intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại Xã Cốc Mỳ Huyện Bát Xát Tỉnh Lào Cai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

25
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại Xã Cốc Mỳ Huyện Bát Xát Tỉnh Lào Cai” nhằm góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng theo quan điểm bền vững, đáp ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn miền núi. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại Xã Cốc Mỳ Huyện Bát Xát Tỉnh Lào Cai

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------------------------------- ĐOÀN THỊ THUÝ NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CHO QUY HOẠCH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG TẠI XÃ CỐC MỲ HUYỆN BÁT XÁT TỈNH LÀO CAI Chuyên ngành: LÂM HỌC Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Bá Ngãi Hà Nội - 2009
  2. Lêi c¶m ¬n Để hoàn thành chương trình đào tạo Sau đại học tại trường đại học Lâm nghiệp Việt Nam, gắn việc đào tạo với thực tiễn sản xuất, tôi thực hiện luận văn: “ Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại Xã Cốc Mỳ Huyện Bát Xát Tỉnh Lào Cai”. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường đại học Lâm nghiệp, khoa đào tạo Sau đại học, các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy PGS - TS Nguyễn Bá Ngãi, người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho tôi trong thời gian học tập cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn. Xin bày tỏ lòng biết ơn tới tập thể lãnh đạo, cán bộ: Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Khoa học công nghệ, Sở Nông nghiệp và PTNT, Chi cục phát triển Lâm nghiệp tỉnh Lào Cai; UBND huyện Bát Xát; Phòng Tài nguyên và Môi trường, Trạm Kiểm lâm, Trạm Khuyến nông, Phòng Kinh tế huyện Bát Xát; UBND xã Cốc Mỳ; …cùng toàn thể các đồng nghiệp và bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này. Mặc dù đã làm việc với tất cả sự nỗ lực, nhưng về trình độ, thời gian có hạn cho nên Luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, xây dựng quý báu của các nhà khoa học và các bạn đồng nghiệp. Tôi xin trân thành cảm ơn! Hà nội, tháng 10 năm 2009 Tác giả
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam có diện tích đất lâm nghiệp rất rộng lớn, với ¾ tổng diện tích đất tự nhiên là đồi núi đều thuộc đất lâm nghiệp. Do diện tích quá lớn như vậy nên việc quản lý sử dụng đất lâm nghiệp hợp lý luôn là vấn đề nóng bỏng, cấp bách trong những năm qua. Việc làm giảm và suy thoái rừng cả về diện tích và chất lượng, việc sử dụng không hợp lý đất rừng trong sản xuất kinh doanh đã làm cho đất rừng ngày càng bị thoái hóa nghiêm trọng. Qui hoạch sử dụng đất là một trong những hoạt động rất quan trọng, đặc biệt đối với sản xuất lâm nông nghiệp. Việt Nam với đặc điểm là địa hình đa dạng phức tạp, phân hoá mạnh, cùng với nền kinh tế xã hội và nhu cầu của người dân trong nền kinh tế thị trường cũng hết sức phong phú. Việc quy hoạch, sử dụng rừng và đất rừng có hiệu quả là công việc được quan tâm của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng đang là mục tiêu chiến lược của một nền lâm nghiệp bền vững. Do vậy, việc qui hoạch sử dụng đất cho các cấp quản lý, các đơn vị sản xuất kinh doanh . . . đã ngày càng trở thành một đòi hỏi thực tế khách quan. Quy hoạch Bảo vệ phát và triển rừng là một hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang tính pháp lý của hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế, xã hội. Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng thực chất là quá trình ra quyết định sử dụng rừng và đất rừng như một tư liệu sản xuất đặc biệt, nhằm mục tiêu sử dụng rừng và đất rừng một cách hiệu quả. Trong phát triển KTXH của NTMN nước ta, QH Bảo vệ phát và triển rừng cấp xã có sự tham gia của người dân giữ một vị trí hết sức quan trọng, nhằm giúp người dân có thể tham gia tích cực vào QH Bảo vệ phát và triển rừng của mình một cách hợp lý, có hiệu quả trên nguyên tắc bền vững, bảo đảm hài hoà giữa lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và môi trường sinh thái.
  4. 2 Công tác Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng luôn được chú trọng và coi là nhiệm vụ chiến lược trong quản lý rừng và đất rừng, đặc biệt là Quy hoạch Bảo vệ phát triển rừng cấp xã. Năm 2004 Luật Bảo vệ và phát triển rừng ra đời và Nghị định số 23/2006/NĐ-CP về thi hành Luật bảo vệ và phát triển rừng của Chính Phủ yêu cầu tỉnh, huyện, xã phải xây dựng quy hoạch và kế hoạch bảo vệ phát triển rừng. Trên cơ sở đó tiến hành sử dụng các biện pháp Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng nhằm đưa ra phương pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cho từng địa phương. Theo điều 15 của Luật Bảo vệ và phát triển rừng nêu rõ nội dung quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng bao gồm: Nghiên cứu, tổng hợp, phân tích tình hình về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quy hoạch sử dụng đất, hiện trạng tài nguyên rừng; Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng kỳ trước, dự báo các nhu cầu về rừng và lâm sản; … Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng của xã thường được xây dựng trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất của xã , công tác quy hoạch cấp xã vẫn còn nhiều hạn chế về mặt quan điểm, phương pháp tiến hành và các cơ sở lập kế hoạch sử dụng đất. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách phức tạp, không thống nhất và khó áp dụng vào điều kiện cụ thể của từng địa phương. Sự phân định ranh giới trên thực địa, tiêu chuẩn phân chia các loại đất, các loại rừng chưa cụ thể gây khó khăn cho công tác quy hoạch bảo vệ phát triển rừng cũng như phân bổ sử dụng đất rừng giữa các ngành sản xuất. Hiện nay trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cần có những phương pháp biện pháp phù hợp hơn để xã có thể tự tiến hành quy hoạch. Những yêu cầu này đặt ra là hết sức cấp bách để sau năm 2010 tất cả các xã tiến hành xong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng và xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2010 - 2020. Xã Cốc Mỳ huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai đã tiến hành qui hoạch sử dụng đất nhưng chưa tiến hành quy hoạch lập kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã.
  5. 3 Việc quy hoạch lập kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của xã là căn cứ để tiến hành thực hiện các hoạt động bảo vệ phát triển rừng, tổ chức tiến hành kinh doanh sản xuất lâm nghiệp. Để giải quyết được mục tiêu nhiệm vụ trên, công tác qui hoạch sử dụng đất cho phát triển sản xuất lâm nông nghiệp cần phải được thay đổi bằng phương pháp mới phù hợp hơn để các xã có thể tự tiến hành qui hoạch mà vẫn đảm bảo yêu cầu chất lượng công việc. Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn trên, tác giả thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại Xã Cốc Mỳ Huyện Bát Xát Tỉnh Lào Cai” nhằm góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng theo quan điểm bền vững, đáp ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất kinh trên địa bàn nông thôn miền núi.
  6. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Thế giới Từ thế kỷ 17 quy hoạch lâm nông nghiệp được xem như là một chuyên ngành bắt đầu bằng các quy hoạch vùng . Theo Olschowy [80, tr.37- 44] vào thời gian này quy hoạch quản lý rừng và lâm sinh ở Châu Âu được xem như là một lĩnh vực phát triển ở mức cao trên cơ sở QHSD đất. Từ thế kỷ 18, loài người đã bắt đầu nghiên cứu về đất. Kết quả của những công trình nghiên cứu về phân loại, xây dựng bản đồ và quản lý đất đai làm cơ sở quan trọng cho việc quản lý và sử dụng đất đai, tăng năng suất trong sản xuất nông lâm nghiệp. Vào thế kỷ 18, theo Behrens [84,tr.80] thì “Lý thuyết về khu nông nghiệp” của Johan H. Thuenen đưa ra năm 1826 đã đánh dấu mốc lịch sử về lợi dụng canh tác nông nghiệp của các diện tích đất đai tại Đức. Lý thuyết này chỉ chú ý đến các yếu tố kinh tế xã hội cho quy hoạch sản xuất nông nghiệp. Ông cho rằng khoảng cách giữa khu sản xuất và nơi tiêu thụ sản phẩm là một tham số kinh tế, các khu sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi cần được quy hoạch xung quanh trung tâm tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, hình thành “Vành đai Thuenen” là cơ sở cho quy hoạch sản xuất lâm nông nghiệp. Công trình nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất đã được quan tâm từ thế kỷ thứ 19. Các công trình nghiên cứu trên lĩnh vực này liên tục phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng. Công trình này đã đạt những thành tựu về phân loại đất và xây dựng bản đồ đất, được sử dụng làm cơ sở quan trọng cho việc tăng năng suất và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả. Mô hình sử dụng đất đầu tiên trên thế giới là du canh, chính là những hệ thống nông nghiệp trong đó đất được phát quang để canh tác trong một thời gian bỏ hoá [Conklin, (1957)]. Du canh được xem là phương thức canh tác cổ xưa nhất nó ra đời vào cuối thời kỳ đồ đá mỗi khi con người đã tích luỹ được những kiến thức
  7. 5 ban đầu về tự nhiên. Loài người đã vượt qua thời kỳ này bằng cuộc cánh mạng về kỹ thuật và trồng trọt. Mặc dù hạn chế nhiều mặt về môi trường sinh thái, song phương thức này vẫn được sử dụng khá phổ biến ở các vùng nhiệt đới. Về chiến lược phát triển kinh tế bền vững, du canh không được nhiều chính phủ và cơ quan quốc tế coi trọng bởi vì du canh được coi như là sự phí phạm về sức người, tài nguyên đất đai, là nguyên nhân chính gây ra xói mòn và thoái hoá đất, dẫn đến tình trạng sa mạc hoá xảy ra nghiêm trọng. Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946 Jacks G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên “Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất” [77,tr.43-90]. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Từ năm 1967 Hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với tổ chức FAO tổ chức nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và quy hoạch sử dụng đất. Các hội nghị này khẳng định rằng quy hoạch vùng nông thôn trong đó quy hoạch các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến nhỏ . . . cũng như quy hoạch cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai. Năm 1971 và 1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thụy Sỹ) để thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn. Nội dung các cuộc thảo luận đã đề cập đến các phương pháp cùng tham gia trong quy hoạch cấp vĩ mô. Năm 1985 một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng đất. Theo Purnell năm 1988, mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất đựợc các chuyên gia xác định là “Thiết lập các kế hoạch thực tiễn có khả năng sử dụng tốt nhất các loại đất đai nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau để tăng sản xuất quốc gia, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, đạt các lợi ích xã hội và giải trí”. Bốn câu hỏi nền tảng
  8. 6 của quy hoạch đất đai là [81, tr.9-12]: Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu quy hoạch là gì? Có các phương án sử dụng đất nào? Phương án nào là tốt nhất? Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?. Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh luật pháp. Ông đề nghị “Một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển nhằm mục đích: cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp, yêu cầu sử dụng theo quy trình kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và khuyến khích xây dựng cơ chế giám sát và cưỡng chế” [82, tr. 160]. Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về quy trình quy hoạch vào năm 1988. Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện) cấp cộng đồng (xã, thôn) [72, tr. 67-76]. Ông còn đề xuất quá trình quy hoạch gồm 4 giai đoạn và 10 bước. Năm 1976, trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính [73, tr. 87]. Trong đó phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét như là các bước chính trong quá trình quy hoạch. Vấn đề quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu và công bố kết quả. Tại cuộc Hội thảo giữa Trường đại học lâm nghiệp Việt Nam và Trường tổng hợp kỹ thuật Dresden, vấn đề quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân đã được Holm Uibrig đề cập khá đầy đủ và toàn diện [83]. Tài liệu đã phân tích một cách đầy đủ về mối quan hệ giữa các loại hình canh tác có liên quan như: Quy hoạch rừng, vấn đề phát triển nông thôn, quy hoạch sử dụng đất, phân cấp hạng đất và phương pháp tiếp cận mới trong quy hoạch sử dụng đất . . . Một vài kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới Từ các tài liệu nghiên cứu trên , đề tài đưa ra một số kết luận như sau:
  9. 7 - Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã phải lấy quy hoạch sử dụng đất làm nền tảng, kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của cấp trên với nhu cầu của cộng đồng thông qua sự tham gia trực tiếp của người dân. - Phân tích được mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cấp quy hoạch lâm nông nghiệp, đặc biệt là cấp địa phương: xã, thôn bản và hộ gia đình để xác định rõ nội dung và phương pháp quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng có tính đặc thù riêng của mỗi cấp. - Các phương pháp đánh giá đất đai của FAO, quy trình lập kế hoạch sử dụng đất cần được áp dụng trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã, nhưng nên điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh của cộng đồng nông thôn Việt Nam. - Phương pháp cùng tham gia, phân tích hệ thống canh tác được coi là công cụ quy hoạch cấp xã cần được vận dụng vào đặc điểm kinh tế văn hoá xã hội và thể chế chính sách của Việt Nam. 1.2. Việt Nam Từ thế kỷ 15, những hiểu biết về kinh nghiệm sử dụng đất đã được chú ý và tổng hợp thành tài liệu. Trong “Vân Đài Loại Ngữ” của Lê Quý Đôn đã khuyên nông dân áp dụng luân canh lúa với cây họ đậu để tăng năng suất lúa. Trong thời kỳ pháp thuộc các công trình nghiên cứu đánh giá và QHSDĐ đai đã được các nhà khoa học Pháp nghiên cứu. Trong giai đoạn 1955 - 1975, công tác điều tra phân loại đã được tổng hợp một cách có hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc. Nhưng phải đến sau năm 1975 các số liệu nghiên cứu về phân loại đất mới được thống nhất. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật Tiến, 1986; Đỗ Đình Sâm, 1994…). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất cần thiết cho việc sử dụng đất, công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác sử dụng đất.
  10. 8 Về quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta có quan điểm rất rõ ràng. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Luật Đất đai năm 2003 tại điều 13 quy định rõ có 3 loại đất chính, đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng với 6 quyền sử dụng tuỳ theo từng loại đất và mục đích sử dụng mà được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng. Luật Đất đai nêu rõ trong mục 2 quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại điều 23 là lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai là một trong những nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai [18]. Luật Đất đai là cơ sở pháp lý cơ bản nhất cho quy hoạch nông lâm nghiệp. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 phân định rõ 3 loại rừng làm cơ sở cho quy hoạch lâm nghiệp [19]. Theo biên bản hội thảo quốc gia về “Quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp” năm 1997 nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu tính thống nhất giữa 2 luật: Luật đất đai và Luật bảo vệ và phát triển rừng trong quy hoạch và giao đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp, xác định rõ vai trò của địa phương, đặc biệt là cấp xã trong quy hoạch và giao đất giao rừng [2]. Trong Nghị định 64/CP, điều 15 có nêu một số quyền hạn của cấp xã trong sử dụng đất công ích [36], trong khi văn bản quan trọng nhất về giao đất lâm nghiệp là Nghị định 02/CP lại ít đề cập đến vai trò của cấp xã [37]. Nghị định của Chính phủ số 163/1999/NĐ-CP ra ngày 16 tháng 11 năm 1999 về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp có một số điều nói tới nhiệm vụ và quyền hạn cấp xã trong quy hoạch và giao đất lâm nghiệp [40]. Nghị định 01/CP xác định vai trò cấp xã như là cơ quan Nhà nước chứng nhận các hộ nông dân để được nhận khoán đất (điều 3 mục 3) [38]. Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến quy hoạch nông lâm nghiệp cấp địa phương, coi quy hoạch sử dụng đất là cơ sở nền tảng cho các quy hoạch khác và
  11. 9 là cơ sở cho giao đất, lập kế hoạch sử dụng đất, xây dựng các dự án phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có các quy định cụ thể về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương, đặc biệt là cấp xã. Những điểm liên quan đến quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã chưa được thống nhất. Trên thực tế cấp xã mới có định hướng và mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Ngay cả khi xây dựng định hướng phát triển kinh tế - xã hội và sản xuất cũng gặp một số khó khăn khi vận dụng những chính sách có liên quan. Một số vấn đề liên quan đến Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng cần thống nhất, nhất là việc phân định các loại đất trong luật đất đai và phân loại rừng trong luật bảo vệ và phát triển rừng. Các văn bản dưới luật cần cụ thể hoá cho từng điều kiện địa phương đảm bảo tính đa mục đích sử dụng của đất đai, tạo điều kiện cho quy hoạch lâm nông nghiệp tránh chồng chéo và mâu thuẫn. Từ thời nguyên thủy, rừng tự nhiên đã che phủ phần lớn diện tích mặt đất của trái đất, nhưng do những tác động của con người như khai thác lâm sản, khai phá lấy đất làm nông nghiệp, xây dựng, đô thị hoá.. cho đến nay diện tích rừng tự nhiên đã bị giảm đi đáng kể. Chỉ tính riêng giai đoạn 1990 - 1995 ở các nước đang phát triển đã có hơn 65 triệu ha rừng bị mất. Tính đến năm 1995 diện tích rừng toàn thế giới, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng chỉ còn 3.454 triệu ha, tỷ lệ che phủ chỉ khoảng 35%. Hiện nay mỗi tuần trên thế giới có khoảng 500.000 ha rừng tự nhiên bị biến mất hoặc bị thoái hoá. [64, tr. 103] Năm 1963 các vấn đề về quy hoạch sử dụng đất được khởi xướng ở Việt Nam. Trước đây việc quy hoạch sử dụng đất thường dựa vào các đơn vị hành chính (tỉnh, huyện, xã), quy hoạch theo ngành (Nông, lâm, thuỷ sản), hoặc là quy hoạch dựa theo điều kiện tự nhiên theo từng vùng, từng khu vực. Đầu thập kỷ 90, các vấn đề quy hoạch lâm nông nghiệp cấp vi mô được nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu. Các nghiên cứu của Reichenberg (1992) [33] và các nhà nghiên cứu trong nước đều cho rằng Việt Nam chưa có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch nông nghiệp và lâm nghiệp cấp vi mô được xây dựng trên
  12. 10 cơ sở xem xét mọi khía cạnh của tất cả các ngành trong tương lai, vì vậy việc tiến hành quy hoạch lâm nông nghiệp còn thiếu cơ sở thực hiện. Năm 1990 Tổng cục quản lý ruộng đất có ban hành bản hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất vi mô theo thông tư số 106/ĐKTĐ [47]. Nhiều tỉnh đã triển khai thực hiện quy hoạch vi mô theo hướng dẫn này. Tuy nhiên, khi triển khai gặp những khó khăn về phương pháp chưa thống nhất, ví dụ ở Tuyên Quang không quá 10 xã trên 200 xã thực hiện. Quy hoạch vi mô cũng là tiền đề để thay đổi cách nhìn về quy hoạch cấp xã trong những năm tiếp theo. Khi khảo sát 5 tỉnh Trung tâm miền núi phía bắc Việt Nam, Reichenberg năm 1992 cho rằng quy hoạch vi mô ở Việt Nam nên được nghiên cứu để phát triển khái niệm quy hoạch cấp xã trên 4 khía cạnh sau [33]: - Phủ toàn bộ đất đai trong xã, nghĩa là quy hoạch lâm nông nghiệp dựa trên quy hoạch sử dụng đất trên toàn bộ diện tích hành chính trong xã. - Phối hợp các kế hoạch và các hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước, nghĩa là khi quy hoạch phải đề cập đến quy hoạch của các ngành do cơ quan quản lý Nhà nước quản lý. - Quy hoạch sử dụng đất phục vụ cho giao đất và cấp giấy chứng nhận để sử dụng đất tốt hơn, tạo điều kiện cho cộng đồng tiến hành quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, cơ sở hạ tầng. - Chuẩn bị và phê duyệt quy hoạch đất theo đúng luật định. Trong đầu những năm 90, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ra đời năm 1991 được sửa đổi thay thế vào năm 2004, Luật Đất đai sửa đổi năm 1993 và đặc biệt là các Nghị định 02 năm 1994, Nghị định 01 năm 1995, Nghị định 64 năm 1993 là cơ sở tiền đề cho quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã. Cùng lúc ra đời của Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, nhiều ý kiến cho rằng quy hoạch vĩ mô là quy hoạch phản ánh hiện trạng và phân chia 3 loại đất sử dụng và 3 loại rừng. Hai định nghĩa mới được xác nhận cho quy hoạch quốc gia và cấp tỉnh. Các nhà khoa học trong nước và nước ngoài đều
  13. 11 cho rằng quan điểm quy hoạch nông lâm nghiệp cấp địa phương nên theo các hướng sau: Tiến hành nghiên cứu và thực thi khả năng kết hợp quy hoạch lâm nông nghiệp dựa vào chức năng sử dụng của đất với đánh giá tiềm năng của đất. Rà soát và xem xét lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích sử dụng đất đai bằng việc đa dạng hoá các hoạt động sản xuất trong mỗi bản quy hoạch của cộng đồng. Gắn 2 quá trình quy hoạch đất đai với giao đất và coi là 2 bộ phận có quan hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sản xuất lâm nông nghiệp ở mỗi địa phương, mỗi cộng đồng. Trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm, năm 1996 Cục kiểm lâm cho ra đời tài liệu hướng dẫn “Nội dung trình tự tiến hành GĐLN trên địa bàn xã” [10]. Những yêu cầu về chuyên môn và phương pháp trong hướng dẫn này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều ra rừng trước đây. Bản hướng dẫn này cần hoàn thiện theo hướng dừng lại ở những nguyên tắc và phương pháp cơ bản, không nên hướng dẫn chi tiết dẫn đến ngộ nhận rằng việc QHSDĐ nông lâm nghiệp cấp địa phương theo một chu trình cứng. Nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp cùng tham gia trong quá trình quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ thể trong quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã. Sự tham gia của người dân trong quá trình quy hoạch là một khái niệm mới. Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 cho rằng "Điểm quan trọng là thu hút người dân tham gia vào tất cả các giai đoạn trong quá trình quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp ngay từ khi bắt đầu. Sự tham gia này tất nhiên sẽ khác nhau về phạm vi và mức độ tuỳ theo nội dung hoạt động và giai đoạn tiến hành" [22]. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Nguyễn Bá Ngãi, Ngô Nhật Tiến, 1986; Đỗ
  14. 12 Đình Sâm, 1994;…). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất cần thiết cho việc sử dụng đất, công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác sử dụng đất. Những thành tựu về nghiên cứu đất đai trong giai đoạn trên là cơ sở quan trọng góp phần vào việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả trong cả nước. Về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp cấp xã, việc nghiên cứu và thí điểm đầu tiên được thực hiện tại xã Tử Nê huyện Tân Lạc và xã Hang Kia, Pà Cò huyện Mai Châu tỉnh Hoà Bình do Dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp từ năm 1993. Theo Nguyễn Văn Tuấn năm 1996, quy hoạch sử dụng đất được coi là một nội dung chính và được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản, chính quyền xã [50]. Bản đánh giá về trường hợp Tử Nê cho thấy cần phải có một kế hoạch sử dụng đất chi tiết hơn hiện nay thì mới đáp ứng được yêu cầu, tránh được các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch. Công tác QHSD đất trên qui mô cả nước giai đoạn 1995 - 2000 đã được tổng cục địa chính xây dựng vào năm 1994. Trong đó việc lập kế hoạch giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác cũng được đề cập tới. Báo cáo đánh giá tổng quát hiện trạng sử dụng đất và định hướng phát triển đến năm 2000 làm căn cứ để các địa phương, các ngành thống nhất triển khai công tác qui hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất [16]. Chương trình phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 1996 - 2000 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển cấp thôn và hộ gia đình. Theo Bùi Đình Toái và Nguyễn Văn Nam năm 1998, tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến hành quy hoạch sử dụng đất, tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập
  15. 13 kế hoạch sử dụng đất 3 cấp: xã, thôn và hộ gia đình. Đến năm 1998 trên toàn vùng dự án có 78 thôn bản được quy hoạch sử dụng đất theo phương pháp cùng tham gia. Phương pháp quy hoạch sử dụng đất dựa trên PRA căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người sử dụng đất, với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn [25]. Tuy nhiên, phương pháp trên cũng bộc lộ một số mâu thuẫn giữa nhu cầu của cộng đồng và định hướng của Nhà nước và các kế hoạch của tỉnh, huyện. Vấn đề nghiên cứu ở đây là có một phương pháp quy hoạch địa phương sao cho kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của chính phủ và nhu cầu của cộng đồng. Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 đã thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân tại Quảng Ninh và đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch cấp xã đóng góp vào phát triển phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: Kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của chính phủ và các nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa phương; Tiến hành trong khuôn khổ luật định hiện hành và các nguồn lực hiện có của địa phương; Đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; Đảm bảo phát triển bền vững; Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia; Kết hợp và hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng [22, tr.76 - 86], [23]. Từ kết quả thử nghiệm ở Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sông Bé, Vũ Văn Mễ cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu nguyện vọng của người dân, xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và sử dụng tài nguyên [22, tr.76 - 86], [23]. [50]. Cách tiếp cận tổng hợp và toàn diện này phù hợp với xu thế chung của thế giới hiện nay về áp dụng các phương pháp quy hoạch tổng hợp. Trong 2 năm 1996 và 1997, trong quá trình triển khai dự án Quản lý nguồn nước hồ Yên Lập có sự tham gia của người dân tại Hoành Bồ - Quảng Ninh, Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự thử nghiệm phương pháp lập kế hoạch có sự
  16. 14 tham gia của người dân để quy hoạch lâm nông nghiệp cho 3 xã: Bằng Cả, Quảng La và Dân Chủ. Phương pháp PRA được sử dụng để quy hoạch lâm nông nghiệp và xây dựng dự án cấp xã, thôn cho 5 lĩnh vực: Quy hoạch lâm nghiệp và cây ăn quả cho quản lý rừng phòng hộ, quy hoạch trồng trọt, quy hoạch chăn nuôi và đồng cỏ, quy hoạch phát triển thuỷ lợi và quy hoạch mạng lưới tín dụng thôn bản [24], [28]. Sau 3 năm thực hiện cho thấy bản quy hoạch phù hợp với tình hình hiện tại. Tuy nhiên, những hạn chế do thiếu nghiên cứu về đất, phân tích hệ thống canh tác dẫn đến việc lựa chọn cây trồng chưa hợp lý. Nguyễn Bá Ngãi đúc rút giai đoạn I của dự án tại Hoành Bồ - Quảng Ninh, những kết quả nghiên cứu tại 3 điểm nghiên cứu được trình bày trong đề tài nghiên cứu sinh, tác giả đã vận dụng quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp cho 4 xã mở rộng của huyện Hoành Bồ bằng phương pháp kết hợp giữa PRA với các phương pháp đối thoại và phối hợp các đối tác, trong đó phương pháp phân tích hệ thống canh tác được sử dụng cho việc xác định cây trồng [31]. Trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm nhiều nơi, năm 1996 Cục kiểm lâm cho ra tài liệu hướng dẫn “Nội dung trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã” [10, tr.58-79]. Đây là tài liệu sửa đổi lần thứ 2 có nhiều bổ sung của tài liệu năm 1994, nó đáp ứng phần nào về những hướng dẫn cơ bản về nội dung và nguyên tắc. Những yêu cầu về chuyên môn và phương pháp trong hướng dẫn này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều tra rừng trước đây. Dự án Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại hai xã của 2 huyện Yên Châu (Sơn La) và Tủa Chùa (Lai Châu) trên cơ sở hướng dẫn của Cục kiểm lâm. Với cách làm 6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị chính để quy hoạch và giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội đối với cộng đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt. Sự khác biệt với các chương trình khác là lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch phù hợp với đặc thù
  17. 15 vùng cao. Lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch và lập kế hoạch là phù hợp với kết quả nghiên cứu xã hội và cộng đồng của Donovan năm 1997 [14] ở miền Bắc Việt Nam. Năm 1999 và 2000 Nguyễn Bá Ngãi cùng với nhóm tư vấn của Dự án khu vực lâm nghiệp Việt Nam - ADB đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một phương pháp quy hoạch nông lâm nghiệp cấp xã có sự tham gia của người dân để xây dựng tiểu dự án lâm nông nghiệp cho 50 xã của 4 tỉnh: Thanh Hoá, Gia Lai, Phú Yên và Quảng Trị, [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30]. Kinh nghiệm rút ra từ việc áp dụng phương pháp này là: - Việc tiến hành quy hoạch phải dựa trên kết quả đánh giá và điều tra nguồn lực một cách chi tiết và đầy đủ. - QHSD đất là cơ sở quan trọng cho quy hoạch lâm nông nghiệp. - Tiến hành phân tích hệ thống canh tác làm cơ sở cho việc lựa chọn cây trồng và phương thức sử dụng đất. - Quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã phải được tiến hành từ lập kế hoạch cấp thôn bản bằng phương pháp có sự tham gia trực tiếp của người dân như PRA. - Tổng hợp và cân đối kế hoạch cho phạm vi cấp xã trên cơ sở: định hướng phát triển chiến lược của huyện, tỉnh; khả năng hỗ trợ từ bên ngoài; đối thoại và thống nhất trực tiếp giữa đại diện các cộng đồng với nhau, giữa đại diện các cộng đồng với cán bộ tỉnh, huyện và dự án; có sự nhất trí chung của toàn xã thông qua các cuộc họp cộng đồng cấp thôn hoặc xóm. Một vài kết luận rút ra từ nghiên cứu và kinh nghiệm của Việt Nam Tổng kết các tài liệu nghiên cứu trên cho phép rút ra một số kết luận như sau: Hiện nay Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu đầy đủ về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương, nhìn chung ở cấp xã đã có một vài nghiên cứu thử
  18. 16 nghiệm về quy hoạch sử dụng đất cấp địa phương được thực hiện ở miền Bắc Việt Nam nhưng chưa đầy đủ, chưa được tổng kết, đánh giá và phát triển thành phương pháp luận. Công tác quy hoạch thường dựa vào ý kiến chủ quan của nhà quy hoạch, thiếu sự quan tâm đến nhu cầu nguyện vọng của người dân.QHSDĐ thường dựa trên chức năng của đất đai, lấy mục đích sử dụng đất làm đối tượng quy hoạch sản xuất, chưa chú trọng tới việc phân tích đánh giá tiềm năng của đất đai cũng như khả năng thực tế tại cộng đồng. Ở các chương trình, dự án khác nhau thì áp dụng một phương pháp quy hoạch khác nhau, thiếu sự thống nhất chung về mặt phương pháp một cách toàn diện. Phương pháp quy hoạch dựa trên thuộc tính của đất đai mà ít xem đến tiềm năng của đất đai, nhu cầu, khả năng thích ứng của cây trồng và thị trường. Phương pháp quy hoạch có sự tham gia của người dân đang được chú ý và thí điểm ở một số nơi. Những kết quả đưa ra tuy đạt được một số thành công nhưng chưa được tổng kết, hiệu quả của quy hoạch chưa được khẳng định. Nội dung của quy hoạch lâm nông nghiệp tuy đã được xác định tương đối rõ ràng ở một số nghiên cứu và chương trình dự án. Cơ sở khoa học dùng làm căn cứ cho quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã chưa cụ thể, cơ sở thực tiễn về quy hoạch chưa có tổng kết và đánh giá. Vì vậy nhiều vấn đề đang đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.
  19. 17 CHƯƠNG 2 MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu - Xác định các chính sách, cơ sở khoa học và thực tiễn cho Qui bảo vệ phát triển rừng tại xã Cốc Mỳ huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai. - Đề xuất phương án quy hoạch bảo vệ phát triển rừng tại địa phương. 2.2. Nội dung nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu đề ra, luận văn tiến hành nghiên cứu những nội dung chính sau: - Cơ sở hoá vấn đề lý luận về công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. - Đánh giá tình hình thực hiện chính sách và các vấn đề thực tiễn trong công tác Qui bảo vệ phát triển rừng xã Cốc Mỳ huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai - Đáng giá tác động của việcthực hiện các chính sách và đề xuất các giải pháp cho công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại địa phương. 2.3. Quan điểm nghiên cứu 2.3.1. Quan điểm duy vật biện chứng Quan điểm duy vật biện chứng được thể hiện trong nghiên cứu là đề cao tính thống nhất của hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội toàn quốc của Đảng và Nhà nước, tính thống nhất của hệ thống kế hoạch từ Trung ương tới địa phương, tính đặc thù của mỗi loại kế hoạch ở mỗi cấp và mối quan hệ biện chứng của chúng, đồng thời thừa kế kết quả và kinh nghiệm của từng thời kỳ phù hợp với xu thế chung để vận dụng vào thực tế của nước ta. 2.3.2. Quan điểm sinh thái - kinh tế - nhân văn Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và văn hoá của từng vùng khi nghiên cứu để đánh giá và quy hoạch phát triển phù hợp với thực tiễn, mang lại tính khả thi cao, từ đó lựa chọn phương pháp và điểm nghiên cứu phù hợp là
  20. 18 cơ sở cho quy hoạch. Quan điểm chung trong quy hoạch sử dụng đất là đi nghiên cứu giải quyết mối quan hệ giữa con người và đất đai. 2.3.3. Quan điểm quy hoạch phát triển tổng hợp và bền vững Quan điểm này thể hiện tính liên ngành trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. Trong nghiên cứu phải đề cập tổng hợp và toàn diện. Quy hoạch phải đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững, nghĩa là phải bảo vệ được tài nguyên thiên nhiên, duy trì cân bằng sinh thái và phát triển kinh tế xã hội. 2.3.4. Quan điểm kết hợp giữa định hướng vĩ mô của Nhà nước với nhu cầu của người dân trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng. Quan điểm này thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của Chính phủ với nhu cầu, nguyện vọng của cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng được phát huy một cách đầy đủ để giải quyết các vấn đề của cộng đồng khi mục tiêu của cộng đồng phù hợp với định hướng và ưu tiên của Chính phủ, mặt khác các định hướng và ưu tiên chỉ trở thành hiện thực khi có sự tham gia của cộng đồng. Do đó, khi nghiên cứu, vừa xem xét nhu cầu và khả năng của cộng đồng trên cơ sở phân tích các điều kiện kinh tế xã hội và văn hoá, đồng thời phải nghiên cứu các chính sách của Chính phủ, những khoảng trống, những điểm không phù hợp để làm cơ sở cho các đề xuất. 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Chọn điểm nghiên cứu Trước khi điều tra ngoại nghiệp, các tài liệu liên quan đến đặc điểm kinh tế, sinh thái, nhân văn của vùng nghiên cứu được thu thập và phân tích nhằm tìm hiểu chung về khu vực nghiên cứu. Các tài liệu nghiên cứu cơ bản của Chương trình hợp tác lâm nghiệp Việt Nam - Thụy Điển giai đoạn 1980 - 1985 được thu thập và phân tích. Kết hợp với các tài liệu, báo cáo về kết quả rà soát 3 loại rừng của tỉnh. Chúng tôi xây dựng tiêu chí lựa chọn điểm nghiên cứu như sau: - Xã có diện tích rừng và đất rừng chiếm trên 70% diện tích đất xã - Có kết quả báo cáo rà soát 3 loại rừng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
23=>2