Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp - từ thực tiễn cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam
lượt xem 13
download
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp - từ thực tiễn cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ HOÀNG YẾN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP – TỪ THỰC TIỄN CƠ QUAN BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 838102 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ HOA HÀ NỘI- NĂM 2020
- i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính quốc gia. Tôi xin trân trọng cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hoàng Yến
- ii LỜI CẢM ƠN Trong suốt hai năm học tập và nghiên cứu có được kết quả hôm nay, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em còn được sự quan tâm giúp đỡ của quý thầy, cô Ban Sau đại học và Khoa Nhà nước - Pháp luật và Lý luận cơ sở, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tâm, nhiệt tình và đầy trách nhiệm của Tiến sĩ Lê Thị Hoa, sự giúp đỡ, tạo điều kiện của giáo viên chủ nhiệm lớp, cùng sự giúp đỡ, cổ vũ, động viên của bạn bè, anh, chị, em lớp Luật Hiến pháp và Luật Hành chính LH4.B4. Bên cạnh đó, em còn nhận được sự quan tâm giúp đỡ, động viên từ gia đình và đồng nghiệp nơi em công tác. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn các nhà khoa học, các thầy cô, đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Tiến sĩ Lê Thị Hoa người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học để em bảo vê ḥ oàn thành luận văn thạc sỹ Luật học của mình. Em cũng xin gửi lời cảm ơn những người thân trong gia đình cùng toàn thể bạn bè, đồng nghiệp luôn động viên và tạo điều kiện để em hoàn thành khóa đào tạo. Xin trân trọng cảm ơn./.
- iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP ............................................................................................................... 7 1.1. Bảo hiểm thất nghiệp ............................................................................................ 7 1.2. Khái quát chung pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp .................................... 11 1.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp........................ 32 1.4. Khái lược lịch sử phát triển của pháp luật về BHTN ở Việt Nam .............. 35 1.5. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ....................................................................................... 40 Kết luận chương 1 ............................................................................................. 49 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CƠ QUAN .......................... 50 BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM ................................................................... 50 2.1. Đánh giá thực trạng pháp luật về BHTN ........................................................ 50 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam ... 56 Kết luận chương 2 ............................................................................................. 69 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM ........................................... 71 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp .......................... 71 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp...................... 75 3.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam......................................................................................... 81 Kết luận chương 3 ............................................................................................. 90 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 91
- iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASXH An sinh xã hội BHTN Bảo hiểm thất nghiệp BHVL Bảo hiểm việc làm BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm y tế NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động ILO Tổ chức Lao động quốc tế NTN Người thất nghiệp TCTN Trợ cấp thất nghiệp TTLB Thông tư liên Bộ TTLT Thông tư liên tịch CNTT Công nghệ thông tin HĐLV Hợp đồng làm việc HĐLĐ Hợp đồng lao động
- v DANH MỤC HÌNH Hình 2.1. .............................................................................................................. 58 Hình 2.2: .............................................................................................................. 58 Hình 2.3: .............................................................................................................. 59 Hình 2.4: .............................................................................................................. 60 Hình 2.5: .............................................................................................................. 61 Hình 2.6: .............................................................................................................. 63
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà hầu hết các nước trên thế giới phải đương đầu. Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan và nó được biểu hiện như một đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy người lao động bị thất nghiệp vào tình cảnh túng quẫn, lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình trệ; thất nghiệp còn làm tăng chi tiêu của Chính phủ, của doanh nghiệp và xã hội do phải thực hiện chi trả TCTN và các chi phí cho hoạt động đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, dịch vụ việc làm. Ở Việt Nam, thị trường lao động đang phát triển, nhưng thất nghiệp đã, đang và sẽ là vấn đề cấp thiết mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải tập trung giải quyết. Trước yêu cầu cấp thiết cần phải có chính sách BHTN đối với người lao động ở nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH, trong đó quy định pháp luật về BHTN. Đây là khung pháp lý quan trọng để triển khai BHTN ở Việt Nam có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009. Sau 4 năm thực hiện, ngày 16/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Việc làm, trong đó các quy định pháp luật về BHTN đã được sửa đổi thay thế trong Luật BHXH như: Mở rộng đối tượng tham gia, điều kiện hưởng BHTN và chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề... và được thực hiện bắt đầu từ ngày 01/01/2015. Với nỗ lực bảo đảm ASXH của Đảng và Nhà nước ta, sự ra đời của Pháp luật về BHTN thực sự là một bước tiến lớn trong con đường phát triển của hệ thống ASXH của Việt Nam. Quyền về BHTN được quan tâm song, thực tế cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện như: đối tượng tham gia BHTN còn hạn chế dẫn tới một bộ phận không nhỏ NLĐ chưa được bảo đảm
- 2 quyền lợi khi họ bị mất việc làm; tình trạng NSDLĐ nợ đóng BHTN; sự lợi dụng của NLĐ đối với việc chi trả BHTN, vẫn còn tình trạng lạm dụng chính sách BHTN như NLĐ thôi làm việc tại đơn vị này nhưng vẫn đi làm việc ở đơn vị khác mà vẫn nhận trợ cấp BHTN; công tác đào tạo lại nghề và giới thiệu việc làm cho NLĐ chưa hiệu quả; thủ tục hành chính còn rườm rà, công tác phối hợp giữa hai ngành BHXH và lao động còn chưa nhịp nhàng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho NSDLĐ, NLĐ tham gia và hưởng thụ các chế độ BHTN… Do vậy, việc tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục tình trạng trên là hết sức cần thiết để bảo đảm quyền được BHTN cho người bị mất việc, góp phần củng cố niềm tin của NLĐ đối với chính sách, pháp luật của nhà nước. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp - từ thực tiễn cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình với mong muốn tìm ra những vướng mắc, tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về BHTN trong cả nước nói chung và tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam nói riêng từ đó làm cơ sở để tìm ra những giải pháp nhằm bảo đảm quyền được BHTN của NLĐ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn - Nghiên cứu về “Triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam” năm 2008 do Tiến sĩ Phạm Đình Thành - Viện khoa học BHXH - Bảo hiểm xã hội Việt Nam làm chủ biên. Tác giả đã trình bày lý luận về thị trường lao động, nạn thất nghiệp và hệ thống chính sách việc làm và thị trường lao động, phân tích đặc điểm của thị trường lao động và nạn thất nghiệp ở Việt Nam, phân tích về hệ thống giới thiệu việc làm và dạy nghề và trên cơ sở chính sách BHTN của Việt Nam tác giả đề xuất xây dựng 03 mô hình tổ chức thực hiện chính sách BHTN. Tuy nhiên do yêu cầu phục vụ kịp thời việc triển khai thực hiện chính sách bảo BHTN nên tác giả đã xây dựng mô hình phối hợp tổ chức thực hiện giữa ngành Lao động và ngành Bảo hiểm xã hội như hiện nay. - Nghiên cứu về “Những lý luận cơ bản về bảo hiểm thất nghiệp hiện đại” năm 2009 do tiến sĩ Trịnh Thị Hoa - Trung tâm Nghiên cứu khoa học, Bảo hiểm xã hội Việt Nam làm chủ biên. Tác giả cho rằng thất nghiệp là hiện tượng không
- 3 mong muốn của NLĐ và Chính phủ, nhưng lại thường xuyên xảy ra trong kinh tế thị trường. Để bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, bảo đảm an toàn cuộc sống cho họ, Chính phủ cần triển khai chương trình TCTN. Một trong những giải pháp tích cực đối với chống thất nghiệp là đầu tư tạo ra chỗ làm việc mới. Tác giả đã cho rằng, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc thiết lập chế độ BHTN là cần thiết, đáp ứng yêu cầu bảo vệ NLĐ, nhưng cần có những bước đi thận trọng, tiếp thu kinh nghiệm của các nước để áp dụng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. - Nghiên cứu về “Lý luận về bảo hiểm thất nghiệp” năm 2012 do Phó giáo sư, tiến sĩ Mạc Văn Tiến chủ biên. Nghiên cứu đã phân tích “thất nghiệp” và “lạm phát” là hai vấn đề nan giải nhất của các quốc gia trong nền kinh tế thị trường, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước; ảnh hưởng của thất nghiệp đối với cá nhân và xã hội. Nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp giải quyết vấn đề thất nghiệp; giải pháp kiểm soát thất nghiệp ở tỷ lệ cho phép như nhóm giải pháp tích cực là tạo việc làm cho NLĐ. Đó là các giải pháp tác động vào chủ các doanh nghiệp để tạo ra nhiều chỗ làm việc cho NLĐ, liên quan đến các giải pháp này cần có các dự án phát triển. Để thực hiện thu hút đầu tư, Chính phủ các nước đều có các chính sách khuyến khích đầu tư (trong nước và nước ngoài). Tác giả cho rằng, đầu tư là biện pháp tích cực nhất để tăng số chỗ làm việc trong nền kinh tế. - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ về “Đánh giá và hoàn thiện cơ chế chính sách bảo hiểm thất nghiệp nhằm tăng cường tính bền vững” năm 2013 do Lê Quang Trung làm Chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu đã đề cập gián tiếp về các vấn đề liên quan tới quản lý nhà nước về BHTN như trình tự, thủ tục triển khai hoạt động BHTN. - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ về “Hoàn thiện quản lý BHTN ở Việt Nam” năm 2018 do Tiến sĩ Đỗ Văn Sinh làm Chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu đã đề cập trực tiếp về các vấn đề liên quan tới quản lý nhà nước về BHTN như thực trạng của thất nghiệp và thực trạng quản lý BHTN ở Việt Nam. Nghiên cứu đã phân tích các nguyên tắc về quản lý BHTN, các quy trình thực hiện BHTN và những hạn chế, nguyên nhân của hoạt động quản lý BHTN trong chỉ đạo và phối hợp
- 4 để triển khai các chế độ chính sách về BHTN, từ đó đã đưa ra những phương hướng và giải pháp để hoàn thiện về quản lý BHTN ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn thạc sĩ luật học “BHTN trong Luật bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” (2014) của Ngô Thu Phương đã nêu ra một số nội dung cơ bản của BHTN cũng như thực trạng áp dụng BHTN ở Việt Nam sau 5 năm thực hiện. - Luận văn thạc sĩ luật học “Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” (2017) của Dương Thị Nguyệt Khuê đã nêu ra một số nội dung cơ bản của BHTN cũng như thực trạng áp dụng pháp luật về BHTN ở Việt Nam trong thời gian qua và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTN để bảo đảm sự phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của đất nước. Qua các công trình nghiên cứu trên ở những giác độ khác nhau đã tiếp cận và nghiên cứu Pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu thực tiễn tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam, một cơ quan đang triển khai thực hiện các chính sách về BHTN đối với người lao động. Nghiên cứu Pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay qua thực tiễn tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam sẽ góp phần tìm hiểu, làm sáng rõ cả về lý luận và thực tiễn, qua đó đặt ra những vấn đề cần có giải pháp để hoàn thiện pháp luật về BHTN nói chung và việc triển khai các chính sách pháp luật về BHTN tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về BHTN, phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BHTN ở Việt Nam. - Nhiệm vụ: Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về BHTN và pháp luật về BHTN ở Việt Nam; Thứ hai, tổng hợp, phân tích pháp luật về BHTN của một số quốc gia và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- 5 Thứ ba, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN và thực tiễn thực hiện tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong tổ chức thực hiện pháp luật về BHTN. Thứ tư, đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật trong tổ chức thực hiện pháp luật về BHTN thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò, các yếu tố tác động đến pháp luật về BHTN; lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về BHTN ở Việt Nam; thực tiễn triển khai pháp luật về BHTN đối với NLĐ đang tham gia BHXH tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTN ở Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về BHTN và thực tiễn thực hiện tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam với khoảng thời gian từ 2009 đến năm 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, cũng như quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và pháp luật về BHTN nói riêng. Nội dung nghiên cứu bám sát đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề ASXH, với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn với việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong đó có quyền được BHTN. - Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, quan điểm tiếp cận các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. - Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp cụ thể được sử dụng trong luận văn gồm phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp - diễn dịch... 6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay, góp phần nâng cao nhận thức của
- 6 người dân về BHTN; thực hiện pháp luật về BHTN của các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến quyền được BHTN. Luận văn cũng nêu ra những yêu cầu khách quan của nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật về BHTN ở nước ta. Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về BHTN - từ thực tiễn cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam, luận văn đã chỉ ra những bất cập, khó khăn trong công tác áp dụng, thực thi pháp luật về BHTN. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHTN. Điều này góp phần bổ khuyết cho những thiếu sót của những quy định trong pháp luật về BHTN hiện tại, đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về BHTN trong thời gian tới. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHTN, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục nghiên cứu pháp luật về BHTN. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
- 7 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 1.1. Bảo hiểm thất nghiệp 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp Khái niệm BHTN là một vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ các vấn đề liên quan tới chế định BHTN. Việc xác định rõ khái niệm BHTN có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật về BHTN; thực thi quy trình, thủ tục giải quyết chế độ BHTN; xác định đối tượng của BHTN sao cho phát huy được cao nhất vị trí, vai trò của BHTN trong đời sống xã hội cũng như việc xác định vị trí, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về BHTN. Tùy thuộc vào từng khía cạnh của đời sống xã hội, BHTN được nhìn nhận, đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ kinh tế - xã hội, BHTN được hiểu là giải pháp nhằm khắc phục hậu quả của tình trạng thất nghiệp, giúp NTN tạm thời đảm bảo được cuộc sống và tìm kiếm việc làm thông qua việc tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung. Quỹ này được hình thành qua sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ có sự hỗ trợ của nhà nước, được sử dụng để trả TCTN, cũng như tiến hành các biện pháp nhằm nhanh chóng giúp NTN cải thiện cơ hội việc làm, sớm trở lại với thị trường lao động. Dưới góc độ pháp lý, BHTN là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định việc đóng góp và sử dụng quỹ BHTN, chi trả cho TCTN để bù đắp thu nhập cho NLĐ bị mất việc làm và thực hiện các biện pháp đưa NTN trở lại làm việc. BHTN vì thế thường được hiểu là một chế độ trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội, có mục đích hỗ trợ thu nhập cho NLĐ bị mất thu nhập do thất nghiệp1. Theo Công ước số 102 năm 1952 của ILO, BHTN là một trong chín nhánh của bảo hiểm xã hội, là một biện pháp hỗ trợ thiết thực về mặt tài chính cho NLĐ trong lúc mất việc làm nhằm giúp họ khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Ngoài ra, cơ chế pháp lý này còn tạo dựng hệ thống các giải pháp như: hỗ trợ học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm góp phần ổn định tâm lý, tạo
- 8 điều kiện thuận lợi cho người lao động bị mất việc có cơ hội tìm kiếm, thích ứng với công việc mới. Ở nước ta, trong tiến trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, Đảng và nhà nước đã nhận thức từ ASXH là một trong những vấn đề cần phải được chú trọng. Vì thế, lần sửa đổi này đã mở rộng hơn đối tượng có quyền được bảo trợ. Cụ thể, tại Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm ASXH”. Hơn nữa, ASXH là mục tiêu, chính sách phát triển của mỗi quốc gia nhằm thúc đẩy phúc lợi của người dân thông qua các biện pháp hỗ trợ đảm bảo quyền tiếp cận các nguồn lực đầy đủ trong đó có quyền được BHTN. Do đó, dưới góc độ nhân quyền, quyền được BHTN là quyền con người cần được quan tâm, bảo đảm, bảo vệ. Thực chất, đây là quyền lợi riêng nhưng được toàn thể xã hội chung tay bù đắp. Tuy nhiên, đó mới chỉ là cách nhìn nhận về BHTN ở từng khía cạnh của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, tính đến thời điểm trước ngày Luật việc làm ra đời 16/11/2013, chưa có một định nghĩa chính thức nào về BHTN được ghi nhận trong hệ thống các văn bản pháp quy. Mặc dù, Luật số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội về Bảo hiểm xã hội là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất về lĩnh vực bảo hiểm xã hội, trong đó có chế định BHTN song cũng chỉ đưa ra các nội dung cơ bản liên quan đến BHTN chứ không có điều nào định nghĩa cụ thể về BHTN. Do đó, chúng ta chưa có một khái niệm chính thức về BHTN. Còn nay, theo Luật Việc làm thì: “BHTN là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi bi m ̣ ất việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ BHTN” với khái niệm này cho thấy, BHTN là chế độ nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ bị thất nghiệp. So với tiêu chuẩn của Công ước 102 về Quy phạm tối thiểu về ASXH năm 1952 của ILO thì Luật Việc làm đã đưa ra khái niệm về BHTN tương đối toàn diện, đã thể hiện được bản chất của BHTN. Sự ra đời của Luật Việc làm là một bước tiến mới của BHTN ở Việt Nam. Như vậy, xét về bản chất, BHTN chính là sự bù đắp những tổn thất về thu nhập cho NLĐ thất nghiệp giúp họ duy trì sinh hoạt trong thời gian mất việc, tạo điều kiện tái tạo việc làm; là một biện pháp
- 9 mang tính cấp thiết, bảo đảm cho sự sinh tồn của người mất việc. Đồng thời, giúp NTN né tránh rủi ro thông qua việc tạo lập quỹ BHTN. Do đó, NTN từ chỗ bị mất thu nhập do thất nghiệp lại vẫn nhận được tiền TCTN do có tham gia đóng BHTN. 1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp Đặc điểm của BHTN là bảo đảm cho quá trình tái tạo việc làm và đời sống của NTN được diễn ra bình thường. Vì vậy, ngoài hỗ trợ về vật chất, BHTN còn hỗ trợ về mặt tinh thần cho họ. Là một chế độ trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội nên BHTN cũng có các đặc điểm chung giống bảo hiểm xã hội như: - Về đối tượng hưởng: Là NLĐ thuộc trường hợp được tham gia đóng bảo hiểm và thân nhân của họ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. - Về điều kiện hưởng chế độ: Phải là NLĐ được tham gia đóng bảo hiểm thuộc các trường hợp được hưởng chế độ. - Về nguồn hình thành quỹ: Dựa vào sự đóng góp bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định căn cứ trên mức tiền lương của người tham gia đóng bảo hiểm. Ngoài ra, quỹ bảo hiểm còn được hình thành từ sự hỗ trợ của nhà nước, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ, sự đóng góp của NSDLĐ (trừ trường hợp thuộc diện tham gia đóng BHXH tự nguyện) và các nguồn thu hợp pháp khác. - Về nguồn bảo đảm chi trả: Bảo hiểm xã hội Việt Nam - cơ quan thuộc Chính Phủ sẽ chịu trách nhiệm bảo đảm chi trả quyền lợi bảo hiểm cho những trường hợp được hưởng chế độ BHTN. - Về căn cứ chi trả quyền lợi bảo hiểm: Phụ thuộc vào thời gian tham gia bảo hiểm mà NLĐ được hưởng các quyền lợi bảo hiểm. Với năm tiêu chí nêu trên cho thấy, BHTN là lựa chọn thích hợp, đảm bảo độ tin cậy cho người tham gia, giảm thiểu sự mất cân bằng thu nhập cho NTN trong thời gian bị mất việc làm. Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm chung, BHTN cũng có những đặc điểm riêng nhất định. Một là, NTN nhận trợ cấp trên cơ sở đóng BHTN. Với mục đích hỗ trợ NLĐ khi bi ṭ hất nghiệp, để giải quyết tình trạng thất nghiệp, góp phần cải thiện
- 10 đời sống của NLĐ sau khi mất việc làm, Nhà nước đã ban hành chính sách nhằm giúp NTN thoát khỏi khó khăn, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian tham gia bảo hiểm mà NLĐ được hưởng các quyền lợi bảo hiểm khác nhau theo nguyên tắc có đóng, có hưởng. Song mức đóng góp chỉ là một tỉ lê p̣ hần trăm rất nhỏ trên mức lương của NLĐ và mức hỗ trợ không cao hơn lương tháng họ đang hưởng trong thời gian nhất định chứ không giống như quyền lợi được hưởng chế độ bảo hiểm khác khi tham gia bảo hiểm xă hội. Hai là, đối tượng tham gia và hưởng BHTN. Cùng xuất phát từ quan hệ lao động, nhưng đối tượng hưởng BHTN là những NLĐ, có khả năng lao động bị chấm dứt quan hệ lao động do không có việc làm, hay có việc làm nhưng không đáp ứng được yêu cầu của NSDLĐ và họ luôn sẵn sàng trở lại làm việc. Còn đối tượng của các chế độ bảo hiểm khác là những NLĐ vẫn đang tồn tại quan hệ lao động nhưng do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hoặc do chấm dứt quan hệ lao động như do hết tuổi lao động hay chết. Do đó, kể cả có việc làm phù hợp cũng không thể chắc chắn NLĐ trong số đó sẵn sàng quay trở lại thị trường lao động. Ba là, trong chế độ BHTN, bên cạnh việc bù đắp thu nhập bị mất do mất việc làm còn có các chế độ như: Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; Hỗ trợ Học nghề; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động. Thực tiễn phổ biến của các nước thì các chế độ BHTN chủ yếu là để thực hiện các chính sách thị trường lao động CHỦ ĐỘNG/TÍCH CỰC (positive labour market policies), thứ đến mới là để thực hiện các chính sách thị trường lao động BỊ ĐỘNG (passive labour market policies). Chính sách thị trường lao động chủ động là nhằm giúp NLĐ: có việc làm; bảo vệ, duy trì được việc làm đang có; có khả năng chuyển đổi việc làm khi cần thiết. Chính sách thị trường lao động bị động là chính sách hỗ trợ khi NLĐ đã bị mất việc làm rồi. Hiện nay, trong các văn bản về BHTN quy định khá rõ về đặc điểm này, đó là: Trong 4 chế độ BHTN thì có tới 3 chế độ là hướng tới thực hiện các chính sách thị trường lao động chủ động, chỉ có 1 chế độ (trợ cấp thất nghiệp) là để thực hiện chính sách thị trường lao động bị động; trong 3 chế độ (Hỗ trợ tư
- 11 vấn, giới thiệu việc làm; Hỗ trợ Học nghề; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động) thực chất là để thực hiện các chính sách thị trường lao động chủ động. Tuy nhiên, thực tế thực hiện cũng cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau mà chủ yếu mới chỉ thực hiện được chế độ trợ cấp thất nghiệp, chưa thực hiện được nhiều và hiệu quả các chế độ BHTN khác… 1.2. Khái quát chung pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Cùng với sự khủng hoảng kinh tế thế giới, thất nghiệp đã trở thành vấn đề không còn xa lạ ở nhiều nước. Đặc biệt, với những quốc gia có dân số chiếm đa phần là người dân trong độ tuổi lao động, nếu không có một kế hoạch quản lý, sử dụng lao động tốt, sẽ không thể phát huy tối đa được nguồn nhân lực này. Có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến như trình độ nhận thức còn hạn chế, thiếu chuyên nghiệp, kỷ luật lao động chưa cao, việc giải quyết tranh chấp lao động chưa hiệu quả, thu nhập thấp; diện tích đất nông lâm nghiệp bị thu hẹp do chuyển đổi mục đích sử dụng vào nhà ở, nhà máy, xí nghiệp...; sự di dân tự do giữa các vùng miền; cơ cấu ngành nghề kinh tế chưa hợp lý; cơ giới hóa sản xuất... đều có thể dẫn đến gia tăng tình trạng thất nghiệp. Bên cạnh đó, một thực tế là, nguồn nhân công lao động nhiều nhưng không phải ai trong số đó cũng có khả năng đáp ứng nhu cầu công việc. Vì thế, thị trường lao động tồn tại thực trạng mất cân đối giữa cung và cầu, đòi hỏi các nhà nước cần có những giải pháp đủ mạnh để cải thiện thị trường lao động vốn hùng hậu về số lượng nhưng về chất lượng thì không đảm bảo. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia đều đang phải nỗ lực phát triển kinh tế, bên cạnh việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững khác, trong đó có bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, coi con người là trung tâm của mọi sự phát triển. Trách nhiệm của các nhà nước được đề cao hơn bao giờ hết, trong đó có trách nhiệm giải quyết các vấn đề xã hội; tránh nguy cơ bùng phát tràn lan nạn thất nghiệp; bảo vệ người mất việc làm; ổn định trật tự xã hội; hạn chế hậu quả do thất nghiệp mang lại; tránh lãng phí nguồn nhân lực. Do vậy pháp luật về BHTN được hình thành, phát triển và ngày càng
- 12 được hoàn thiện với mục tiêu nhằm bảo trợ, bù đắp sự mất thu nhập tạm thời trong thời gian NLĐ bị mất việc, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho NTN có cơ hội tiếp cận việc làm mới, điều chỉnh kịp thời các quan hệ liên quan đến thất nghiệp. Pháp luật về BHTN ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt các nước theo hệ thống pháp luật Anh-Mĩ, nguồn pháp luật về BHTN khá rộng. Hệ thống nguồn pháp luật ở các nước này ngoài các văn bản quy phạm do nhà nước ban hành, các án lệ của tòa án cũng được áp dụng và tập quán quốc tế liên quan đến BHTN cũng có vai trò quan trọng. Ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, nguồn pháp luật về BHTN trước đây chủ yếu là các văn bản quy phạm do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Án lệ, tập quán và các nguồn khác ít được xem là nguồn chính thức. Tuy nhiên, hiện nay, do sự phát triển của các giao lưu thương mại, dịch vụ, sự dịch chuyển của các nguồn nhân lực mang tính quốc tế, nguồn pháp luật của không ít quốc gia thuộc hệ thống pháp luật này đã có sự linh hoạt, mở rộng hơn. Ở Việt Nam hiện nay, nguồn cơ bản của hệ thống pháp luật về BHTN là các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. Án lệ về BHTN chưa được xem là một nguồn chính thức ở Việt Nam, tuy nhiên, trong thực tế, hàng năm, Toàn án Nhân dân Tối cao vẫn làm công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và tổng kết kinh nghiệm xét xử, theo đó, những vấn đề liên quan đến BHTN vẫn được xem xét dưới góc độ định hướng, tham khảo từ "nguồn pháp luật không chính thức này". Với sự ra đời của Nghị quyết 49 năm 2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp đến năm 2020, từ quy định: Giao cho Tòa án Nhân dân Tối cao công tác "Phát triển án lệ", có lẽ trong tương lai, dù còn rất nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam có thể sẽ có sự bổ sung về án lệ vào nguồn pháp luật nói chung và cho hệ thống pháp luật về BHTN nói riêng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam được xem là một nguồn chính thức, quan trọng nhất, bao gồm các quy định trong các văn bản như Hiến pháp, Luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội cùng các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết liên quan như các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ trưởng... Các
- 13 văn bản này điều chỉnh mối quan hê ̣ giữa NLĐ thất nghiệp với cơ quan quản lý về BHTN; giữa NLĐ thất nghiệp với NSDLĐ có NLĐ mất việc và các mối quan hệ khác có liên quan đến BHTN. Tuy nhiên, ở Việt Nam, BHTN được coi là một chế độ trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội, nên các quy phạm pháp luật về BHTN điều chỉnh các quan hệ về BHTN cũng có sự tương tự như các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội trong quá trình điều chỉnh các quan hệ của bảo hiểm xã hội. Bên cạnh các văn bản quy phạm do cơ quan có thẩm quyền ban hành, Điều ước quốc tế tương ứng mà Việt Nam đã tham gia cũng được xem là một nguồn pháp luật quan trọng về BHTN ở Việt Nam. Tính đến tháng 12/2010, Việt Nam đã phê chuẩn 17 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong đó có 2 Công ước ưu tiên đó là Công ước số 81 về Thanh tra lao động trong công nghiệp và thương mại năm 1947 và Công ước 144 về Sự tham khảo ý kiến ba bên nhằm xúc tiến việc thi hành các quy phạm quốc tế về lao động năm 19762. Các Công ước này, trong quá trình nội luật hóa, sẽ được cụ thể, quy định tương thích trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ban hành. Việt Nam là nước ít áp dụng trực tiếp các Điều ước quốc tế trong quá trình thực thi các vấn đề liên quan trong thực tế. Cho nên, hoạt động xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước cho phù hợp và tương thích với pháp luật quốc tế; hoặc ngược lại, pháp luật trong nước sẽ được sửa đổi, bổ sung, ban hành cho phù hợp với Công ước quốc tế mà Việt Nam sẽ tham gia là hoạt động thường niên diễn ra. Như vậy, cho thấy, pháp luật về BHTN ở Việt Nam được tiếp cận theo góc độ hẹp. Ở khía cạnh tích cực, góc độ hẹp này sẽ cho phép tiếp cận được dễ dàng, tổng thể tất cả các vấn đề về BHTN. Từ những phân tích trên đây, cùng với bản chất của hoạt động BHTN, có thể đưa ra một khái niệm pháp luật về BHTN ở Việt Nam như sau: Pháp luật về BHTN là một chế định trong hệ thống các chế định bảo hiểm xã hội, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa NSDLĐ với NLĐ bị mất việc làm; giữa NLĐ thất nghiệp với cơ quan quản lý BHTN và các mối quan hệ khác có liên quan đến BHTN”.
- 14 1.2.2. Đặc điểm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Pháp luật BHTN mang các đặc điểm chung của pháp luật gồm: - Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện: Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua rất nhiều những trình tự thủ tục chặt chẽ và phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức và các cá nhân. Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, như khuyến kích kinh tế, cưỡng chế, chế tài của nhà nước ... - Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung: Pháp luật gồm các quy tắc xử sự chung, là sự khái quát hóa từ rất nhiều trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Các quy định pháp luật được dự liệu không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân có liên quan. - Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức: Pháp luật luôn được thể hiện dưới những hình thức phải nhất định, nói cách khác, những quy định pháp luật phải được chứa đựng trong các nguồn luật như tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật … Sự xác định chặt chẽ về hình thức là điều kiện để phân biệt giữa pháp luật với những quy định không phải là pháp luật, đồng thời, cũng tạo nên sự thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật. Bên cạnh đó pháp luật BHTN còn có đặc riêng, bao gồm: - Pháp luật về BHTN mang tính an sinh xã hội, tính nhân văn. Nó đảm bảo phân tán rủi ro, san sẻ tài chính giữa gười lao động với người lao động, giữa người lao động với người sử dụng lao động và giữa những người sử dụng lao động với nhau. Đặc điểm này biểu hiện khá rõ giữa những người khoẻ mạnh với những người lao động bị ốm đau; giữa nam và nữ; giữa những người lao động có công ăn việc làm ổn định và thu nhập cao với những người lao động không may bị thất nghiệp. - Pháp luật về BHTN đã kết hợp nhiều phương pháp thực hiện để được đạt hiệu quả. Điều này xuất phát từ tính an sinh xã hội, tính nhân văn nên để phát huy tốt nhất hiệu quả của pháp luật về BHTN bên cạnh sức mạnh cưỡng chế,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 109 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 69 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Kiểm soát thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
87 p | 74 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
109 p | 80 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình
94 p | 82 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 105 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vai trò của thanh tra tỉnh trong phòng, chống tham nhũng về công tác cán bộ - từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
109 p | 59 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
86 p | 70 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đánh giá viên chức ngành Y tế từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
83 p | 56 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Y tế Hà Nội
94 p | 71 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
91 p | 42 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tuyển dụng viên chức ngành y tế từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
75 p | 50 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
91 p | 45 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
82 p | 55 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn