intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trong xét xử hình sự tại TAND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng

Chia sẻ: Ocxaodua999 Ocxaodua999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

45
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn về quyền của bị cáo là NCTN tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự thông qua đó tìm ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện BLTTHS, đồng thời tìm ra những hạn chế, bất cập, chƣa hoàn thiện trong BLTTHS mới ban hành năm 2015, và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng BLTTHS năm 2015 nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền của, bị cáo là NCTN trong TTHS ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trong xét xử hình sự tại TAND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ LAN ANH QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, NĂM 2019
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ LAN ANH QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Trƣơng Hồ Hải HÀ NỘI, NĂM 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN - Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chƣa đƣợc sử dụng để bảo vệ trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. - Các tài liệu đƣợc trích dẫn trong luận văn đều đƣợc chỉ rõ nguồn gốc - Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nguồn gốc, số liệu, thông tin đƣợc sử dụng trong luận văn./. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Lan Anh
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chƣơng trình nghiên cứu đề tài luận văn tác giả đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của tập thể và cá nhân các nhà khoa học. Tác giả xin chân thành cám ơn tập thể Lãnh đạo Học viện Hành Chính Quốc Gia, Khoa sau đại học và giảng viên đã giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại Học viện Hành Chính Quốc Gia. Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Trƣơng Hồ Hải, ngƣời hƣớng dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hƣớng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này. Tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tác giả trong quá trình thu thập thông tin và số liệu để thực hiện luận văn này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành luận văn, tuy nhiên do kinh nghiệm nghiên cứu còn chƣa nhiều, thời gian nghiên cứu ngắn, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tác giả rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến quý báu của Quý thầy cô và các bạn để bản thân hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn ! Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2019 Tác giả Nguyễn Thị Lan Anh
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƢỜI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ............................................................ 11 1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện .................................... 11 1.2. Những vấn đề chung về bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện ................... 25 Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 40 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ...... 41 2.1. Thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng ............................................................................................................... 41 2.2. Những hạn chế trong bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng và nguyên nhân ...................................................................... 57 Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 67 Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG68 3.1. Các quan điểm về bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên .......... 68 3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng ....................................................................................... 73 Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 90 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 93
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số TT Tên bảng Trang 2.1. Số ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội bị đƣa ra xét xử tại Tòa án 46 nhân dân huyện Thuỷ Nguyên trong 5 năm 2014 – 2018 2.2. Tình hình xét xử vụ án hình sự có bị cáo là ngƣời dƣới 18 48 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên trong 5 năm 2014 – 2018 2.3. Số vụ án có ngƣời bào chữa tham gia tại Tòa án nhân dân 53 huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giai đoạn từ 2014 - 2018
  7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS :Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT :Cơ quan điều tra HĐXX :Hội đồng xét xử NBC :Ngƣời bào chữa NCTN :Ngƣời chƣa thành niên TAND :Tòa án nhân dân THTT :Tiến hành tố tụng TTHS :Tố tụng hình sự XHCN :Xã hội chủ nghĩa
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn Trong thời gian vừa qua Đảng ta đã ban hành chiến lƣợc về cải cách tƣ pháp đến năm 2020. Thực hiện yêu cầu đó, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã thể hiện quan điểm đề cao vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) là bảo đảm vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tƣ pháp, giữ vai trò trọng tâm của hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự (TTHS) và thực hiện tranh tụng. Thực hiện chiến lƣợc cải cách tƣ pháp, cùng với việc xác định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tƣ pháp, Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân (TAND) là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời (QCN), quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [39]. Tòa án là cơ quan có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Theo hiến pháp quy định thì chỉ Tòa án thực hiện xét xử đƣa ra phán quyết nhân danh nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam, có thẩm quyền coi một ngƣời là có tội và phải chịu hình phạt, bảo đảm quyền quan trọng của bị cáo với tính cách là QCN về dân sự. Trong toàn bộ quá trình TTHS, phiên tòa xét xử là nơi thể hiện tập trung và rõ nét bản chất hoạt động xét xử của Tòa án, quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ QCN và bảo vệ pháp chế XHCN. Ở Việt Nam, trẻ em luôn đƣợc xác định là chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc. Do đó, sau khi phê chuẩn Công ƣớc Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989, Nhà nƣớc Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ quyền của trẻ em trên nhiều phƣơng diện, nhất là phƣơng diện pháp lý. Nhà nƣớc ta đã thể chế hóa những cam kết quốc tế của mình vào nhiều lĩnh vực khác nhau của pháp luật quốc gia, trong đó có lĩnh vực pháp luật TTHS. Trong pháp luật TTHS, Nhà nƣớc không chỉ quy định quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, mà còn quy định những bảo đảm để quyền đó đƣợc thực hiện đầy đủ. Ngƣời chƣa thành niên là nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng, khi tham gia vào TTHS với tƣ cách là bị cáo họ 1
  9. đều có thể bị tác động ở mức độ nghiêm trọng nhất định bởi các biện pháp điều tra và biện pháp cƣỡng chế của TTHS. TTHS là quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án nhƣng cũng là quá trình mà bị cáo là ngƣời chƣa thành niên luôn có nguy cơ bị tổn thƣơng thêm lần nữa. Vì thế, chỉ có thể bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong TTHS khi các quyền này đƣợc pháp luật quy định và đƣợc hiện thực hóa bởi hoạt động thực hiện pháp luật của những chủ thể có liên quan và sự bảo đảm chung của Nhà nƣớc và xã hội. Bên cạnh những tƣ tƣởng chỉ đạo, quan điểm nguyên tắc xử lý trách nhiệm hình sự với ngƣời phạm tội chƣa thành niên đƣợc quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam cũng có những quy định, nguyên tắc riêng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo là ngƣời dƣới 18 tuổi. Đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2002 về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm của công tác trong thời gian tới, ngày 27/11/2015 BLTTHS đã đƣợc thông qua thay thế cho BLTTHS năm 2003. Trong những năm qua, tình hình tội phạm có chiều hƣớng gia tăng, đặc biệt là tình trạng ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật hình sự vẫn còn diễn ra rất phức tạp. Trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng trong những năm vừa qua xảy ra nhiều vụ án hình sự mà có bị cáo là ngƣời dƣới 18 tuổi. Trong quá trình THTT đặc biệt ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, viêc bảo đảm quyền của bị cáo tuy đã có những tiến bộ nhất định nhƣng vẫn còn nhiều điểm khó khăn, tồn tại và bất cập. Trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, quy định mới của Hiến pháp năm 2013 và hội nhập quốc tế hiện nay, pháp luật TTHS còn có những bất cập nhất định, việc thực hiện còn những hạn chế, thiếu sót cần có giải pháp khắc phục. Yêu cầu cải cách tƣ pháp đòi hỏi khách quan phải tăng cƣờng bảo đảm quyền trẻ em trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự trong đó có TTHS. 2
  10. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn vấn đề: Quyền của bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trong xét xử hình sự tại TAND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo trong tố tụng hình sự, đặc biệt là vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của Tòa án đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu ở những mức độ khác nhau, có thể kể đến nhƣ: * Những công trình nghiên cứu trong nước. - Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị cáo trong TTHS Việt Nam” năm 2011 của tác giả Lại Văn Trình. Công trình ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học đã phân tích một cách tổng thể, chi tiết về hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của những ngƣời bị buộc tội nhƣ ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Luận án cũng xác định đƣợc các phƣơng thức bảo đảm quyền của bị can, bị cáo cũng nhƣ đƣa ra các giải pháp nhằm tằng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự trong đó có xác định vị trí, vai trò của Tòa án trong hoạt động này [46]. - Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” năm 2017 của tác giả Võ Quốc Tuấn. Trong luận án này tác giả đã phân tích trực tiếp về hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, trong đó có xác định đƣợc vị trí, vai trò của Tòa án trong bảo đảm quyền của bị cáo. Trong hoạt động này Tòa án với tính chất là cơ quan xét xử sẽ tiến hành các phƣơng thức, biện pháp để bảo đảm thực hiện tốt quy định của pháp luật TTHS về bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo [49]. - Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia “Bảo vệ QCN bằng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam” - Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2006 [29]. Trong công trình này, nhóm tác giả phân tích về hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời nói chung trong 3
  11. đó có nhóm quyền con ngƣời của bị can, bị cáo, ngƣời bị hại, những ngƣời tham gia tố tụng khác. Nhƣ vậy, hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo chỉ là một phần đối tƣợng nghiên cứu mang tính chính thức của đề tài. Trong chƣơng 3 của đề tài nhóm tác giả đã phân tích về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự. - Ngoài các công trình ở cấp độ là luận án, đề tài khoa học thì còn có các bài tạp chí “Bảo đảm quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn, Tạp chí Luật học số 3/2011 [43]. Trong bài viết này tác giả đã phân tích về nội dung, phƣơng thức bảo đảm quyền con ngƣời của các chủ thể bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam trong tố tụng hình sự. Những chủ thể này bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do đó có khả năng cao bị tác động tiêu cực đến các quyền con ngƣời cơ bản của họ. Chính vì vậy, trong bài viết của mình, tác giả còn đƣa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời tạm giữ, ngƣời bị tạm giam…; Bài viết, “Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo” của tác giả Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát số 01/2009 [19]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích về một nội dung có thể nói là quan trọng nhất, cơ bản nhất về quyền của bị cáo đó là quyền bào chữa, nội dung của quyền này bao gồm quyền tự bào chữa, quyền im lặng và quyền nhờ ngƣời bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự trong đó thể hiện tập trung nhất là tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự; Bài viết “Bảo vệ QCN của người bị tạm giữ, bị cáo trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” [48] của tác giả Trần Văn Độ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2011. Bài viết của tác giả cũng đƣa ra các phân tích về hoạt động bảo vệ quyền con ngƣời của những đối tƣợng bị buộc tội trong tố tụng hình sự nhƣ ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bài viết của tác giả Võ Quốc Tuấn (2015), “Bảo đảm QCN của bị cáo trong hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7 [48]. Trong bài viết của mình tác, giả đã đƣa ra các 4
  12. phân tích về hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo trong quá trình tranh luận để xác định sự thật khách quan của bị án hình sự. Qúa trình tranh luận tại phiên tòa là quá trình một quyền của bị cáo đƣợc bảo đảm một cách cụ thể và chi tiết nhất đó là quyền bào chữa... - Nhóm công trình thứ hai là các công trình nghiên cứu về hoạt động xét xử vụ án hình sự là ngƣời chƣa thành niên nhƣ: - Tham luận "Những vướng mắc trong thực tiễn xét xử người chưa thành niên (NCTN) phạm tội" [45] của Quách Hữu Thái tham luận tại hội thảo chuyên đề của Trƣờng đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2013. Trong tham luận của mình, tác giả đã đƣa ra phân tích về những vƣớng mắc, trong quá trình xét xử đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội. Trong nội dung tham luận, tác giả có đề cập và phân tích về hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời trong xét xử đối với các bị cáo là ngƣời chƣa thành niên. - Luận án tiến sỹ "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật TTHS Việt Nam" năm 2013 Học viện Khoa học Xã hội của Trần Hƣng Bình [2]. Trong luận án của mình, tác giả đã nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền của ngƣời chƣa thành niên trng tố tụng hình sự. Nhƣ vậy, luận án nghiên cứu về bảo đảm quyền của ngƣời chƣa thành niên trong các giai đoạn tố tụng và ở các tƣ cách tố tụng khác nhau nhƣ ngƣời bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo… Đề tài cũng đƣa ra các phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam. - Luận văn thạc sĩ “Xét xử hình sự sơ thẩm đối với NCTN phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” [50] năm 2016 Học viện Khoa học Xã hội của Trƣơng Hồng Tú. Đề tài phân tích về hoạt động xét xử sơ thẩm đối với các vụ án mà bị cáo là ngƣời chƣa thành niên phạm tội trên địa bàn cụ thể là thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó tác giả cũng đã đề cập đến nội dung về bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự.; * Nhóm các công trình nghiên cứu nước ngoài. 5
  13. - Cuốn Human right and criminal procedure (tạm dịch : Quyền con ngƣời và tố tụng hình sự) (2009) [27] của tác giả Jeremy McBride do Hội đồng Châu Âu xuất bản với mục đích hỗ trợ các thẩm phán, công tố viên và luật sƣ trong việc thực thi pháp luật chung Châu Âu về tố tụng hình sự đã đề cập nhiều đến QCN trong tố tụng hình sự có minh chứng bằng những vụ án thực tế. - A guide to juvenile court law (tạm dịch: Hƣớng dẫn thi hành luật xét xử ngƣời chƣa thành niên) [16] của tác giả Gilbert H.F.Mumford và T.J.Selwood xuất bản năm 1974 tại London. Nội dung chủ yếu đề cập đến khái niệm NCTN và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ 14 đến 17 tuổi. Tác giả đã dựa vào định nghĩa của The Children and Young Persons Act của những năm 1933 và 1938 để đƣa ra khái niệm NCTN. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến phiên tòa xét xử NCTN phạm luật sẽ đƣợc tiến hành theo các hình thức nhƣ đƣa ra xét xử giản đơn nhƣ một cuộc thảo luận (chỉ có một thẩm phán tham gia) hay xét xử tại Tòa án với sự có mặt của Bồi thẩm đoàn. Thành phần xét xử sẽ gồm 3 thẩm phán và trong đó ít nhất phải có một ngƣời là nữ giới. - Law of Juvenile Delinquency (tạm dich: Luật quy định các hành vi phạm tội NCTN) [15] của tác giả Frederick B. Sussmann, A.B., M.S. in Ed., LL.B xuất bản năm 1968 tại New York đề cập đến quy trình, thủ tục điều tra và xét xử đối với NCTN phạm tội. Tuy nhiên, nhóm tác giả này chỉ mới nêu đƣợc khái quát các thủ tục TTHS đối với vụ án hình sự tham gia của NCTN phạm tội mà chƣa chỉ ra đƣợc quy trình, thủ tục điều tra sẽ bắt đầu nhƣ thế nào. - The guarantees for accused persons under Article 6 of the European Convention on Human Rights (tạm dịch: Những quy định về bảo lãnh cho bị cáo theo khoản 6 Công ƣớc của Liên minh Châu Âu về Nhân quyền) [44] của tác giả Stephanos Stavros, NXB Sweet & Maxwell, Anh quốc, năm 1993. Công ƣớc Châu Âu về nhân quyền, tên chính thức là Công ƣớc bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản (Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms). Điều 6 Công ƣớc đƣa ra quyền đƣợc xét xử công bằng cách chi tiết, trong đó có quyền đƣợc xét xử công khai trƣớc một tòa án độc lập và không thiên vị trong 6
  14. thời gian hợp lý, quyền đƣợc coi là vô tội khi chƣa có phán quyết của tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với những ngƣời bị cáo buộc một tội hình sự (đủ thời gian và các điều kiện để chuẩn bị việc biện hộ bảo vệ họ, tiếp cận với đại diện pháp luật, quyền thẩm vấn các nhân chứng chống lại họ, quyền đƣợc có thông dịch viên miễn phí). Công trình phân tích một cách đầy đủ về các vụ án cụ thể tại các quốc gia thành viên EU và sử dụng phép so sánh giữa những vụ án đƣợc xét xử theo Công ƣớc Châu Âu về nhân quyền với những phán quyết đƣợc dựa trên sự áp dụng của các quốc gia thành viên. Tác giả đã kết luận rằng Điều 6 đã đƣợc hiểu và vận dụng vào trong các luật quốc gia theo cách khác hoàn toàn với những chuẩn mực đƣợc quy định trong Công ƣớc. Vấn đề là các quốc gia thành viên hiểu, vận dụng thế nào về những quy định của Công ƣớc phù hợp với truyền thống lập pháp của quốc gia mình. - Criminal process and human rights (tạm dịch: Quá trình tố tụng hình sự và các quyền con ngƣời) [28] của tập thể tác giả là các giáo sƣ, phó giáo sƣ của các Trƣờng Đại học Luật tại Melbourne: Jeremy Gans, Terese Henning, Jill Hunter và Kate Wamer, NXB New South Wales, Australia, 2011. Nội dung bàn về vấn đề thực thi quyền con ngƣời tại Australia đặc biệt là trong quá trình TTHS phải đảm bảo các quyền tự do của con ngƣời trong bắt giữ, giam giữ, xét xử; quyền đƣợc giữ im lặng; quyền đƣợc xét xử một cách công bằng. Nhƣ vậy, có thể thấy, vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời nói chung và bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng hình sự nói riêng ở Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên các công trình này là những công trình nghiên cứu đề cập những nội dung khác nhau, ở những khía cạnh chung về vấn đề đảm bảo quyền của các bị cáo là chủ thể bị buộc tội nói chung trong TTHS Việt Nam. Các công trình này đề đƣợc công bố trƣớc khi BLTTHS năm 2015 đƣợc ban hành và không nghiên cứu thực trạng thực hiện tại một địa phƣơng nhất định là huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 7
  15. - Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn về quyền của bị cáo là NCTN tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự thông qua đó tìm ra những bất cập, vƣớng mắc trong quá trình thực hiện BLTTHS, đồng thời tìm ra những hạn chế, bất cập, chƣa hoàn thiện trong BLTTHS mới ban hành năm 2015, và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng BLTTHS năm 2015 nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền của, bị cáo là NCTN trong TTHS ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về quyền của bị cáo là NCTN trong TTHS nhƣ khái niệm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, các đặc điểm của quyền bị cáo là ngƣời chƣa thành niên; khái quát hóa vấn đề bảo đảm quyền của NCTN trong TTHS Việt Nam nhƣ khái niệm, đặc điểm, nội dung của bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên. - Đánh giá việc áp dụng BLTTHS trong thời gian qua, làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế của BLTTHS năm 2015 về quyền của bị cáo là NCTN trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng - Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa BLTTHS năm 2015 và tăng cƣờng hiệu quả áp dụng BLTTHS trong thực tiễn Việt Nam nói chung và huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng nói riêng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên và thực tiễn thực hiện tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 8
  16. - Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về quyền của bị cáo dƣới góc độ TTHS Việt Nam. - Về thực tiễn: Luận văn nghiên cứu hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật về quyền của bị cáo tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và thực tiễn trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành Luận văn và giải quyết đƣợc các yêu cầu đề ra Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lê nin; Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các chủ trƣơng, đƣờng lối, quan điểm của Đảng ta về bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN nói riêng tại Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020”. Việc thực hiện luận văn còn dựa vào thực tiễn xét xử, những tổng kết, đánh giá của ngành Tòa án, những số liệu thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ... để kiến nghị, đề xuất có cơ sở thực tiễn tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Ngoài ra, tác giả dùng phƣơng pháp nghiên cứu so sánh, phƣơng pháp tổng hợp, tiếp cận hệ thống, lịch sử, thống kê để hoàn thành luận văn này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài góp phần làm phong phú hơn và hoàn thiện hơn cơ sở lý luận về quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự nhƣ khái niệm, nội dung và các phƣơng báo bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn 9
  17. Đề tài nghiên cứu thực tiễn hoạt động bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đồng thời đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong giai đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo trong thực tiễn công tác của các cán bộ Tòa án, Viện kiểm sát, Luật sƣ đồng thời có thể là tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu luật học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài đƣợc kết cấu thành 03 chƣơng, cụ thể nhƣ sau: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện Chƣơng 2: Thực trạng quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng 10
  18. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƢỜI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN 1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện 1.1.1. Khái niệm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện Trƣớc khi xác định khái niệm quyền của bị cáo là ngƣời chƣa thành niên chúng ta cần tìm hiểu khái niệm về bị cáo là ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong TTHS. Theo các giai đoạn phát triển và theo lứa tuổi của con ngƣời đƣợc hiểu dƣới góc độ thuật ngữ pháp lý thì chia thành ngƣời chƣa thành niên (NCTN) (trong đó có trẻ em) và ngƣời đã thành niên. Ngƣời thành niên có thể hiểu là ngƣời thuộc về lứa tuổi trƣởng thành cả về thể chất và tinh thần, về tâm lý lẫn sinh lý. Theo từ điển Tiếng Việt khái niệm NCTN là: “NCTN là ngƣời chƣa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng nhƣ chƣa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân”[52, tr.675]. Ở phạm vi rộng hơn, các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến NCTN mà Việt Nam đã phê chuẩn là thành viên gồm: Công ƣớc về quyền trẻ em (đƣợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989); Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với trẻ em (gọi là Quy tắc Bắc Kinh ngày 29-11-1985); Hƣớng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở trẻ em (Hƣớng dẫn Ri-át, ngày 14-12-1990), … thì trẻ em đƣợc xác định là ngƣời chƣa thành niên. Còn các văn kiện của một số tổ chức thuộc Liên hợp quốc nhƣ: Quỹ dân số thế giới (UNFPA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) quy định trẻ em là ngƣời dƣới 15 tuổi. Nhƣ vậy, theo pháp luật quốc tế ngƣời chƣa thành niên đƣợc coi là trẻ em. 11
  19. Pháp luật Việt Nam quy định chƣa có sự thống nhất với nhau một cách cụ thể để xác định lứa tuổi nào là trẻ em, lứa tuổi nào là NCTN, cũng nhƣ phân biệt một cách rõ ràng khái niệm trẻ em, trẻ vị thành niên và NCTN. Cụ thể: Điều 161 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Ngƣời lao động chƣa thành niên là ngƣời lao động chƣa thành niên”[38]. Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dƣới 16 tuổi” [42]. Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “ngƣời chƣa đủ 18 tuổi là NCTN”. Theo đó, NCTN là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi và nhƣ vậy cũng phù hợp với các quy định chung của công ƣớc quốc tế về trẻ em mà nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Dƣới góc độ pháp luật hình sự, NCTN phạm tội là ngƣời từ đủ 14 tuổi đến chƣa thành niên vào thời điểm họ thực hiện tội phạm. Từ quy định này của BLHS hiện hành NCTN là những ngƣời chƣa đủ 18 tuổi, nhƣng chỉ những NCTN từ đủ 14 tuổi đến chƣa thành niên mới phải chịu TNHS về hành vi phạm tội, những ngƣời dƣới 14 tuổi không bị truy cứu TNHS đối với mọi hành vi của mình. Trong đó, ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS. Nhƣ vậy, tuổi bắt đầu có năng lực TNHS là từ đủ 14 tuổi và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ là đủ 16 tuổi trở lên [41]. Dƣới góc độ pháp luật TTHS, Điều 61 BLTTHS 2015 quy định bị cáo là ngƣời hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đƣa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân đƣợc thực hiện thông qua ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật TTHS. Căn cứ vào quy định này và quy định tại Điều 12 của BLHS về tuổi chịu TNHS, thì có thể hiểu bị cáo chƣa thành niên là ngƣời từ đủ 14 tuổi đến chƣa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã bị Tòa án quyết định đƣa ra xét xử. 12
  20. Từ những phân tích trên có thể đƣa ra khái niệm về ngƣời phạm tội chƣa thành niên nhƣ sau: Dưới góc độ TTHS, người phạm tội chưa thành niên là người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Thuật ngữ “ngƣời chƣa thành niên” đã đƣợc đổi thành “ngƣời dƣới 18 tuổi” trong các quy định có liên quan của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015. Đây là một điểm mới trong quá trình lập pháp, việc thay đổi này có thể nhằm mục đích tránh sự mâu thuẫn giữa hai bộ luật trên với Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi) trong thời gian tới. Theo đó, trẻ em là ngƣời chƣa thành niên chứ không phải dƣới 16 tuổi. Việc nâng độ tuổi của trẻ em sẽ giúp cho những ngƣời thuộc nhóm tuổi từ đủ 16 đến chƣa thành niên nhận đƣợc chính sách bảo vệ, chăm sóc, giáo dục về đạo đức, nhân cách, tâm lý và kỹ năng sống; qua đó có thể góp phần phòng ngừa và giảm số lƣợng tội phạm chƣa thành niên. Việc BLTTHS năm 2015 sử dụng tên gọi “ngƣời dƣới 18 tuổi” để chỉ NCTN trƣớc đây mang tính “an toàn” tạm thời và cần thiết. Thứ hai, chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong TTHS. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì bị cáo đều là chủ thể của nguyên tắc suy đoán vô tội. Vậy bị cáo là gì? Theo Điều 61 - BLTTHS Việt Nam năm 2015: “Bị cáo là ngƣời hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đƣa ra xét xử” [40]. Định nghĩa này cũng chƣa phản ánh đầy đủ dấu hiệu của bị cáo. Tòa án chỉ có thể quyết định đƣa ra xét xử đối với những bị cáo đã bị VKSND truy tố ra trƣớc Tòa án. Quyết định này là sự khẳng định chính thức của Tòa án về việc đã có đủ điều kiện cần thiết để tiến hành mở phiên tòa xét xử đối với bị cáo bị VKS truy tố, còn bị cáo có tội hay không có tội sẽ là nội dung của chức năng xét xử thực hiện ở phiên tòa và thể hiện trong bản án của Tòa án. Trong quy định của BLTTHS năm 2015, khái niệm bị cáo đƣợc ghi nhận tại Điều 61: “Bị cáo là ngƣời hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đƣa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân đƣợc thực hiện thông qua ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này” [40]. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2