để giải thích trở lại các quan điểm triết học Phật giáo. Nhìn chung, tất cả những thành tựu như vừa nêu là rất đáng quý, tất cả là chỗ dựa, là những gợi ý quan trọng để người viết luận án này suy nghĩ, tiếp thu và triển khai nội dung, ý tưởng khi thực hiện đề tài.
  19. 13 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đề tài của luận án là “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại”. Như vậy đối tượng nghiên cứu chính của luận án là tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Nhưng để thấy được nét đặc thù về tư tưởng, về nghệ thuật của tác phẩm luận thuyết triết lý tôn giáo thuộc loại hình văn - sử - triết bất phân này, nhất là sự kế thừa và phát triển tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm đời Trần thì cần phải đối sánh nó với những tác phẩm văn học Phật giáo thời Lý - Trần, đặc biệt là những tác phẩm của Trúc Lâm tam Tổ: Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, cùng những tác phẩm của các vị trước đó đã đặt nền móng quan điểm tư tưởng cho Thiền phái: Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Thánh Tông và ít nhiều có so sánh với những tác phẩm thuộc bộ phận văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại mà những tác phẩm này ra đời trước tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Điều đó có nghĩa, tuy luận án chỉ khảo sát một tác phẩm văn học dược viết vào cuối thế kỷ XVIII, nhưng lại phải mở ra một diện tương đối rộng để khảo sát, so sánh, đối chiếu từ đó mới có thể rút ra những kết luận khoa học về tác phẩm được nghiên cứu. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để triển khai nội dung đề tài, luận án sẽ vận dụng phương pháp văn học sử là chủ yếu, cụ thể là phương pháp phân tích tác phẩm; bên cạnh sử dụng các phương pháp: phương pháp loại hình, phương pháp hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu văn bản học, các phương pháp liên ngành. Ở đây, trong quá trình thực hiện luận án, người viết sẽ vận dụng từng phương pháp phù hợp cho từng trường hợp cụ thể. Như sử dụng phương pháp thống kê, phân loại để làm cứ liệu phân tích; phương pháp đối chiếu so sánh để làm rõ hơn vấn đề cần xem xét, nhất là tìm hiểu sự phát triển tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm từ đời Trần đến cuối đời Lê trung hưng thông qua các tác phẩm của Thiền phái này; dùng phương pháp liên ngành vì đề tài này có liên quan đến tư tưởng - triết học và lịch sử; dùng phương pháp loại hình để khảo sát loại hình thể loại, loại hình tư tưởng, cấu trúc; dùng phương pháp văn bản học để khảo sát và khảo đính văn bản (nếu có thể), bởi những tác phẩm trên đều viết bằng chữ Hán, cần phải đọc và nghiên cứu từ văn bản chữ Hán. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một luận thuyết triết lý mang nội dung về Phật về Thiền, thuộc thể loại văn học chức năng, với phạm vi văn - sử - triết bất phân, cho nên khó có thể dùng tư duy duy lý lôgic thông thường để tiếp cận tác
  20. 14 phẩm, mà cần phải dùng trực cảm để chiêm nghiệm, lĩnh hội vấn đề, tức dùng phương pháp tĩnh lự, thiền quán - trực cảm tâm linh để có thể thấu rõ bản chất và đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Thật ra, việc phân chia phương pháp nghiên cứu như trên chỉ là tương đối, vì trong khi thực hiện, người viết sẽ vận dụng tổng hợp, đan xen các phương pháp sao cho có hiệu quả nhất nhằm mục đích là giải quyết các yêu cầu khoa học mà bản thân đề tài luận án đã đặt ra. 5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN - Lần đầu tiên trong văn học sử Việt Nam, tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là đối tượng được nghiên cứu một cách có hệ thống từ diện mạo, cấu trúc văn bản đến các tác giả tham gia viết các phần trong tác phẩm; so sánh các văn bản dịch hiện hành, có đối chiếu với nguyên tác, nhằm mục đích giúp cho việc hiểu văn bản một cách đúng nhất. - Từ tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, bước đầu luận án đã nêu lên những đặc trưng chủ yếu của thể loại luận thuyết triết lý tôn giáo. - Trên cơ sở đó, luận án chỉ ra những giá trị nội dung tư tưởng cùng giá trị nghệ thuật của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. - Cuối cùng, luận án nêu lên vị trí và đóng góp của tác phẩm trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam và trong tiến trình phát triển của văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại. 6. GIỚI THIỆU CẤU TRÚC LUẬN ÁN Luận án có dung lượng 188 trang chính văn. Ngoài phần Mở đầu trình bày những vấn đề chung mang tính trường quy như vừa nêu (tr.1-tr.15), trọng tâm của luận án được dàn dựng thành bốn chương như sau: Chương 1. Xã hội – Văn hoá – Tư tưởng Đại Việt thế kỷ XVIII và tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, 48 trang (tr.16-tr.63). Chương 2. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh nhìn từ nội dung tư tưởng, 47 trang (tr.64-tr.110). Chương 3. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh nhìn từ hình thức nghệ thuật, 36 trang (tr.111-tr.146). Chương 4. Vị trí và đóng góp của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại, 36 trang (tr.147-tr.182). Cuối cùng là Kết luận 06 trang (tr.183-tr.188); Danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án: 19 bài (tr.189-tr.190); Tài liệu tham
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1