Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại – từ thực tiễn của tỉnh Quảng Bình
lượt xem 10
download
Mục đích nghiên cứu đề tài Quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại – từ thực tiễn của tỉnh Quảng Bình nhằm nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất hệ thống giải pháp bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại – từ thực tiễn của tỉnh Quảng Bình
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... ......../....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA ĐINH LÂM XƯỚNG QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI - TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... ......../....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA ĐINH LÂM XƯỚNG QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI - TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. VŨ TRỌNG HÁCH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018 Học viên Đinh Lâm Xướng
- LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện luận văn , tôi luôn luôn nhận được sự động viên, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Vũ Trọng Hách, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Quý lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc gia, các Khoa, Phòng cũng như các thầy cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy và gia đình đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, trong việc thu thập số liệu, thông tin cần thiết phục vụ thực hiện luận văn tốt nghiệp. Cuối cùng xin chân thành cảm ơn các bạn học viên lớp Cao học Luật Hành chính - Luật Hiến pháp LH3.T2 đã cùng tôi chia sẽ kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài. Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã hết sức cố gắng trong việc tiếp thu, trau dồi những kiến thức đóng góp của Quý thầy, cô giáo và bạn bè, đã tham khảo thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, song khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được thông tin góp ý của Quý thầy, cô và bạn đọc. Xin chân thành cảm ơn!./. Học viên Đinh Lâm Xướng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI................................................................. 6 1.1. Những khái niệm cơ bản .......................................................................... 6 1.2 Những quy định của pháp luật về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại ... 12 1.3. Những yếu tố bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại . 20 Tóm tắt chương I .......................................................................................... 35 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN YÊU CẦU TỐ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH .............. 36 2.1. Khái quát tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Bình . 36 2.2 Phân tích thực trạng giải quyết, xét xử các vụ án do người bị hại yêu cầu khởi tố .......................................................................................................... 45 2.3. Đánh giá chung: ................................................................................... 60 Tóm tắt chương 2 ......................................................................................... 69 CHƯƠNG 3.QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ VỤ ÁN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH............................................................................................ 71 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại ................. 71 3.2 Giải pháp bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại ................... 98 Tóm tắt chương 3 ....................................................................................... 110 KẾT LUẬN ............................................................................................... 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Quyền công dân là một vấn đề cơ bản được quy định xuyên suốt trong các bản Hiến pháp Việt Nam ( Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001), 2013). Đặc biệt Hiến pháp 2013 tiếp tục ghi nhận và mở rộng hơn các quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp quy định một nguyên tắc cơ bản là: “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công dân tôn trọng và bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [ Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp 2013]. Trong các quyền của công dân có quyền: “ mọi người có quyền bất khả xâm phậm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [Điều 20 Hiến pháp 2013]. Từ những quy định của Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự đã cụ thể hóa những quyền của công dân trong đó có quyền của bị hại được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự khi có những hành vi trên thực tế xâm phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ [ Điều 65 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015]. Bị hại là người bị thiệt hại về thể chất và tinh thần hoặc tài sản do hành vi phạm tội gây ra, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại. [ Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự 2015]. Trách nhiệm của Nhà nước, cụ thể là trách nhiệm của các củ thể có thẩm quyền ( chủ thể tiến hành tố tụng) chủ động theo nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật tố tụng hình sự quy định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ cho rằng trên thực tế có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Nhưng bên cạnh đó pháp luật tố tụng hình sự cũng trao cho bị hại (chủ yếu là công dân) 1
- được quyền chủ động yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để baroo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình được pháp luật hình sự quy định. Những năm qua được sự tư vấn, hướng dẫn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, luật sư, các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự người bị hại đã nhận thức được các quyền của mình được pháp luật tố tụng hình sự quy định để chủ động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia với tư cách là bị hại trong các vụ án hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn không ít bị hại chưa nhận thức được đầy đủ các quyền của mình được pháp luật hình sự quy định để chủ động tham gia bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong vụ án hình sự mà họ hoặc người được họ đại diện hợp pháp là bị hại. Vì vậy, học viên chọn nghiên cứu đề tài “Quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại – từ thực tiễn của tỉnh Quảng Bình”làm luận văn thạc sỹ luật học, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu: Ở Việt Nam đã có các công trình khoa học nghiên cứu về bị hại, quyền của người bị hại dưới góc độ quyền con người, quyền công dân, quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại dưới góc độ ngành luật tố tụng hình sự, như: -Nguyễn Ngọc Chí ( 2013), giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. -Lê Thị Thúy Nga (2003), Một số vấn đề về người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam. -Lê Tiến Châu ( 2008), Mô hình, hình thức tố tụng hình sự và việc bảo vệ quyền con người, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. -Phạm Mạnh Hùng ( 2007), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc khởi tố vụ án và việc kiểm sát khởi tố vụ án, Tạp chí Kiểm sát. 2
- -Hoàng Lan Phương ( 2009), Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, chuyên ngành luật tố tụng hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. -Lê Lan Chi ( 2010), Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam -–hững vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sỹ luật chuyên ngành Luật tố tụng hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn của học viên có kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên và các công trình khoa học khác có liên quan đã được công bố trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào được công bố thời gian gần đây về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại - từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: -Mục đích: nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất hệ thống giải pháp bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. -Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau: + Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại; + Phân tích, đánh giá thực trạng trong việc thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình; + Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: -Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quyền yêu cầu khởi tố vụ án của ngườu bị hại trong các vụ án hình sự. 3
- -Phạm vi nghiên cứu +Không gian: từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình +Thời gian: từ 2013 đến 2017 +Nội dung: yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại được quy định trong các Điều: 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156, 226 Bộ Luật hình sự 2015. Luận văn cũng chỉ tập trung nghiên cứu phân tích thực trạng bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: -Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –Lênin, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền công dân. -Phương pháp nghiên cứu cụ thể Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế và một số phương pháp khác. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về lý luận +Luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về quyền yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại; +Phân tích, đánh giá được thực trạng về quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại, chỉ ra được những hạn chế và nguyên nhân làm cơ sở cho việc đề xuất hệ thống giải pháp. -Về thực tiễn +Đề xuất được hệ thống giải pháp tăng cường bảo đảm thực hiện quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại; 4
- +Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập, giảng dạy và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực bảo đảm thực hiện các quyền của công dân, cụ thể là quyền của người bị hại trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn có kết cấu 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại. Chương 2: Thực trạng về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại được xem xét thông qua công tác giải quyết, xét xử ở Tòa án thuộc tỉnh Quảng Bình. Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI 1.1. Những khái niệm cơ bản 1.1.1. Quyền con người Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau (Theo tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không có định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của con người). Tính phù hợp của các định nghĩa có về quyền con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. Ở Việt Nam trong giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Quyền con người được định nghĩa là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Trong các bản Hiến pháp nói chung, quyền con người được hiểu là quyền áp dụng tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên pham vi tòan cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân cụ thể hiện mối liên quan giữa cá nhân với cộng đồng nhân loại. Vì thế Hiến pháp ghi nhận các quyền được áp dụng cho “mọi người” là 6
- quyền con người; ví dụ quy định tại các Điều 16, 19, 20, 21, 24, 33, 34... của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. 1.1.2. Quyền công dân Quyền công dân là thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa công dân đó với nước sở tại. Như vậy có thể hiểu: Quyền công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một quốc gia ghi nhận và chỉ những người mang Quốc tịch của nước đó thì mới được hưởng các quyền công dân mà pháp luật nước đó quy định. Như vậy, quyền công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tập hợp những quyền được Hiếp pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận và chỉ những người mang Quốc tịch Việt Nam mới được hưởng. 1.1.3. Khởi tố vụ án hình sự Theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, thì quá trình tố tụng chia thành các giai đoạn: khởi tố, điều tra, xét xử và giai đoạn đặc biệt là xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập trong quá trình tố tụng có chủ thể, có nhiệm vụ, có hành vi, cơ sở và các văn bản tố tụng đặc trưng. Vì khái niệm khởi tố vụ án hình sự không quy định chính thống trong Bộ Luật Tố tụng hình sự cho nên hiện nay, dưới góc độ nghiên cứu tồn tại nhiều quan điểm khác nhau: "Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu tố tụng hình sự có nhiệm vụ xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm. Giai đoạn này mở đầu bằng quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự"[1]. Nếu theo khái niệm này, về khởi tố vụ án hình sự thì ta thấy chưa bao quát được chủ thể trong hoạt động khởi tố. 7
- "Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu tố tụng hình sự. Trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự" [2] . Theo khái niệm này thì lại không nêu được cơ sở để đưa vào đó chủ thể có thẩm quyền xem xét, xác minh dấu hiệu tội phạm. "Khởi tố vụ án hình sự là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định có dấu hiệu tội phạm để mở cuộc điều tra theo tố tụng hình sự" [3]. Các khái niệm nêu trên xét trên phương diện tổng thể chưa có khái niệm nào bao hàm được những vấn đề cơ bản của khởi tố vụ án hình sự. Theo quan điểm của học viên, trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự quy định chung hiện nay tại Chương VIII Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 có những đặc điểm cơ bản cần phải đưa vào khái niệm đó là: chủ thể của quan hệ tố tụng; nhiệm vụ của hoạt động tố tụng; cơ sở, căn cứ pháp lý của hoạt động tố tụng; vị trí, vai trò của hoạt động tố tụng; văn bản pháp lý đặc trưng. Dựa trên những khái niệm khoa học vừa nêu trên và dựa vào những quy định của pháp luật hiện hành có thể hiểu khái niệm khởi tố vụ án hình sự như sau: "Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng hình sự, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trên cơ sở quy định của pháp luật để tiến hành xem xét, xác minh có hay không có dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự làm xuất hiện vụ án và là tiền đề cho hoạt động điều tra và các giai đoạn tố tụng tiếp theo". 1.1.4. Người bị hại Thuật ngữ người bị hại lần đầu tiên xuất hiện trong Thông tư số 16/TATC ngày 27 tháng 9 năm 1974 của TANDTC. Theo đó, người bị hại được định nghĩa “ là công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất, tài 8
- sản, hay xâm phạm về tinh thần”( như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa đảo…). Như vậy, theo định nghĩa của Thông tư 16/TATC của TANDTC thì người bị hại ở đây được xác định rõ là cá nhân công dân Việt Nam đã bị kẻ phạm pháp ( tội phạm) gây thiệt hại trực tiếp đến thể chất, tài sản hay tinh thần. Cũng tương tự cách định nghĩa trên của Thông tư 16/TATC của TANDTC, khoản 1 Điều 39 BLTTHS năm 2003 quy định về người bị hại: “ Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hay về tài sản do tội phạm gây ra” và Khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định: “ Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Tuy nhiên, người bị hại ở đây được xác định rộng hơn là ngoài công dân Việt Nam còn có thể là cá nhân khác như người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch đang sinh sống, học tập hoặc làm việc, thăm thân, du lịch… trên lãnh thổ Việt Nam và bị kẻ phạm tội gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản. Khoản 1, Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định bị hại: “ Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra ”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015 bị hại có các đặc điểm sau: -Về chủ thể bị hại bao gồm là cá nhân, pháp nhân, tổ chức; -Thiệt hại do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm: cá nhân bị thiệt hại trực tiếp về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp. -Thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. 9
- Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự. -Công dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận. Như vậy, người bị hại theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam được hiều là: cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe đọa gây ra. Khái niệm người bị hại hẹp hơn khái niệm bị hại, trong luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu người bị hại là công dân Việt Nam trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. 1.1.5 Quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay, người bị hại có rất nhiều quyền: quyền đưa ra tài liệu, đồ vật; yêu cầu được thông báo về kết quả điều tra, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định; đề nghị mức bồi thường và biện pháp bảo đảm bồi thường; tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo... Trong một số trường hợp luật định được quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Như vậy: “Quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại là quyền đặc biệt, chỉ có người bị hại trong vụ án hình sự và trong trường hợp luật định được quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để bảo vệ các quyền, lợi ích họp pháp của họ đã bị tội phạm trực tiếp xâm phạm”. Đây là dấu hiệu bắt buộc khi cơ quan tiến hành tố tụng xác định có dấu hiệu phạm tội nhưng phải có yêu cầu của người bị hại thì mới được khởi tố vụ án, cho nên người yêu cầu cũng phải có năng lực của chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, tức là phải có năng lực chủ 10
- thể và năng lực hành vi. Ở đây năng lực pháp luật thể hiện là quyền của những chủ thể bị tội phạm xâm hại thuộc phạm vi quy định của Khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 xâm hại trực tiếp, được nhà nước bảo hộ. Quyền này là “Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự”. Năng lực hành vi là khả năng của các cá nhân bị thiệt tự mình hoặc người đại diện hợp pháp (người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tinh thần hoặc thể chất) thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án trên thực tế. Đặc điểm của quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại: quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại là một trong các quyền của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự, nhưng đây là quyền “đặc biệt” nó thể hiện: -Khi có dấu hiệu tội phạm, sau khi có tin tố giác, xác minh thu thập chứng cứ lẽ đương nhiên cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm khởi tố vụ án, mở đầu cho quá trình tố tụng tiếp theo để xác định tội phạm. Nhưng đối với trường hợp “Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại” thì chỉ được khởi tố khi người bị hại có yêu cầu, nó không giống như các loại tội phạm và và các vụ án khác. Đây thể hiện quyền tối cao, quyền tự định đoạt của người bị hại trong tố tụng hình sự, thể hiện quyền cá nhân và tôn trọng quyền con người. Ở đây phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của người bị hại, người bị hại có toàn quyền quyết định chứ không phụ thuộc ai. -Một đặc điểm nữa cho ta thấy không phải người bị hại lúc nào cũng được sử dụng quyền này, mà quyền này chỉ được thực hiện trong trường hợp luật định đó là những tội phạm thuộc các tội danh và nằm ở quy định khoản 1 của các điều luật 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định. Như vậy chỉ các tội danh đó thì người bị hại mới có quyền yêu cầu khởi tố. Qua đó cho thấy giữa quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại và quá trình khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền có mối quan hệ ràng buộc 11
- nhau, phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của người bị hại. Đây là đặc điểm riêng biệt mà chỉ xuất hiện trong những trường hợp “đặc biệt”. 1.2 .Những quy định của pháp luật về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại 1.2.1.Quyền và nghĩa vụ của người bị hại 1.2.1.1.Người bị hại có quyển - Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 62 BLTTHS 2015; -Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; -Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; -Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; -Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; -Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; -Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường; -Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; -Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; -Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của bltths 2015; -Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; 12
- -Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; -Các quyền khác theo quy định của pháp luật. -Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. 1.2.1.2.Người bị hại có nghĩa vụ: -Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; -Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Pháp luật TTHS cũng quy định trong trường hợp người bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều 62 BLTTHS 2015. 1.2.2.Quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại Quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại là một bộ phận của quyền công dân được pháp luật tố tụng hình sự cụ thể hóa và quy định cụ thể trình tự, cách thức để công dân chủ động lựa chọn quyết định thực hiện các quyền đó trong những trường hợp cụ thể. Khởi tố vụ án hình sự là trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng, tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể thường là hậu quả do hành vi phạm tội gây ra cho người bị hại không quá nghiêm trọng dẫn đến có thể lựa chọn giải quyết vụ việc bằng các quy định của pháp luật hình sự hoặc sử dụng chế tài của các ngành luật khác như luật dân sự, luật hành chính...những trường hợp này được pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể. 13
- Pháp luật TTHS quy định chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điểu 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156, 226 khi có yêu cầu của bị hại.[ Khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015]. Cụ thể: a. Quyền yêu cầu khởi tố các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người -Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015: “ Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”. - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội được quy định tại khoản 1 Điều 136 BLHS 2015: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”. 14
- - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS 2015: “Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”. - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính được quy định tại khoản 1 Điều 139 BLHS 2015: “Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm”. Mặt khách quan của nhóm tội phạm này bao gồm hành vi và hậu quả của tội phạm. Hành vi khách quan ở đây thể hiện hành động hoặc không hành động có tính chất gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác với cấu thành tội phạm là cấu thành vật chất, hậu quả gây ra là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Ở nhóm tội phạm này hậu quả biểu hiện dưới dạng thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác. Các tội phạm quy định tại Khoản 1 các điều 135, 136, 138, 139, Bộ luật hình sự bắt buộc hậu quả gây ra là tỷ lệ thương tật phải từ 31% trở lên (Điều 134 hậu quả từ 11 đến 30%). Tội quy định ở Khoản 1 Điều 134 thì tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%, hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp quy định từ Điểm a đến Điểm k, Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015. Giữa hành vi khách quan và hậu quả nêu trên phải có mối quan hệ nhân quả, có nghĩa hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 271 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 109 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 69 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Kiểm soát thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
87 p | 74 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
109 p | 80 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình
94 p | 82 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
86 p | 70 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đánh giá viên chức ngành Y tế từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
83 p | 56 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Y tế Hà Nội
94 p | 71 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
91 p | 42 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tuyển dụng viên chức ngành y tế từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
75 p | 50 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
82 p | 55 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
91 p | 45 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn