Luận văn: Đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập
lượt xem 11
download
Thực hiện chủ trương của Đảng về việc đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ kinh tế… gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khi cần thiết có điều kiện, nước ta trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN và AFTA vào năm 1995, của ASEM vào năm 1996 và của APEC vào năm 1998. Với WTO, nước ta trở thành quan sát viên từ năm 1995 và hiện đang trong quá trình đàm phán để gia nhập tổ chức này. Những sự kiện này, kết hợp với nhu cầu nội tại của nền kinh tế, đã...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập
- Luận văn Đề tài “Đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập” 1
- Mục lục I. Khái quát về hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp thương mại 1. Một số khái niệm 2. Chức năng của doanh nghiệp thương mại 3. N ội dung của hoạt động kinh doanh thương mại II. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong bối cảnh hội nhập hiện nay 1. Hội nhập kinh tế quá trình - đ iều tất yếu 2. Những nguy cơ, cơ hội và thách thức chủ yếu đối với các doanh nghiệp thương mại Việt Nam 3 . Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại III. Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập 1. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý 2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thương mại 3. Xây dựng một đội ngũ kinh doanh tốt 4 . Đẩy mạnh các hoạt động marketing trong các doanh nghiệp thương mại nhằm thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường 5. Thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh 2
- 3
- LỜI MỞ ĐẦU Thực hiện chủ trương của Đảng về việc đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ kinh tế… gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khi cần thiết có điều kiện, nước ta trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN và AFTA vào năm 1995, của ASEM vào năm 1996 và của APEC vào năm 1998. Với WTO, nước ta trở thành quan sát viên từ năm 1995 và hiện đang trong quá trình đàm phán để gia nhập tổ chức này. Những sự kiện này, kết hợp với nhu cầu nội tại của nền kinh tế, đã đặt ra những yêu cầu mới cho mỗi doanh nghiệp thương mại. Hội nhập kinh tế tạo ra các cơ hội phát triển kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại Việt Nam, thị trường được mở rộng, có khả năng thiết lập quan hệ buôn bán với nhiều đối tác trên thế giới… Nhưng bên cạnh đó, xu thế hội nhập khiến cho môi trường kinh doanh trong nước thay đổi, các doanh nghiệp nước ngoài có bước phát triển hơn ta từ 20 đến 30 năm thâm nhập thị trường Việt Nam tạo nên sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp, điều này khiến doanh nghiệp thương mại trong nước phải đối mặt với không ít nguy cơ và thách thức. Doanh nghiệp thương mại muốn tồn tại và phát triển cần nghiêm túc coi sự đổi mới toàn diện và liên tục để hội nhập là chìa khóa mở cánh cửa thị trường trong nước, từ đó có thể tìm được chỗ đứng trên thị trường khu vực và thế giới. Do nhận thức đ ược tầm quan trọng của những đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong bối cảnh hiện nay, em đã đ i sâu nghiên cứu, tìm hiểu và chọn đề tài “Đ ổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập” cho đề án môn học của em. Nội dung đề án của em đ ược chia làm ba phần như sau: 4
- I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI Để có được cái nhìn sâu sắc về hiện trạng của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập, mà cụ thể là về hoạt động kinh doanh và từ đó có thể đưa ra các vấn đề còn tồn tại cùng các giải pháp cho sự đổi mới thì trước hết chúng ta phải tìm hiểu những điều căn bản về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại nói chung. 1. Một số khái niệm Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ bằng tiền trên thị trường. Có thể nói rằng thương mại hình thành và phát triển dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển đến mức mà sản xuất xã hội trở thành sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá là hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường. Nó ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên hai điều kiện đó là: Sự phân công lao động xã hội phát triển dẫn tới sự chuyên môn hoá ngày càng cao và có sự sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra. Sản xuất hàng hoá còn tồn tại thì còn trao đổi, mua bán (lưu thông) hàng hoá. Và trong lưu thông hàng hoá, có một loại người chuyên dùng tiền để mua hàng hoá rồi đem bán, lúc này, kinh doanh thương mại xuất hiện. Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm m ục đích sinh lợi. Kinh doanh thương mại là một dạng của lĩnh vực đầu tư, dùng tiền của, công sức vào việc buôn bán hàng hoá nhằm mục đích kiếm lợi. Hoạt động kinh doanh thương mại gắn liền với lĩnh vực lưu thông hàng hoá và lấy hàng hoá làm đối tượng mua bán. 5
- 2. Chức năng của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế quốc dân Chức năng của doanh nghiệp thương mại là nhiệm vụ chung nhất gắn liền với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thương m ại, là tiêu thức để phân biệt doanh nghiệp thương m ại với các doanh nghiệp công nghiêp, doanh nghiệp xây dựng và các doanh nghiệp của các ng ành khác trong nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp thương m ại có các chức năng sau: + Phát hiện nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và tìm mọi cách để thoả mãn các nhu cầu đó. Doanh nghiệp thương mại là một bộ phận trung gian độc lập sản xuất và tiêu dùng, do nó ra đời từ sự phát triển và phân công lao động xã hội nên chức năng của nó là phải phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng và người sản xuất về các loại hàng hoá và dịch vụ. Để phục vụ tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân, doanh nghiệp thương mại cần thường xuyên nghiên cứu thị trường, phát hiện những nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ, tìm mọi cách đáp ứng các nhu cầu đó của khách hàng. Vì vậy, trong mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, phải có bộ phận chuyên nghiên cứu nhu cầu thị trường, phải đặt công tác nghiên cứu thị trường lên đúng tầm quan trọng của nó. + Phải không ngừng nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cơ chế thị trường đặt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại diễn ra trong môi trường cạnh tranh gay gắt, đó là sự cạnh tranh giữa các đ ơn vị trong ngành kinh doanh, giữa trong ngành với ngoài ngành và với thị trường nước ngoài trên một quy mô rộng lớn. Để tồn tại và phát triển doanh nghiệp thương mại không chỉ phải làm tốt chức năng trung gian của mình, là “nhà hậu cần” tốt cho sản xuất và tiêu dùng, mà nó còn phải tiếp quá trình sản xuất trong lưu thông, hoàn thiện sản phẩm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sản phẩm sẵn sàng đi vào lưu thông. Doanh nghiệp thương mại phải luôn đặt khách hàng vào 6
- vị trí trung tâm trong hoạt động của mình; không ngừng nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng có như vậy mới đạt đến hiệu quả kinh doanh, duy trì và phát triển. + Giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp và bên ngoài. Như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp thương mại tồn tại trong môi trường kinh doanh và chịu tác động của nó. Doanh nghiệp có thành công trong hoạt động của mình hay không phụ thuộc vào khả năng giải quyết các mối quan hệ b ên trong cũng như bên ngoài của doanh nghiệp. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp, giữa công nhân với giám đốc, giữa các bộ phận chức năng với những người lãnh đạo sẽ làm mọi người thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, hiểu biết được mục tiêu của doanh nghiệp, từ đó quy tụ được sức mạnh của mọi người, mọi bộ phận phục vụ cho mục tiêu chung. Đây chính là nguồn lực quý báu đối với mỗi doanh nghiệp thương mại, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, hoạt động có hiệu quả và ngày càng phát triển. Các mối quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp thương mại với bạn hàng, với nhà cung ứng, với cơ quan cấp trên, với cơ quản lý có liên quan như tài chính, ngân hàng… đặc biệt là khách hàng và đối thủ cạnh tranh cũng cần được chú trọng, giải quyết chu đáo, phối hợp nhịp nhàng với mối quan hệ bên trong doanh nghiệp, tạo nên “văn hoá doanh nghiệp” và thành công kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Nội dung của hoạt động kinh doanh thương mại Do doanh nghiệp thương mại có những chức năng khác biệt so với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế quốc dân mà ho ạt động kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại cũng có những đặc trưng riêng. Đ ể kinh doanh có hiệu quả và để thực được mục đích của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh thì bản thân doanh nghiệp phải thực hiện một hệ thống phức tạp các hoạt động kinh 7
- doanh, những hoạt động kinh doanh chủ đạo là những hoạt động phục vụ cho mục đích mua để bán của doanh nghiệp thương mại, sau đây là nội dung của các hoạt động cơ bản đó: a) Nghiên cứu thị trường và nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ lựa chọn kinh doanh. “Chỉ kinh doanh cái mà thị trường cần” – là định hướng chung của cơ chế thị trường đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng. Nhưng vấn đề là làm sao biết được thị trường đang cần cái gì, đang thiếu cái gì, đ ang thừa cái gì ho ặc sẽ thừa, sẽ thiếu cái gì. Như vậy, trước hết, doanh nghiệp thương mại cần tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá mà doanh nghiệp lựa chọn kinh doanh. Mỗi hàng hoá cụ thể có đặc tính cơ, lý, hoá học và trạng thái khác nhau, có nhu cầu tiêu dùng cho các loại đối tượng khác nhau: cho sản xuất hoặc cho tiêu dùng. Doanh nghiệp thương mại phải tiếp cận với thị trường, nghiên cứu xác định được nhu cầu của khách hàng và sự đáp ứng nhu cầu đó hiện nay. Không chỉ vậy doanh nghiệp phải dự báo xu hướng phát triển của nhu cầu, nắm bắt thông tin trên thị trường xác định mặt hàng kinh doanh trong tương lai, có như vậy mới có thể tồn tại lâu dài và chiếm được thị phần lớn trên thị trường. Song song với công tác này, doanh nghiệp thương mại cũng cần phải nghiên cứu và xác định khả năng nguồn hàng, khả năng có thể khai thác, đặt hàng và thu mua để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nghiên cứu thị trường và nhu cầu của khách hàng là hoạt động diễn ra không chỉ một lần, mà trong quá trình tồn tại, phát triển kinh doanh, doanh nghiệp thương m ại luôn phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đưa vào kinh doanh những mặt hàng mới, tiên tiến, có nhu cầu trên thị trường. b) Tạo nguồn và mua hàng Hoạt động tạo nguồn và mua hàng là hoạt động cơ b ản bắt đầu cho hoạt động lưu thông hàng hoá. Nó cũng là ho ạt động đảm bảo doanh nghiệp thương mại có thể cung ứng cho sản xuất và tiêu dùng hàng hoá cần thiết, đủ về số lượng, tốt về chất lượng, kịp thời thời gian yêu cầu và thuận lợi cho khách hàng. 8
- Tạo nguồn hàng là toàn bộ các hình thức, phương thức và điều kiện của doanh nghiệp thương mại tác động đến lĩnh vực sản xuất, khai thác hoặc nhập khẩu để tạo ra nguồn hàng phù hợp nhu cầu của khách hàng. Mua hàng là một hoạt động nghiệp vụ của doanh nghiệp thương mại sau khi xem xét chất lượng hàng hoá, giá cả chào hàng cùng người bán thoả thuận điều kiện mua bán, giao nhận, thanh toán bằng hợp đồng hoặc bằng trao đổi hàng – tiền. Để có nguồn hàng tốt cho doanh nghiệp thương mại đòi hỏi phải tiến hành tốt hoạt động tạo nguồn và mua hàng bằng cách nghiên cứu thị trường nguồn hàng và lựa chọn bạn hàng, tổ chức hợp lý mạng lưới thu mua, ký kết hợp đồng kinh tế mua hàng và tổ chức thực hiện hợp đồng mua hàng, áp d ụng những biện pháp kinh tế trong hoạt động khai thác tạo nguồn hàng… c) Dự trữ hàng hoá Dự trữ hàng hoá là hoạt động kinh doanh cần thiết nhằm đảm bảo việc bán hàng của doanh nghiệp thương mại được diễn ra liên tục, đáp ứng đ ược nhu cầu của khách hàng trong mọi trường hợp. Dự trữ hàng hoá là một sự ngưng đọng, sự tích tụ một phần hàng hoá trong quá trình vận động từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, do vậy, phải xác định lượng dự trữ là rất quan trọng đối với doanh nghiệp thương mại. Nếu dự trữ thừa thì có nghĩa là doanh nghiệp bị “treo” quá nhiều vốn vào hàng dữ trữ trong khi vốn có thể đầu tư vào những mục tiêu sinh lợi hơn nhiều, hoặc chí ít vẫn còn có tiền dự phòng. Nghiêm trọng hơn là những kho ản dự trữ thừa này có thể dẫn đến những tổn thất tai hại khi nó không có hy vọng bán hết. Nhưng nếu doanh nghiệp dự trữ thiếu thì không có đủ hàng cần thiết, sẵn sàng phục vụ khách hàng ở thời điểm họ cần, như vậy sẽ mất một cuộc kinh doanh. Tựu chung, dữ trữ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại là một hoạt động nghiệp vụ hết sức quan trọng và khó khăn, phải luôn đảm bảo cân đối giữa nhu cầu thị trường, giữa dự kiến cho tương lai và khả năng tài chính của doanh nghiệp. Xét đ ến dự trữ hàng hoá chúng ta cần tìm hiểu công tác kho tàng vì nó là hoạt động để thực hiện quá trình d ự trữ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại. 9
- Kho hàng hoá là một công trình dùng đ ể dự trữ, bảo quản hàng hoá phục vụ cho lưu thông hàng hoá được bình thường. Hoạt động của kho tàng bao gồm: + Tổ chức thực hiện việc dự trữ, bảo quản và bảo vệ tốt hàng hoá d ự trữ. + Giao nhận hàng hoá chính xác, kịp thời. Nắm vững lượng hàng hoá dự trữ trong kho. + Thực hiện quá trình sản xuất trong lưu thông nhằm phát triển các hoạt động dịch vụ văn minh phục vụ khách hàng – giữ gìn nguyên vẹn giá trị sử dụng của hàng hoá và làm tăng giá trị hàng hoá. + Tiết kiệm chi phí kho, góp phần hạ chi phí lưu thông và chi phí kinh doanh của doanh nghiệp thương m ại. Doanh nghiệp thương mại mua hàng ở nơi này bán hàng ở nơi khác, mua hàng thời gian này bán hàng thời gian khác và mua của đối tượng này bán hàng cho các đối tượng khác vì vậy mà luôn phải có mạng lưới kho cho mình, thực hiện tốt nhiệm vụ thu mua, tiếp nhận, trung chuyển, dự trữ và bán hàng được nhanh chóng, thuận tiện và đạt hiệu quả kinh doanh cao. e) Tổ chức phân phối và bán hàng Bán hàng là sự thực hiện giá trị và chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, kết thúc quá trình này người mua nhận được hàng, người bán nhận đ ược tiền ( hoặc có cơ sở đòi tiền người mua). Bán hàng là một hoạt động quan trọng bậc nhất trong doanh nghiệp thương mại vì chỉ có bán được hàng thì doanh nghiệp thương mại mới có thể thu hồi vốn kinh doanh, thực hiện được lợi nhuận, tái mở rộng kinh doanh. Nó bao gồm các hoạt động sau: + Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu tâm lý tập quán của người tiêu dùng. + Xác đ ịnh kênh bán và các hình thức bán. + Phân phối hàng hoá vào các kênh bán. + Tiến hành quảng cáo, xúc tiến bán hàng. + Thực hiện các nghiệp vụ bán hàng ở cửa hàng, quầy hàng. + Đánh giá kết quả, thu thập thông tin phản hồi để tiếp tục kinh doanh. 10
- Từ sản xuất đến tiêu dùng, hàng hoá có thể được mua bán qua các kênh phân phối khác nhau phụ thuộc vào đặc điểm, tính chất của sản phẩm và các điều kiện vận chuyển, bảo quản, sử dụng… Phân phối hàng hoá xác định một cách cụ thể chi tiết lượng hàng hoá bán ra theo những không gian và thời gian nhất định, trên cở sở tính toán, cân đối giữa nhu cầu thị trường và khả năng đáp ứng với lượng dự trữ lưu thông hợp lý ở doanh nghiệp thương mại. Phân phối hàng hoá ở doanh nghiệp thương m ại là cơ sở để củng cố niềm tin của khách hàng, củng cố uy tín của doanh nghiệp qua việc phân phối chính xác và kịp thời. Nó cũng đảm bảo cho sự vận động của sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng nhanh chóng và hợp lý, tiết kiệm đ ược chi phí lưu thông. f) Dịch vụ phục vụ khách hàng Dịch vụ kinh doanh thương mại được định nghĩa là những hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu phi vật chất của người tiêu dùng, gắn liền với hoạt động mua và bán hàng hoá nhằm nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu. Dịch vụ có thể chia thành: + D ịch vụ trước khi bán hàng, có thể gồm: Các dịch vụ về thông tin, giới thiệu, quảng cáo, chào hàng… về loại hàng hoá và các dịch vụ kèm theo; các dịch vụ về chuẩn bị hàng hoá, đóng gói sẵn theo yêu cầu của khách hàng… + Dịch vụ trong khi bán hàng, đó là: Các dịch vụ giao tiếp giữa khách hàng và doanh nghiệp, dịch vụ giới thiệu hàng hoá, hướng dẫn lựa chọn hàng hoá, dịch vụ về ký kết hợp đồng, thanh toán tiền hàng, bốc xếp hàng hoá… + Dịch vụ sau khi bán hàng: Dịch vụ này nhằm tăng thêm hay tạo điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng sản phẩm của khách hàng sau khi mua hàng, gồm: giới thiệu thêm các sản phẩm hỗ trợ cho sản phẩm chính, giao hàng và lắp đặt sản phẩm, bảo hành, sửa chữa, hướng dẫn cách sử dụng, sự thăm hỏi khách hàng… Dịch vụ của doanh nghiệp thương mại nhằm đáp ứng văn minh, kịp thời mọi nhu cầu của khách hàng, gây được tín nhiệm và thiện cảm với khách hàng, có tác dụng giữ khách hàng. Từ đó, tăng doanh thu của doanh nghiệp, tạo ra mối quan hệ rộng rãi, thanh toán tin cậy và có tác d ụng lớn trong củng cố thế lực của doanh nghiệp. Nó còn giúp quá trình lưu chuyển hàng hoá nhanh, bán được hàng 11
- hoá, nâng cao vòng quay vốn. Tóm lại, dịch vụ khác hàng có vị trí quan trọng đối với hoạt động kinh doanh và có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình lưu thông hàng hoá. g) Phân tích hoạt động kinh doanh Muốn biết được các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại có hiệu quả và có thực hiện đ ược mục tiêu của doanh nghiệp hay không thì phải tiến hành phân tích ho ạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương m ại đều có tác động liên hoàn với nhau, chỉ có phát triển hoạt động kinh doanh mới đánh giá được sâu sắc và đ ầy đủ những hoạt động này trong trạng thái thực của nó. Từ đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ ho àn thành các mục tiêu, biểu hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật – tài chính của doanh nghiệp. Phát triển hoạt động kinh doanh cũng cho phép đánh giá mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản lý của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, hoàn thiện công tác quản lý doanh nghiệp, huy động khả năng tiềm tàng về vốn, lao động và đ ất đai của doanh nghiệp. Qua phát triển hoạt động kinh doanh doanh nghiệp thương mại còn có thể dự đoán xu thế phát triển kinh doanh thương mại của doanh nghiệp. Chúng ta có thể thây đây là ho ạt động có ý nghĩa chiến lược trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại và ta có thể khái quát nội dung của phát triển hoạt động kinh doanh như sau: + Phân tích chỉ tiêu về kinh doanh như: số lượng, doanh thu bán hàng, giá cả hàng hoá… + Các chỉ tiêu đó được phát triển trong mối quan hệ với các chỉ tiêu về điều kiện của quá trình sản xuất kinh doanh như: lao động, vốn, đất đai. + Xác đ ịnh đặc trưng về lượng trong các giai đoạn, các quá trình kinh doanh. + Xác định xu hướng, nhịp độ phát triển, phát hiện nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi của quá trình kinh doanh, tính chất và mức độ chặt chẽ của mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh với các điều kiện sản xuất kinh doanh. 12
- II. NHỮNG MẶT CẦN ĐỔI MỚI TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP HIỆN NAY 1. Hội nhập kinh tế quốc tế - điều tất yếu Thế kỷ XX qua đi để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ và một trong số những điều đó, điều mà chúng ta không thể phủ nhận – thế kỷ XX là thế kỷ của cách mạng khoa học – kỹ thuật – công nghệ. Vào những năm 30 của thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất đã đưa lao động thủ công trở thành lao động cơ khí. Cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai vào đầu thế kỷ XX đã phát triển lao động cơ khí trở thành lao động một nửa tự động hoá. Không dừng lại ở đây, cuộc cách mạng lần thứ ba với sự phát triển vượt bậc của khoa học – công nghệ đã biến khoa học – công nghệ trở thành lực lượng sản xuất. Từ đây có thể nói rằng, thế kỷ XXI sẽ có nhiều biến đổi sâu sắc hơn, đây là thế kỷ mà khoa học và công nghệ sẽ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy. Chính điều này là một trong những nguyên nhân tạo nên xu quốc tế hoá nền kinh tế. Khi khoa học – công nghệ trở thành lực lượng sản xuất thì hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu cần thiết thoả mãn sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển làm cho thị trường nội địa trở nên nhỏ hẹp, buộc các quốc gia ngồi lại với nhau để tìm cách khơi dòng chảy của hàng hoá, 13
- dịch vụ, đồng vốn và sức lao động. Nó đã mở ra thị trường thế giới, làm cho sản xuất và tiêu thụ của tất cả các nước đều mang tính thế giới, tình trạng tự cung tự cấp, bế quan toả cảng của các địa phương, các dân tộc trước đây đã bị thay thế bởi trao đổi và hợp tác, liên kết giữa các dân tộc. Quốc tế hoá kinh tế cũng là quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới quốc gia vươn tới quy mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lượng mới. Thực tế đã chứng minh không một nước nào, dù lớn và giàu có đến đâu, cũng không thể tự mình sản xuất được tất cả những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng nhu cầu của mình. Quốc tế hoá kinh tế, đến nay mặc d ù còn tồn tại những quan điểm trái ngược nhau, những rõ ràng đây là một xu thế phát triển của thời đại không thể khác được. Quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu trên 2 cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá, đặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thể, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia quốc tế hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thể tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát triển của mình. Nó đem đến sự chuyển biến nhanh chóng của thể chế kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế thế giới bước vào cạnh tranh toàn cầu bên cạnh việc đẩy mạnh tìm kiếm sự hợp tác trong cạnh tranh. Toàn cầu hoá kinh tế, một mặt tạo ra những cơ hội phát triển kinh tế cho từng quốc gia cũng như cho toàn thế giới nhưng nó cũng đưa đến những thách thức lớn ở nhiều góc độ khác nhau như: Sự gia tăng của các rủi ro kinh tế (khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, việc hình thành các “bong bóng” tài chính tiền tệ…), gây nên mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị và xã hội (làm suy giảm tính độc lập và chủ quyền quốc gia, gây nên sự phụ thuộc quá mức và các trung tâm kinh tế lớn, phươn hại đến sự phát triển văn hoá dân tộc…). Trong quá trình toàn cầu hoá kẻ mạnh thường thu nhiều lợi ích hơn còn người yếu dễ bị thua thiệt. Những quốc gia có tiềm lực lớn có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác quá trình 14
- toàn cầu hoá và cài đặt các lợi ích của họ. Nhưng các quốc gia phát triển chậm cũng không để bị động theo sau. Toàn cầu hoá mặc dù có tồn tại những mâu thuẫn, những thách thức to lớn nhưng việc hội nhập kinh tế thế giới là một tất yếu khách quan, thách thức của việc không hội nhập còn lớn hơn rất nhiều. Chỉ quốc gia nào bắt kịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát triển. Để không bị tụt hậu, không bị đẩy lùi xa hơn về phía sau, Việt Nam đã chủ động vào cuộc. Hiện nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, phát triển quan hệ thương mại với 130 nước và lãnh thổ; khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ lớn trên thế giới, gia nhập ASEAN, APEC, ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ… với WTO, nước ta trở thành quan sát viên từ năm 1995 và đang trong quá trình đàm phán đề gia nhập tổ chức này. Đây chính là bước đi quan trọng của quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, đưa nền kinh tế Việt Nam từng bước phát triển, rút ngắn khoảng cách với nền kinh tế khu vực và thế giới. 2. Những nguy cơ, cơ hội và thách thức chủ yếu đối với các doanh nghiệp thương mại Việt Nam Hội nhập kinh tế quá trình không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan, mà được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế, tài chính quá trình, thực hiện các cam kết, điều ước quá trình tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, loại bỏ rào cản vô hình, hữu hình đối với thương mại. Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN nhằm thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm và Hiệp định về chương trình ưu đ ãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) ngày 27 – 28.01.1992 tại Singapore đã khởi động và tác động ngày càng rõ nét đến nền kinh tế Việt Nam; cùng với việc tham gia APEC, chuẩn bị tham gia WTO đặt Việt Nam trước những cơ hội, nguy cơ và thách thức mới. 15
- a) Nguy cơ Một trong những chương trình lớn của AFTA là chương trình CEPT. Thực chất của CEPT là cắt giảm thuế quan chung xuống 0% - 5% khi các nước thành viên buôn bán với nhau và cùng với CEPT, các biện pháp phi thuế quan (NTMS) như biện pháp hạn chế định lượng (hạn ngạch, giấy phép); các biện pháp quản lý giá; quy tắc xuất xứ; các biện pháp kỹ thuật (quy định tiêu chuẩn, kỹ thuật, kiểm dịch…); các biện pháp về hải quan, thanh toán… đang dần dần được cắt giảm, do đó giảm đi đáng kể sự bảo hộ của nhà nước cho hoạt động thương mại, tạo thị trường khu vực tự do cạnh tranh. Mặt khác, sự cạnh tranh đang ngày càng gay gắt hơn khi mà cơ cấu hàng hoá giữa các nước trong khu vực có sự tương đồng như nhau: các hàng nông sản phẩm nhiệt đới, các hàng công nghiệp chế biến, hàng công nghiệp tiêu dùng, hàng thuỷ hải sản…và như vậy sự cạnh tranh hàng hoá giữa các nước sẽ là sự cạnh tranh về giá cả, mẫu mã, chất lượng của hàng hoá. Điều này càng khó cho doanh nghiệp Việt Nam, vì trình đ ộ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực đã đi trước Việt Nam từ 20 đến 30 năm. Một số nước trong khu vực đã làm chủ đ ược một số công nghệ nguồn; đã tiếp cận và thâm nhập được nhiều thị trường lớn, có chỗ đứng trên thị trường thế giới; thị trường trong nước ở các nước này đã thành hệ thống, đủ lớn cho sự phát triển độc lập của các doanh nghiệp trong nước. Điều này đ ặt các doanh nghiệp thương mại Việt Nam đứng trước nguy cơ phải cạnh tranh với các đối thủ quốc tế mạnh hơn, nhiều kinh nghiệm hơn, hàng hoá chất lượng cao hơn và giá cả thấp hơn. Đồng thời là nguy cơ thị trường trong nước có thể tràn ngập hàng hoá công nghệ cao của các nước trong khu vực. Dẫn đến doanh nghiệp thương mại sẽ đánh mất thị trường trong nước, thậm chí phá sản trước khi vươn ra thị trường thương m ại toàn cầu. Một nguy cơ khác đối với doanh nghiệp thương mại là sự thiếu thông tin về thị trường, đối tác và đối thủ. Diễn biến thị trường thay đổi từng giờ từng phút, do vậy các quy định kinh doanh phải nhanh chóng và chính xác, có được như vậy phụ thuộc vào nguồn thông tin có được, người chiến thắng là người làm chủ thông tin, nhưng có thể nói đây là điểm yếu rất lớn của doanh nghiệp thương mại Việt Nam. 16
- Thêm vào đó, doanh nghiệp thương mại còn phải đối mặt với một nguy cơ khác trong quá trình hội nhập của Việt Nam là thị trường tiêu thụ là những người khó tính có thu nhập cao, dân trí cao, nhu cầu đa dạng. Vì vậy sẽ xảy ra cuộc chiến khốc liệt về chất lượng và giá cả. Ngoài ra, doanh nghiệp thương mại cũng đứng trước nguy cơ về trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý chưa ngang tầm với yêu cầu của giai đoạn mới hoà nhập Quốc tế, thiếu giám đốc, tổng giám đốc tài năng. Trên đây là những nguy cơ đặt ra với doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập, tuy nhiên nó cũng đem lại cho doanh nghiệp thương mại không ít cơ hội. Sau đây chúng ta sẽ xem xét những cơ hội đối với doanh nghiệp thương mại khi Việt N am hội nhập kinh tế quốc tế. b) Cơ hội Thứ nhất, doanh nghiệp thương mại có thể thâm nhập vào thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn, phát triển quan hệ mua bán với các nước trong và ngoài nước. Nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng đây cũng là cơ hội của các nước bạn. Thứ hai, có thể tìm và khai thác được những nguồn hàng có chất lượng cao hơn và giá rẻ hơn từ thị trường bên ngoài. Thứ ba, việc mở rộng kinh doanh quốc tế có thể bổ sung cho những cơ hội hạn chế của thị trường nội địa. Ví dụ, môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng hơn, cơ hội giữa các doanh nghiệp là ngang bằng. Thứ tư, cạnh tranh trên thị trường tăng nhanh là mối đe doạ hiện tại nhưng là hạt giống gieo mầm mới để có năng lực cạnh tranh cao hơn và là nhân tố kích thích doanh nghiệp tiên tiến phát triển trong tương lai trung và dài hạn. Thứ năm là cơ hội có thể tiến hành cạnh tranh với các đối thủ ngay trên thị trường của họ. Có thể nói hội nhập kinh tế đã m ở ra rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp thương mại Việt Nam và trên đây là những cơ hội chủ yếu, ngoài ra còn một số cơ hội khác, nhưng cùng với nó hội nhập kinh tế cũng đem đến cho doanh nghiệp thương mại những thách thức khó khăn. c) Thách thức 17
- Thách thức đầu tiên đối với doanh nghiệp thương mại là phải làm sao bảo vệ thị trường trong nước chống lại hàng được nhập khẩu và phải làm sao để duy trì xuất khẩu sang các quốc gia khác. Nhìn chung, bao giờ người tiêu dùng luôn mong muốn loại hàng tốt với giá rẻ. Trong khi hàng hoá của các nhà sản xuất nội địa không thể thoả mãn nhu cầu này vì chất lượng chưa đ ạt hoặc giá vẫn còn cao do thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, kinh nghiệm… thì các nhà sản xuất nước ngoài sẵn sàng cung cấp khối lượng lớn với chất lượng cao giá rẻ, cùng phương thức thanh toán phù hợp với khách hàng. Điều này dẫn đến nguy cơ hàng hoá trong nước bị bóp ngẹt bởi hàng hoá nhập khẩu và sự phụ thuộc tất yếu của nền kinh tế vào các tập đoàn xuyên quốc gia. V ì vậy đây là thách thức hàng đ ầu và hết sức khó khăn không riêng gì với doanh nghiệp thương mại mà với tất cả doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Tiếp theo, một thách thức nữa với doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp Việt Nam trong hoà nhập và cạnh tranh quốc tế ở vị thế yếu hơn so với các nước trong khu vực. Vị trí của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trên trường quốc tế hiện nay không cao bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân, ví d ụ như hàng hoá chất lượng thấp, giá cao, thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về thị trường, dịch vụ khách hàng kém, chưa có chiến lược marketing cho mặt hàng kinh doanh… Những điểm hạn chế đó cần có thời gian để thể khắc phục nhưng nền kinh tế khu vực và thế giới đang ngày càng phát triển, do đó nó đòi hỏi sự lỗ lực và sự đổi mới không ngừng của mỗi doanh nghiệp. Cuối cùng là hình thành một chiến lược, chính sách kinh doanh d ượt đuổi như thế nào? Làm sao xác định chính xác các lợi thế cạnh tranh dài hạn tập trung được các nguồn lực để có sức mạnh tổng hợp. Muốn tồn tại và phát triển trong bối cảnh hiện nay phải có chiến lược tốt, phát huy lợi thế cạnh tranh, do đó đây là thách thức không tránh khỏi của doanh nghiệp thương mại. Vài năm chuẩn bị cho quá trình hội nhập chỉ là khoảng thời gian ngắn ngủi với nhiều thách thức và khó khăn ở phía trước nhưng các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đang không ngừng đổi mới hoạt động kinh doanh của mình nhằm đạt được những mục tiêu của doanh nghiệp và mục tiêu của xã hội. 18
- 3. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại Ngày nay, trong điều kiện của một nước đang hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp thương mại Việt Nam có rất nhiều cơ hội để phát triển và cũng có không ít thách thức để vượt qua, nhất là khi Việt Nam tham gia đầy đủ vào Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vài năm tới. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các doanh nghiệp đến nay chưa thực sự có sự chuẩn bị chu đáo, thậm chí chưa ý thức đầy đủ cho sự tham gia vào một thị trường chung trong khuôn khổ ASEAN, nơi mức độ cạnh tranh sẽ tăng cao. Nói chung, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự “thờ ơ” của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trước yêu cầu hội nhập. Về tâm lý, nhiều lãnh đ ạo doanh nghiệp rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan do trình độ hạn chế, thiếu thông tin cũng như sự hiểu biết nên lúng túng trong việc lựa chọn hướng đi cho doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Nước ta đang trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường. Thể chế kinh tế thị trường của ta còn thiếu đồng bộ, trình độ vận hành và điều hành còn thấp. Trong khi đó, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải “chơi” theo “luật chơi” của thị trường. Thực trạng khó khăn này đ òi hỏi doanh nghiệp thương mại cần có sự lỗ lực lớn, thực hiện những đổi mới nghiêm túc và toàn diện hoạt động kinh doanh giữ vững vị thế của doanh nghiệp trên thị trường trong nước, từng bước len chân sang thị trường khu vực và thâm nhập thị trường thế giới. Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến một số mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. a) Công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp thương mại hiện nay không chỉ dừng lại tại thị trường trong nước mà cần tiến hành trên cả thị trường nước ngoài. Toàn cầu hóa nền kinh tế làm cho nền kinh tế của mỗi nước ho à vào nền kinh tế thế giới, sản phẩm của một doanh nghiệp không chỉ tiêu thụ trong nước mà có thể tiêu thụ trên toàn cầu. Ngược lại sản phẩm của doanh nghiệp cũng 19
- phải chịu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước khác. Vì vậy, các doanh nghiệp thương m ại cần phải có thông tin đầy đủ chính xác về thị trường, phát hiện những nhu cầu lớn có hướng tiêu thụ trên thị trường quốc tế và báo động những nguy cơ cạnh tranh, nguy cơ bị lấn át. Quá trình cạnh tranh trên toàn cầu ngày càng trở nên gay gắt nên muốn có được vị trí trên thị trường thì cần nắm kịp thời thông tin. Doanh nghiệp thương mại Việt Nam hiện nay còn kém nhạy bén trong vấn đề nắm bắt thông tin trên thị trường quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp thương mại dựa vào nguồn thông tin từ các tổ chức làm công tác thông tin thương mại như Trung tâm thông tin Thương mại, Ban xúc tiến Thương mại trực thuộc Bộ Thương mại, và các báo chí khác như Sài Gòn Times, Vietnam Invesment… Tuy các tổ chức trên đã cung cấp nhiều thông tin kinh tế góp phần quan trọng vào kết quả kinh doanh và sự phát triển của các doanh nghiệp thương m ại, nhưng chất lượng thông tin mà các tổ chức đó cung cấp chưa cao, thiếu chiều sâu, còn dàn trải, thiếu tính hệ thống. Các thông tin mới dừng lại ở dạng thô, chưa được xử lý, dó đó hạn chế việc sử dụng nguồn thông tin này của doanh nghiệp thương mại. Hơn nữa, doanh nghiệp thương mại Việt Nam không chỉ thiếu thông tin mà những thông tin có được nhiều khi là những thông tin nhiễu nên không đem lại hiệu quả kinh doanh, thậm chí là thua lỗ cho doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp thương mại cần có cần nỗ lực phát huy khả năng của chính doanh nghiệp tiến hành công tác nghiên cứu thị trường vượt ra khỏi biên giới quốc gia, ngoài những thông tin cần thiết thông thường về hàng hoá doanh nghiệp kinh doanh còn cần có những thông tin khác về thị trường tại quốc gia mà doanh nghiệp dự định thâm nhập, cụ thể như: + Những thông tin đại cương về quốc gia đó, ví dụ như dân số, vị trí địa lý, văn hoá, thể chế chính trị, pháp luật… + Những thông tin cụ thể cho việc kinh doanh như đồng tiền và chế độ tỉ giá hối đoái của nước đó, hệ thống thanh toán, khả năng dự trữ về ngoại tệ… chính sách về ngoại thương, các công cụ về thuế… + Thông tin về dung lượng thị trường, về tình hình cung cấp, về giá cả và thị hiếu người dân đối với mặt hàng doanh nghiệp kinh doanh… 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bình trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước
112 p | 459 | 167
-
Luận văn: Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
111 p | 300 | 83
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đổi mới hoạt động giảng dạy tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông tại Bình Dương
116 p | 153 | 48
-
Luận văn: Quá trình đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến 2002: thành tựu và kinh nghiệm
143 p | 184 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 70 | 23
-
Luận văn thạc sỹ kinh tế: Đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
99 p | 106 | 21
-
LUẬN VĂN: Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chớnh sách xã hội tỉnh Quảng Nam
80 p | 92 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
120 p | 62 | 20
-
Luận văn: Thực trạng hoạt động Phương hướng và giải pháp góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty cà phê Việt nam
39 p | 154 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động của phóng viên nước ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
12 p | 109 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị văn phòng: Đổi mới hoạt động quản lý, điều hành công tác văn phòng tại Bộ Khoa học và Công nghệ
104 p | 55 | 12
-
LUẬN VĂN: Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam
94 p | 67 | 10
-
Luận văn: Đổi mới tổ chức và hoạt động Công ty TNHH NN MTV Cơ Khí Trần Hưng Đạo
76 p | 95 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản lý đổi mới hoạt động kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh các trường trung học phổ thông tỉnh Kon Tum
26 p | 87 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
26 p | 42 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Đổi mới hoạt động tuyển dụng giáo viên tiểu học ở huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên
112 p | 42 | 6
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Đổi mới hoạt động thông tin - thư viện tại thư viện tỉnh Nghệ An
12 p | 105 | 4
-
Đề án tốt nghiệp Quản lý công: Đổi mới hoạt động của Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk
73 p | 2 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn