Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán
lượt xem 9
download
Mục đích của đề tài là chỉ ra con đường phát triển nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Việt và từ “头” trong tiếng Hán, trên cơ sở đó tìm ra những nguyên nhân tương đồng và khác biệt trong tư duy tri nhận của người Việt Nam và Trung Quốc, từ đó xác định đặc điểm tri nhận, đặc trưng văn hóa của hai dân tộc Việt-Trung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HẠNH DUNG TỪ CHỈ ĐẦU TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG HÁN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI, 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HẠNH DUNG TỪ CHỈ ĐẦU TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG HÁN Ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 8 22 90 20 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HÀ NỘI, 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Các kết quả khảo sát và miêu tả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Hạnh Dung
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT .................................................................. 13 Chương 2 NGHĨA CỦA TỪ “ĐẦU” TRONG TIẾNG VIỆT VÀ “头” TRONG TIẾNG HÁN .................................................................................. 24 2.1. Quá trình phát triển nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Việt ...............................24 2.2. Quá trình phát triển nghĩa của từ “头” trong tiếng Hán ................................29 2.3. Đối chiếu quá trình phát triển nghĩa từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán38 CHƯƠNG 3 CÁC ẨN DỤ Ý NIỆM CỦA TỪ “ĐẦU” TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TỪ “头” TRONG TIẾNG HÁN ................................................. 48 3.1. Ẩn dụ vật chứa của từ ''đầu'' trong tiếng Việt và “头” trong tiếng Hán...49 3.2. Ẩn dụ định hướng của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头” trong tiếng Hán .................................................................................................................51 3.3. Ẩn dụ cấu trúc của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头” trong tiếng Hán ...........................................................................................................................56 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72 NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT ............................................................... 78
- MỤC LỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, LƯỢC ĐỒ Hình 2.1 : Sơ đồ phát triển nghĩa của từ “đầu” ....................................... 27 Hình 2.2 : Sơ đồ phát triển nghĩa của từ “头” .......................................... 37 Bảng 2.1. Bảng đối chiếu nghĩa từ “đầu” và từ “头” ............................. 38 Lược đồ 3.1. Ánh xạ ẩn dụ ý niệm KHÔNG GIAN LÀ CƠ THỂ NGƯỜI ................................................................................................................... 57 Lược đồ 3.2. Ánh xạ ẩn dụ ý niệm SỰ LÃNH ĐẠO LÀ ĐẦU NGƯỜI . 61 Lược đồ 3.3. Ánh xạ ẩn dụ ý niệm THỨ TỰ ĐẦU TIÊN LÀ ĐẦU NGƯỜI...................................................................................................... 62 Bảng 3.1. Bảng đối chiếu những ẩn dụ ý niệm liên quan đến từ “đầu” trong tiếng Việt và “头” tiếng Hán....................................................... 65
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, thông qua ngôn ngữ, chúng ta có thể thấy được những đặc trưng tư duy và giá trị văn hóa của cả một dân tộc. Nghiên cứu quá trình chuyển nghĩa cùng các ẩn dụ ý niệm của từ nhằm làm rõ cách tri nhận về hiện thực khách quan, qua đó thấy được các dấu ấn và giá trị văn hóa của một cộng đồng ngôn ngữ là hướng đi cần thiết. Hơn nữa, các nghiên cứu đối chiếu về mặt ngữ nghĩa của hai ngôn ngữ để chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt về mặt tư duy của hai dân tộc là một trong những hướng nghiên cứu liên ngành đang rất được quan tâm hiện nay. Từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán gồm có: “đầu (头)”, “thủ ( 首)”, “óc (大脑)”, “não (脑, 脑筋)”, “sọ (头骨)”, “trốc”. Theo khảo sát trong Từ điển tiếng Việt [26] và Từ điển Hán ngữ hiện đại [60], chúng tôi nhận thấy khả năng kết hợp từ của “đầu/头” là mạnh nhất, “thủ/首” yếu hơn và có nhiều nét nghĩa và cách biểu đạt tương đồng, còn “óc/大脑”, “não/脑, 脑筋”, “sọ/头骨” thì rất hạn chế. Vậy nên, với tiêu chí chọn lựa từ thông dụng, phổ biến trong giao tiếp hàng ngày, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu đối chiếu sự phát triển nghĩa, những ẩn dụ ý niệm liên quan đến từ “đầu/头”, cùng những cách biểu đạt tương đồng với từ “đầu/头” của từ “thủ/首” . Trong hệ thống ngôn ngữ của tiếng Việt và tiếng Hán, không khó để tìm ra những từ ngữ có chứa yếu tố “đầu”. Ví dụ trong tiếng Việt có “bắt đầu”, “đứng đầu”, đầu sỏ”, “to đầu”, “đầu cua tai nheo”,...; còn trong tiếng Hán chúng ta có 头段情缘 (mối tình đầu),机头 (đầu máy), 月头 (đầu tháng), 头大 (to đầu)... Chính bởi tính phổ biến này mà “đầu” trở thành một miền nguồn quan trọng trong nghiên cứu về tri nhận ẩn dụ cơ thể người. Về nhóm từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người, giới nghiên cứu Việt ngữ học đã quan tâm 1
- nghiên cứu, song cho đến nay, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về sự phát triển nghĩa và các ẩn dụ ý niệm của đầu đặt trong sự đối chiếu với tiếng Hán. Từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán” với mong muốn có thể làm rõ con đường phát triển ngữ nghĩa với những chiều kích tâm lý, văn hóa dân tộc liên quan đến sự phát triển ngữ nghĩa của từ “đầu” thông qua các biểu thức ẩn dụ ý niệm trong tiếng Việt và tiếng Hán. Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu đã có để tiến hành đối chiếu với tiếng Hán, các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần củng cố lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, bước đầu làm rõ những sự tương đồng và khác biệt về đặc trưng tư duy và cách thức tư duy của người Việt Nam và người Trung Quốc trong cách thức tri nhận về từ chỉ đầu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa của từ trong tiếng Việt Nghiên cứu theo hướng cấu trúc luận: Từ vựng là một bộ phận được coi là không ổn định nhất trong hệ thống ngôn ngữ, nghĩa của từ cũng vì thế mà không ngừng thay đổi. Do đó, những vấn đề liên quan đến ngữ nghĩa cũng rất hấp dẫn các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Theo Lê Quang Thiêm, lịch sử ngôn ngữ học được phân thành 3 thời kỳ chính: thời kỳ tiền cấu trúc luận, thời kỳ cấu trúc luận, thời kỳ hậu cấu trúc luận, trong đó thời kỳ hậu cấu trúc luận gắn với khuynh hướng ngôn ngữ học tri nhận. Nghiên cứu về sự chuyển nghĩa trong tiếng Việt, cuốn sách “Đặc trưng Văn hóa - Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy” (Nxb.Khoa học xã hội, 2010) của tác giả Nguyễn Đức Tồn đã trình bày đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy tộc người bao gồm các vấn đề về đặc trưng văn hoá – dân tộc của sự phạm trù hoá và định danh thế giới khách quan của ngữ nghĩa 2
- và tư duy ngôn ngữ ở người Việt, có so sánh với những dân tộc khác, trên cơ sở khảo sát một số trường và nhóm từ vựng - ngữ nghĩa cơ bản. Tác giả đã thống kê số lượng nghĩa chuyển, các phương thức chuyển nghĩa từ đó rút ra những nhận định có ý nghĩa. Cùng hướng nghiên cứu đó là một số đề tài, luận văn, luận án như “Đặc điểm trường ngữ nghĩa ẩm thực (trên tư liệu tiếng Hán và tiếng Việt)” của Ngô Minh Nguyệt. Luận án tìm hiểu đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa, đặc trưng văn hóa dân tộc của từ ngữ ẩm thực tiếng Hán và tiếng Việt. Đồng thời, bước đầu chỉ ra sự khác biệt trong trường nghĩa này của hai ngôn ngữ Việt-Hán. Trịnh Thị Thu Hòa với luận án “Từ ngữ chỉ động vật và thực vật trong tiếng Sán Dìu” đã bước đầu mô tả một cách có hệ thống về lớp từ vựng của tiếng Sán Dìu thông qua nhóm từ ngữ chỉ động vật và thực vật. Kết quả phân tích ngữ nghĩa các từ ngữ chỉ động, thực vật giúp hình dung phần nào bức tranh phân cắt hiện thực bằng ngôn ngữ của người Sán Dìu. Nghiên cứu theo hướng hậu cấu trúc luận: Năm 1989, hội nghị khoa học tổ chức tại Duisbury của Đức đã đánh dấu sự ra đời của ngôn ngữ học tri nhận – tên gọi một khuynh hướng ngữ nghĩa coi trọng sự tri nhận trong nghiên cứu ngữ nghĩa. Khuynh hướng này đề cao sự tri giác, nhận thức và năng lực của tư duy trong việc phân tích, miêu tả nghĩa của ngôn ngữ. Nhìn từ góc độ của Ngôn ngữ học tri nhận, sự phát triển nghĩa của từ được nhắc tới chủ yếu qua các nghiên cứu về ẩn dụ và hoán dụ ý niệm, thuyết nghiệm thân, các cơ chế ánh xạ. Ở Việt Nam, Lý Toàn Thắng là người đầu tiên giới thiệu lý thuyết Ngôn ngữ học tri nhận tại Việt Nam qua công trình “Ngôn ngữ học tri nhận nhìn từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” (Nxb.Khoa học xã hội, 2005) với những khái niệm cơ bản của Ngôn ngữ học tri nhận. Nguyễn Thiện Giáp đã dành một khoảng khá lớn trong cuốn “Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ” (Nxb.Giáo dục, 2009) để đề cập tới những khái 3
- niệm cơ bản của Ngôn ngữ học tri nhận. Ngoài ra, cũng có rất nhiều những luận văn, luận án nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa của từ dưới góc độ tri nhận. Hướng nghiên cứu các ẩn dụ tri nhận gắn với các điển mẫu và phạm trù tỏa tia của ngữ nghĩa học tri nhận, có một số công trình của Nguyễn Thị Bích Hợp (2015), Nguyễn Thị Hương (2017), Nguyễn Thị Hiền (2018). Nguyễn Thị Bích Hợp (2015) đã nghiên cứu khá kỹ về miền ý niệm đồ ăn dưới góc nhìn của Ngôn ngữ học tri nhận. Tác giả đã xây dựng cấu trúc miền đồ ăn gồm 5 nhóm lớn với 5 điển mẫu tương ứng: thực thể - cơm; đặc điểm – mặn; đồ dùng – bát; cảm giác – đói; hoạt động – ăn. Nguyễn Thị Hương (2017) nghiên cứu, đối chiếu ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt, nghiên cứu sự chuyển nghĩa, tỏa tia nghĩa của những điển mẫu là những từ chỉ phạm trù ăn, uống, từ nghĩa gốc, nghĩa chuyển, nghĩa phái sinh đến các ẩn dụ ý niệm trong hai ngôn ngữ. Hầu hết các luận án, luận văn hay các bài nghiên cứu đều kế thừa các lý thuyết của ngôn ngữ tri nhận để áp dụng nghiên cứu vào thực tiễn, từ đó chứng minh quá trình phát triển và chuyển nghĩa của từ sẽ là chìa khóa để con người tư duy, tri nhận thế giới khách quan. 2.2. Tình hình nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa của từ trong tiếng Hán Ở Trung Quốc, ngay từ giai đoạn 1977-1989, từ vựng ngữ nghĩa học đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đáng chú ý là quan điểm của Phù Phó Thanh (符准清) đưa ra trong cuốn “现代汉语词汇” (Từ vựng Hán ngữ hiện đại) xuất bản năm 1985. Tác giả quan niệm từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ có nghĩa, dùng để tạo câu. Từ có hai mặt là hình thức ngữ âm và khái niệm (nội dung). Theo Phù Chuẩn Thanh, từ trong quá trình sử dụng chịu rất nhiều những chế định, ảnh hưởng và nghĩa của từ thể hiện ra rất nhiều điểm dị biệt. Tuy vậy, trong những điểm dị biệt ấy vẫn có những nét 4
- chung có thể xác định được, đó chính là ý nghĩa của từ. Đây là một công trình khảo cứu chuyên sâu về từ vựng ngữ nghĩa học, có ứng dụng lý luận của nước ngoài vào việc nghiên cứu từ vựng tiếng Hán. Có thể nói rằng “Từ vựng Hán ngữ hiện đại” của Phù Chuẩn Thanh là một trong số ít công trình nghiên cứu về từ vựng học có tầm ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc đương thời và cho đến tận bây giờ. Các công trình nghiên cứu về ngữ nghĩa học có thể kể đến cuốn sách “汉语语义研究” (Nghiên cứu ngữ nghĩa tiếng Hán) của Khâu Chấn Cường (邱震强) xuất bản năm 2006. Thành quả nghiên cứu của cuốn sách này chính là những kiến giải độc đáo về sự phát triển ngữ nghĩa về cả chiều rộng và chiều sâu, tập trung phân tích ngữ tố trong tiếng Hán hiện đại, đưa ra khái niệm trường ngữ nghĩa tổng quát, nghiên cứu ngữ nghĩa dưới trạng thái động và trạng thái tĩnh. Cuốn sách này cũng chỉ ra một số đặc điểm và hướng nghiên cứu mới về ngữ nghĩa, từng bước hoàn thiện hệ thống lý luận nghiên cứu ngữ nghĩa tiếng Hán. Bên cạnh một số công trình nghiên cứu nêu trên, còn có rất nhiều luận văn, luận án, các bài nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ. Luận án tiến sĩ của 魏慧萍 (Ngụy Huệ Bình) nghiên cứu về đề tài “汉语词义发展演 变研究” (Nghiên cứu diễn biến phát triển nghĩa của từ trong tiếng Hán). Luận án đã nghiên cứu sự phát triển nghĩa của từ dưới góc độ tư duy, tri nhận, phát triển lịch sử xã hội, vận dụng phương pháp nghiên cứu đồng đại và lịch đại, mở ra con đường nghiên cứu mở rộng nghĩa của từ, từ đó chỉ ra những quy luật diễn biến phát triển nghĩa của từ trong tiếng Hán. Bài nghiên cứu “从 认知隐喻的角度看词义延伸”(Sự mở rộng nghĩa của từ nhìn từ góc độ ẩn dụ tri nhận)đăng trên chuyên mục diễn đàn văn hóa của tạp chí Văn hóa và Kinh tế biên cương năm 2010 của Lưu Tái Nam (刘赛男) căn cứ vào lý 5
- thuyết ngôn ngữ học tri nhận đưa ra quan điểm nghĩa của từ được sinh ra dưới sự tác động của tư duy tri nhận của con người, chỉ ra việc mở rộng nghĩa của từ còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như môi trường ngôn ngữ, bối cảnh văn hóa, phong cách ngôn ngữ... Đi sâu vào nghiên cứu một vấn đề cụ thể về sự phát triển nghĩa của từ có thể kể đến nghiên cứu “从认知角度看‘口’的词义演变” (Diễn biến nghĩa của từ “khẩu/miệng” từ góc độ tri nhận) của Lý Lôi (李雷) đăng trên báo trường đại học Kỹ thuật Nghiệp vụ Diên An. Bài nghiên cứu đã tiến hành phân tích có hệ thống diễn biến phát triển nghĩa của từ “khẩu/miệng” nhìn từ góc độ ẩn dụ và hoán dụ của ngôn ngữ học tri nhận, từ đó đưa ra kết luận việc mở rộng nghĩa của từ về bản chất là một hiện tượng ẩn dụ. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về nguyên nhân của sự chuyển nghĩa trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Hán nói riêng đã được các nhà nghiên cứu quan tâm và nhắc đến trong các luận án, chuyên đề,... Trong luận án tiến sĩ của Kỳ Quảng Mưu cho rằng sự chuyển nghĩa của từ ngữ cũng là phương thức tạo từ mới. Dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, có thể thấy, các nghiên cứu đã vận dụng linh hoạt lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận đem lại nhiều kết quả nghiên cứu đáng ghi nhận. 2.3. Tình hình nghiên cứu về từ chỉ đầu và sự phát triển nghĩa của từ chỉ đầu 2.3.1. Những nghiên cứu ở ngoài nước Nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người từ trước đến nay luôn thu hút sự quan tâm tìm hiểu của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Tiêu biểu có thể kể đến hai cuốn sách của Giáo sư nghiên cứu ngôn ngữ học ứng dụng người Trung Quốc Ning Yu xuất bản năm 2009 với tựa đề “The Chinese HEART in a cognitive perspective: Culture, body, and language” (Từ “tim” trong tiếng Hán nhìn về văn hoá, con người và ngôn ngữ) và “From body to meaning in 6
- culture: Papers on cognitive semantic studies of Chinese” (Từ các bộ phận cơ thể người đến ý nghĩa văn hóa: Tài liệu về nhận thức ngữ nghĩa trong tiếng Hán) nghiên cứu về sự chuyển nghĩa của một số bộ phận cơ thể người trong tiếng Hán. Đi sâu vào tìm hiểu một bộ phận cụ thể là “đầu” cũng có rất nhiều nghiên cứu. Có thể kể đến nghiên cứu của Vương Côn với đề tài “汉语“头” 的隐喻认知系统考察”(Khảo sát hệ thống ẩn dụ tri nhận của từ “đầu” trong tiếng Hán) phân tích ý nghĩa ẩn dụ và hoán dụ của từ “đầu” qua việc ánh xạ đến các miền đích khác nhau, vận dụng lý thuyết về ẩn dụ để khảo sát ngữ nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Hán. Tiếp cận dưới góc độ đối chiếu có đề tài “汉语“头”、“首”词群语义范畴与隐喻认知研究” (Nghiên cứu ẩn dụ tri nhận và phạm trù ngữ nghĩa của từ “đầu”, “thủ” trong tiếng Hán) của Lưu Y Na, phân tích phương thức tạo từ của “đầu” và “thủ”, sau đó tiến hành đối chiếu ý nghĩa ẩn dụ với từ “head” trong tiếng Anh. Hoàng Lị Bình với đề tài “从体验认知的角度看’头’的概念隐喻”(Ẩn dụ khái niệm của từ “đầu” nhìn từ góc độ tri nhận nghiệm thân) đã tiến hành đối chiếu cơ chế ánh xạ của từ “đầu” trong tiếng Hán và tiếng Anh, phân tích sự mở rộng về mặt ngữ nghĩa của từ “đầu” trong hai ngôn ngữ này. “认知,从“头”开始——浅谈隐喻、 转喻与一词多义” (Tri nhận, bắt đầu từ “đầu” – bàn về ẩn dụ, hoán dụ và một từ đa nghĩa) của Tiết Phương đã đối chiếu nghĩa mở rộng của từ “đầu”, khái quát tính tương đồng trong ẩn dụ khi phân tích về từ “đầu” trong tiếng Hán và tiếng Nhật. Các nghiên cứu đối chiếu về vấn đề này giữa tiếng Hán và tiếng Việt còn khiêm tốn, có thể kể đến nghiên cứu “从认知角度看汉越人体词“头 (đầu)”的概念隐喻” (Ấn dụ ý niệm của từ “đầu” trong tiếng Hán và tiếng Việt nhìn từ góc độ tri nhận) đăng trên báo trường Đại học Dân tộc Quảng 7
- Tây của Vi Trường Phúc. Tác giả đã tiến hành nghiên cứu ẩn dụ của từ “đầu” bằng việc phân tích và đối chiếu cơ chế ánh xạ của từ này tới bốn miền đích là đồ vật, thời gian, độ lớn, động vật trong tiếng Hán và tiếng Việt, nhưng phân loại còn đơn giản và chưa đề cập đến nguyên nhân của sự khác nhau này. Từ những nghiên cứu nói trên, có thể thấy, ẩn dụ của từ “đầu” trong tiếng Hán hay trong việc đối chiếu giữa tiếng Hán với các ngôn ngữ khác rất có sức hút đối với các nhà nghiên cứu, nhưng các nghiên cứu trước đó chủ yếu là đặt từ chỉ “đầu” trong việc nghiên cứu chung với nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người, xem xét nó dưới góc nhìn nội hàm văn hóa, chưa chỉ ra được sự phát triển ngữ nghĩa của từ chỉ “đầu” và đặc trưng tri nhận về từ chỉ “đầu” trong các loại ngôn ngữ sử dụng đối chiếu. 2.3.2. Những nghiên cứu ở trong nước Ở Việt Nam, trong những năm gần đây có một số bài viết, sách chuyên khảo, luận văn, luận án đề cập đến sự phát triển nghĩa của từ chỉ bộ phận cơ thể người khi nghiên cứu về từ vựng ngữ nghĩa. Có thể kể đến đề tài “Tìm hiểu thành ngữ tiếng Việt chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người trên lý thuyết ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng” của Nguyễn Trung Kiên nghiên cứu về thành ngữ nói chung và thành ngữ chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người nói riêng dựa trên một cái nhìn tổng thể, đa chiều của lý thuyết ba bình diện ngôn ngữ là ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Đề tài “Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận” của Nguyễn Thị Hiền (2018) nghiên cứu các điển mẫu, là các từ chỉ bộ phận cơ thể người và cơ chế tỏa tia của các điển mẫu theo hướng tri nhận, phân tích các đặc điểm chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người trên cơ sở mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và tri nhận, góp phần chứng minh ẩn dụ, hoán dụ tri nhận không chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là vấn đề của tư duy, nhận thức. Về đối chiếu, có thể kể đến một số đề tài như “Khảo sát đặc trưng từ, 8
- ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt liên hệ chuyển dịch sang tiếng Anh” của Phạm Thị Tuyết Thanh; “Từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tục ngữ, ca dao tiếng Hán và tiếng Việt dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận” của Liêu Thị Thanh Nhàn, “Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu bộ phận cơ thể người)” của Trịnh Thị Thanh Huệ... Tuy nhiên, những nghiên cứu trong nước tập trung tìm hiểu về một bộ phận của cơ thể người lại chưa có nhiều. Bài nghiên cứu với tiêu đề “Thành ngữ tiếng Việt có từ chỉ "tay", "chân" với đặc trưng văn hoá dân tộc” của tác giả Nguyễn Thị Thu đăng trên trang tin điện tử Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã xem xét các thành ngữ có từ chỉ tứ chi người với những ý nghĩa khác nhau thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc và cốt cách của con người Việt Nam. Về đối chiếu có đề tài “Định danh chuyển nghĩa của từ ‘tay’ trong tiếng Việt và các từ tương đương trong tiếng Anh” của Nguyễn Văn Hải đăng trên chuyên mục Ngoại ngữ với Bản ngữ của Tạp chí Ngôn ngữ&Đời sống số 4(234)-2015. Bài báo phân tích sự chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ của từ “tay” trong tiếng Việt và “arm”, “hand” trong tiếng Anh. Như vậy, có thể thấy, nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người đã được nghiên cứu theo nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của riêng một bộ phận (ở đây là từ chỉ đầu) lại chưa được đề cập một cách chi tiết và hệ thống, sự chuyển nghĩa của của từ chỉ đầu cũng có được nhắc đến trong một vài công trình nhưng nó diễn ra theo con đường nào, nguyên nhân dẫn đến sự phát triển nghĩa này là do đâu lại chưa được giải thích cụ thể. Từ những lý do trên, luận văn đã lựa chọn triển khai nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt, và tiến thêm một bước là tiến hành đối chiếu với tiếng Hán. 9
- 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Chỉ ra con đường phát triển nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Việt và từ “ 头 ” trong tiếng Hán, trên cơ sở đó tìm ra những nguyên nhân tương đồng và khác biệt trong tư duy tri nhận của người Việt Nam và Trung Quốc, từ đó xác định đặc điểm tri nhận, đặc trưng văn hóa của hai dân tộc Việt-Trung. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Qua việc phân tích những ý nghĩa cụ thể của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán ở những ngữ cảnh khác nhau, luận văn sẽ cố gắng chỉ ra sự phát triển ngữ nghĩa của từ “đầu” qua mô hình tỏa tia, từ đó tiến hành đối chiếu ý nghĩa ẩn dụ, để tìm ra sự phát triển ngữ nghĩa của từ chỉ đầu trong hai ngôn ngữ trên. Qua khảo sát khối liệu từ vựng tiếng Việt và tiếng Hán có chứa từ chỉ đầu, luận văn chỉ ra con đường và sự chuyển di nghĩa phái sinh của từ “đầu” thông qua việc xây dựng các mô hình ẩn dụ ý niệm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của luận văn là từ chỉ đầu (thủ) trong tiếng Việt và tiếng Hán - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán qua phương thức chuyển nghĩa cơ bản là ẩn dụ. - Phạm vi ngữ liệu nghiên cứu: Luận văn khảo sát các từ chỉ đầu và các nghĩa phái sinh của từ chỉ đầu trong Từ điển Tiếng Việt (Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, Nxb Đà Nẵng, 2013) và Từ điển tiếng Hán (Từ điển Hán ngữ hiện đại của của Nxb Thương vụ, 2014); khảo sát các ngữ có chứa từ chỉ đầu trong các cuốn thành ngữ tiếng Việt (1. Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, 10
- Phan Xuân Thành; 2. Từ điển thành ngữ tiếng Việt, 1978, Nguyễn Lực-Lương Văn Đang) và tiếng Hán (Thành ngữ đại từ điển, Nxb Thương vụ, 2013). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp miêu tả: được dùng để miêu tả và phân tích sự phát triển ngữ nghĩa, cơ chế chuyển nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán. - Phương pháp phân tích nghĩa tố: Phương pháp phân tích nghĩa tố phân xuất ý nghĩa của từ thành các nghĩa tố, từ đó xác định được sự biến đổi về ý nghĩa, cơ chế chuyển nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán. Phương pháp này được coi là phương pháp nghiên cứu chính trong luận văn. - Phương pháp phân tích ý niệm: Phương pháp này được sử dụng để phân tích các ý niệm và chỉ ra sự chuyển di các nét thuộc tính từ miền nguồn sang miền đích trong các biểu thức ẩn dụ ý niệm có chứa từ chỉ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán. - Thủ pháp thống kê: Thủ pháp này được dùng để thống kê những ý nghĩa cùng hệ thống những ẩn dụ ý niệm của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán. - Thủ pháp so sánh: Thủ pháp này được sử dụng để chỉ ra những điểm khác biệt và tương đồng trong những ý nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán, từ đó chỉ ra cơ chế chuyển di nghĩa và chiếu xạ của từ chỉ đầu trong hai ngôn ngữ trên. - Thao tác quy nạp, phân tích: thao tác này được dùng sau khi đã tiến hành đối chiếu hai ngôn ngữ để tổng kết và phân tích những đặc điểm tri nhận và đặc trưng văn hóa Việt-Trung. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về ý nghĩa lý luận: Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý thuyết về sự phát triển ngữ nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán, củng cố lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, 11
- giúp chúng ta tìm ra những đặc điểm về tư duy tri nhận thế giới khách quan của hai cộng đồng ngôn ngữ, qua đó đóng góp và bổ sung những kết quả nghiên cứu ẩn dụ tri nhận về các bộ phận cơ thể người. - Về ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp cho người học tiếng Việt và tiếng Hán biết cách sử dụng những từ có chứa yếu tố “đầu” chuẩn xác hơn, đa dạng hơn, sâu sắc hơn trong ngữ cảnh giao tiếp phù hợp tạo hiệu quả giao tiếp tốt nhất. Mặt khác, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được ứng dụng trong nghiên cứu, giảng dạy tiếng Việt hoặc tiếng Hán, rộng hơn là giới thiệu về ngôn ngữ và văn hóa Việt- Trung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và ngữ liệu khảo sát, luận văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý thuyết Chương 2. Nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头” trong tiếng Hán Chương 3. Ẩn dụ ý niệm của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头” trong tiếng Hán 12
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Một số vấn đề cơ bản về nghĩa của từ 1.1.1 Nghĩa của từ Nghĩa của từ là một hệ thống các nét có quan hệ qua lại với nhau. Hoàng Phê [25] đã phân tích ngữ nghĩa của từ mẹ để có được một cái nhìn cụ thể về cấu trúc của nghĩa từ. Mẹ có thể phân tích thành ba nét nghĩa: [phụ nữ], [đã có con], [nói trong mối quan hệ với con]. Giữa ba nét nghĩa trên có mối quan hệ trật tự nhất định. Nét nghĩa đứng trước là tiền đề cho nét nghĩa đứng sau, nét nghĩa đứng sau thuyết minh, cụ thể hóa nét nghĩa đứng trước. Quan hệ quy định lẫn nhau này của các nét là “một quan hệ tĩnh, trong nội bộ nghĩa của từ, xét một cách cô lập” [25]. Khi từ hoạt động để tạo thành các tổ hợp từ lớn hơn, giữa các nét nghĩa của từ cần có một loại quan hệ khác vô cùng quan trọng: “quan hệ cấp bậc”. Hoàng Phê đã nhấn mạnh: “Giữa hai loại quan hệ, trật tự và cấp bậc không nhất thiết có sự tương ứng, mà trái lại thường có mâu thuẫn” [25]. Khi từ được đặt trong một ngữ cảnh cụ thể, không phải lúc nào mọi nét nghĩa xét trong quan hệ tĩnh cũng đều tham gia vào việc thực hiện chức năng thông báo. Chẳng hạn, khi từ “mẹ” thực hiện chức năng thông báo, có thể là cả ba nét nghĩa nhưng cũng có thể chỉ có hai, thậm chí một nét nghĩa trong cấu trúc biểu niệm của nó được hiện thực hóa. Nói tóm lại, nghĩa của từ được Hoàng Phê [25] kết luận như sau: “Nghĩa của từ , nói chung: a. Là một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau; b. Giá trị của các nét nghĩa không như nhau (giữa các nét nghĩa có quan hệ cấp bậc), biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào việc thực hiện chức năng thông báo; 13
- c. Các nét nghĩa có tính độc lập tương đối, biểu hiện ở khả năng độc lập tổ hợp và tác động qua lại với những nét nghĩa của những từ khác khi từ tổ hợp với nhau.” Quan niệm của Hoàng Phê cho thấy cấu trúc của nghĩa từ là một cấu trúc động, nghĩa là khi từ hoạt động, thường chỉ có một số nét nghĩa trong nghĩa của từ có khả năng hiện thực hóa. Và nét nào của từ được hiện thực hóa là tùy thuộc vào ngữ cảnh, cụ thể là “tùy vào chức năng của từ trong ngữ”, tùy vào quan hệ cú pháp của từ với các từ khác, tùy nội dung ngữ nghĩa của những từ kết hợp với nó. Như vậy, cấu trúc ngữ nghĩa của một từ có liên quan chặt chẽ đến hoạt động ngữ pháp của nó. Điều này không chỉ Hoàng Phê mà các nhà ngữ nghĩa học hiện đại đều công nhận. Đỗ Hữu Châu khi nói về mối quan hệ giữa ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa ngữ pháp đã khẳng định: “Những nét nghĩa trong ý nghĩa biểu niệm chung cho nhiều từ không chỉ có tính từ vựng mà cũng có tính ngữ pháp” [2, tr.119] bởi những nét nghĩa khái quát trong cấu trúc biểu niệm (sự vật, hoạt động, tính chất) chính là ý nghĩa từ loại hay ý nghĩa ngữ pháp của từ. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng “bản thân những nét nghĩa trong ý nghĩa biểu niệm và quan hệ giữa chúng có tác dụng quy định cách dùng từ, qui định cách kết hợp của nó với các từ khác trong câu” [2, tr.119]. Các từ chỉ có thể tạo thành những tổ hợp chấp nhận được trong thực tế khi giữa chúng có sự tương hợp về ngữ nghĩa. Nói như JU.D Aprexjan: “Hạn chế về kết hợp của những từ khác nhau trong lời nói là sự vắng mặt trong ý nghĩa của chúng những thành tố nghĩa chung hoặc là sự có mặt của các thành tố nghĩa không dung hòa được nhau” [19]. Cuối cùng, chúng tôi xin nhấn mạnh quan điểm của Hoàng Phê, “nghĩa của từ xem ra nên quan niệm là một tiềm năng. Có những nét nghĩa hầu như luôn luôn được hiện thực hóa, bên cạnh những nét nghĩa chỉ được hiện thực 14
- hóa trong những trường hợp nhất định, có khi là những trường hợp rất hãn hữu. Định nghĩa từ điển của từ nhiều lắm cũng chỉ có thể nêu được những nét nghĩa có khả năng hiện thực hóa trong những trường hợp điển hình” [25]. 1.1.2. Sự chuyển biến ý nghĩa của từ Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, hiện tượng nhiều nghĩa là kết quả của sự chuyển biến ý nghĩa của từ. Từ (đơn hoặc phức) lúc đầu mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa biểu vật. Sau một thời gian được sử dụng, nó có thể có thêm những nghĩa biểu vật mới. Các nghĩa biểu vật mới xuất hiện ngày càng nhiều thì nghĩa biểu niệm của nó càng có khả năng biến đi. [2, tr.147]. Giữa nghĩa đầu tiên với các nghĩa mới có thể diễn ra sự biến đổi theo kiểu móc xích. Phần lớn các trường hợp của từ chuyển biến theo lối “tỏa ra” nghĩa là các nghĩa mới đều dựa vào nghĩa đầu tiên mà xuất hiện. Sự chuyển nghĩa có thể dẫn tới kết quả là ý nghĩa sau khác hẳn với nghĩa trước, thậm chí ngay cùng một từ sự chuyển nghĩa có thể khiến cho nó trở thành đồng nghĩa với cái từ trái nghĩa trước kia của nó. Khi các nghĩa chuyển biến còn liên hệ với nhau, sự chuyển nghĩa có thể làm cho ý nghĩa của từ mở rộng ra hoặc thu hẹp lại.[2, tr.149 -150] Chuyển nghĩa từ vựng là một trong những nội dung cơ bản của ngôn ngữ học truyền thống. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp và Đỗ Hữu Châu, sự phát triển nghĩa của từ chủ yếu dựa vào hai phương thức ẩn dụ và hoán dụ. Cụ thể: - Phương thức ẩn dụ “Phương thức ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa lấy tên gọi A của x để gọi tên y (để biểu thị y), nếu như x và y giống nhau. Các sự vật được gọi tên, tức x và y, không có liên hệ khách quan, chúng thuộc những phạm trù hoàn toàn khác nhau. Sự chuyển tên gọi diễn ra tùy thuộc vào nhận thức có tính chất chủ quan của con người về sự giống nhau giữa chúng” [2, tr.156]. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 681 | 93
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
199 p | 379 | 78
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 674 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 308 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 153 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 203 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 248 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn từ trong thơ Tố Hữu (nhìn từ bình diện từ vựng)
175 p | 179 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 171 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 170 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 165 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 169 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 206 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 158 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt
154 p | 171 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 121 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Yếu tố giới trong lời chê và hồi đáp chê (trên cứ liệu giao tiếp của sinh viên tại tp.HCM)
123 p | 130 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 159 | 19
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn