intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, văn học và văn hóa Việt Nam: Các chu tố của động từ tiếng Việt (trên cứ liệu truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan)

Chia sẻ: Tri Lễ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

46
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở sự khảo sát, thống kê, phân loại các chu tố của động từ được sử dụng trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, luận văn phân tích làm rõ đặc điểm về các mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của chu tố với tư cách là thành tố phụ tự do của động từ; qua đó, góp phần làm sáng tỏ thêm một số khía cạnh lí thuyết kết trị và lí thuyết ngữ pháp chức năng liên quan đến chu tố hay thành phần phụ tự do của vị từ nói chung trong lời nói sinh động; đồng thời, cung cấp một tài liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu và dạy học Ngữ văn Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, văn học và văn hóa Việt Nam: Các chu tố của động từ tiếng Việt (trên cứ liệu truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan)

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN CÁC CHU TỐ CỦA ĐỘNG TỪ TIẾNG VIỆT (TRÊN CỨ LIỆU TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC NGUYỄN CÔNG HOAN) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HOÁ VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN, NĂM 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN CÁC CHU TỐ CỦA ĐỘNG TỪ TIẾNG VIỆT (TRÊN CỨ LIỆU TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC NGUYỄN CÔNG HOAN) Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã ngành: 8 22 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HOÁ VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN VĂN LỘC THÁI NGUYÊN, NĂM 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì một công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hồng Chuyên i
  4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu đề tài, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ các thầy cô, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Văn Lộc, người thầy đã tận tình giúp đỡ tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và Phòng đào tạo Sau đại học, các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô giáo trong Viện Ngôn ngữ, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường THPT Phụ Dực - Thái Bình, các bạn bè, đồng nghiệp, và những người thân trong gia đình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018 Tác giả Nguyễn Thị Hồng Chuyên ii
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii MỤC LỤC ..........................................................................................................iii DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. iv MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 1 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2 5. Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 2 6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 2 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN.............................................................................. 3 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 3 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chu tố của động từ trong tiếng Việt ................. 3 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ trong “Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan”...................................................................................... 8 1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn ............................................................................ 12 1.2.1. Vài nét về lí thuyết kết trị ........................................................................ 12 1.2.2. Khái niệm diễn tố, chu tố ........................................................................ 18 1.2.3. Những đặc điểm cơ bản của chu tố ......................................................... 20 1.2.4. Mối quan hệ (sự tương ứng) giữa chu tố với trạng ngữ và vai nghĩa ..... 23 1.2.5. Các kiểu chu tố ........................................................................................ 25 1.2.6. Vài nét về Nguyễn Công Hoan và Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan ......................................................................................................... 26 1.3. Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 28 iii
  6. Chương 2. CHU TỐ CỦA ĐỘNG TỪ TRONG TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP......... 29 2.1. Kết quả khảo sát ......................................................................................... 29 2.1.1. Về số lượng .............................................................................................. 29 2.1.2. Về kiểu loại .............................................................................................. 32 2.2. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan xét về mặt cách biểu hiện .................................................................................. 33 2.2.1. Chu tố được biểu hiện bằng thể từ (danh từ, cụm danh từ, đại từ) ......... 33 2.2.2. Chu tố được biểu hiện bằng vị từ, cụm vị từ ........................................... 35 2.3. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan xét về mặt phương thức kết hợp ........................................................................ 37 2.3.1. Chu tố kết hợp gián tiếp với vị ngữ hoặc vị từ ........................................ 37 2.3.2. Chu tố kết hợp trực tiếp với vị ngữ hoặc vị từ ........................................ 41 2.4. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan xét về mặt vị trí .................................................................................................. 41 2.4.1. Các vị trí mà chu tố chiếm giữ trong câu ................................................ 41 2.4.2. Khả năng cải biến vị trí của các chu tố trong câu.................................... 48 2.5. Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................... 53 Chương 3. CHU TỐ CỦA ĐỘNG TỪ TRONG TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG............................................................................................... 54 3.1. Chu tố của động từ xét về mặt ngữ nghĩa ................................................... 54 3.1.1. Vai trò ngữ nghĩa của chu tố trong câu ................................................... 54 3.1.2. Các kiểu chu tố của động từ xét về mặt ngữ nghĩa ................................. 56 3.2. Chu tố của động từ xét về mặt ngữ dụng .................................................... 73 3.2.1. Dẫn nhập .................................................................................................. 73 3.2.2. Vai trò của chu tố trong việc tham gia tạo lập cấu trúc đề thuyết của câu .... 74 3.2.3. Chu tố trong vai trò tạo lập cấu trúc thông tin của câu ........................... 82 3.3. Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................... 85 KẾT LUẬN....................................................................................................... 86 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN........88 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 89 iv
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số câu có chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan ............................................................................................... 30 Bảng 2.2: Số lượng chu tố của động từ trong 1510 câu ở Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan .................................................................................. 31 Bảng 2.3: Các kiểu loại chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp ................................................ 32 Bảng 3.1: Các kiểu loại chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ nghĩa ............................................... 57 iv
  8. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Người Việt Nam chúng ta ai cũng biết đến câu “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Quả đúng như vậy, câu ví thể hiện sự phong phú và phức tạp của ngữ pháp tiếng Việt. Khi phân tích câu tiếng Việt, ngoài thành phần thuộc nòng cốt (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) ta thấy còn xuất hiện các thành phần khác với cấu tạo, chức năng và các kiểu ý nghĩa khác nhau. Chu tố của động từ (về cơ bản, tương ứng với cả trạng ngữ của câu lẫn trạng ngữ hay trạng tố của động từ theo quan niệm truyền thống) là thành tố cú pháp phổ biến trong câu, có vai trò ngữ pháp và ngữ nghĩa quan trọng đối với tổ chức của câu. Việc nghiên cứu về chu tố hay thành tố phụ tự do của động từ (với các tên gọi khác nhau trong ngữ pháp học truyền thống) mặc dù được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt nhưng đến nay, chúng tôi thấy có rất ít công trình khảo sát có hệ thống và chuyên sâu về chu tố của động từ theo lí thuyết kết trị trong một tác phẩm của một nhà văn cụ thể. Theo chúng tôi, việc nghiên cứu theo hướng này có ý nghĩa cả về lí luận lẫn thực tiễn. Về lí luận, kết quả nghiên cứu về đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm đặc điểm cú pháp của chu tố nói chung, chu tố của động từ nói riêng với tư cách là thành tố cú pháp phụ thuộc thể hiện kết trị tự do của vị từ với những biến thể phong phú, đa dạng khi nó xuất hiện trong câu văn gắn với cách dùng của một tác giả cụ thể. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu theo hướng này sẽ cung cấp thêm những tư liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu và dạy học Ngữ văn Việt Nam trong nhà trường. Với những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: Các chu tố của động từ tiếng Việt (Trên cứ liệu Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan) để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở sự khảo sát, thống kê, phân loại các chu tố của động từ được sử dụng trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, luận văn phân tích làm rõ đặc điểm về các mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của chu tố với tư cách là thành tố phụ tự do của động từ; qua đó, góp phần làm sáng tỏ thêm một số khía cạnh lí thuyết kết trị và lí thuyết ngữ pháp chức năng liên quan đến chu tố hay thành phần phụ tự do của vị từ nói chung trong lời nói sinh động; đồng thời, cung cấp một tài liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu và dạy học Ngữ văn Việt Nam. 1
  9. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chu tố của động từ trong tiếng Việt được sử dụng trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là đặc điểm của các chu tố của động từ xuất hiện trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan (NXB Văn học, 2013) về các mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, và ngữ dụng. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp miêu tả với các thủ pháp: thống kê, phân loại, phân tích, tổng hợp. Ngoài ra, để làm nổi bật các khía cạnh ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng của các chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, luận văn còn sử dụng các thủ pháp: lược bỏ, bổ sung, thay thế, cải biến cho phù hợp với đặc điểm không biến hình của tiếng Việt. 5. Đóng góp của đề tài Về lí luận: Với đề tài Các chu tố của động từ tiếng Việt (Trên cứ liệu Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan), luận văn đã làm rõ các biểu hiện phong phú và đa dạng về hình thức ngữ pháp, về vai trò ngữ nghĩa và ngữ dụng của các chu tố của động từ trong lời nói sinh động gắn với cách dùng của một tác giả cụ thể có uy tín về sử dụng ngôn ngữ. Qua đó, luận văn cũng góp phần làm sáng tỏ thêm một số quan điểm lí thuyết mới về thành phần chu tố hay về trạng ngữ (với tư cách là thành phần phụ mở rộng tự do cho vị ngữ hay vị từ chứ không phải là thành phần phụ có quan hệ cú pháp với cả cụm chủ vị như quan niệm truyền thống). Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và dạy học Ngữ văn Việt Nam trong nhà trường. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận, thực tiễn Chương 2. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp Chương 3. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng. 2
  10. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chu tố của động từ trong tiếng Việt Chu tố của động từ được nói đến ở đây được nhìn từ góc độ lí thuyết kết trị và là thành tố cú pháp vừa có sự tương ứng nhất định với trạng ngữ (gia ngữ, bổ ngữ của câu, thành phần tình huống của câu), vừa có sự tương ứng với trạng ngữ hay bổ ngữ tự do của động từ theo cách hiểu truyền thống. Đây là một trong những thành phần cú pháp xuất hiện phổ biến trong câu và từ lâu đã được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt theo quan niệm truyền thống với các tên gọi như trạng ngữ, gia ngữ, bổ ngữ của câu, thành phần tình huống và bổ ngữ tự do của vị từ. Trong việc nghiên cứu về trạng ngữ (mà theo quan niệm truyền thống được coi là thành phần phụ bổ sung cho cụm chủ vị nòng cốt của câu), một số vấn đề được giải quyết khá tốt và đạt được sự nhất trí tương đối cao như: vai trò cú pháp của trạng ngữ trong câu, đặc điểm ý nghĩa, hình thức của trạng ngữ. Tuy nhiên, cũng còn những vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng. Dưới đây, chúng tôi xin nêu khái quát tình hình nghiên cứu về trạng ngữ và bổ ngữ tự do của vị từ (theo cách hiểu truyền thống) trong tiếng Việt. 1.1.1.1. Về bản chất cú pháp của chu tố (trạng ngữ của câu, bổ ngữ tự do của vị từ) a. Theo quan niệm truyền thống: Hầu như các tác giả Việt Nam theo khuynh hướng truyền thống đều cho rằng trạng ngữ là thành phần thứ yếu hay thành phần phụ của câu có quan hệ cú pháp với cả nòng cốt câu. Nguyễn Kim Thản cho rằng: "trạng ngữ là thành phần thứ yếu của câu biểu thị các ý nghĩa về thời điểm, địa điểm, nguyên nhân, mục đích, phương tiện, hay tình thái” [45, 565]. Phân biệt trạng ngữ với bổ ngữ tự do của vị từ, ông cho rằng trạng ngữ “là thành phần phụ thêm vào cho cả câu…sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào một từ nào, cũng không phụ thuộc vào loại hay tiểu loại của từ nào” [45, 521]; còn "bổ ngữ thời hạn thì phụ thuộc vào vị từ” [45, 565]. Hoàng Trọng Phiến cũng coi trạng ngữ "là thành phần thứ yếu của câu, có ý nghĩa địa điểm, không gian, thời gian, nguyên nhân, mục đích” [39, 124]. 3
  11. Tập thể các tác giả (Trung tâm Khoa học xã hội Việt Nam) gọi trạng ngữ là "thành phần tình huống" và cho rằng "thành phần này có tác dụng bổ sung ý nghĩa cho cả nòng cốt câu” và "nó là một thành phần thứ yếu so với các thành phần chủ yếu trong nòng cốt” [57, 239]. Diệp Quang Ban gọi trạng ngữ là "bổ ngữ của câu" và quan niệm "bổ ngữ của câu là những thành phần phụ của câu nêu lên cái hoàn cảnh trong đó diễn ra sự việc nói ở nòng cốt câu” [2, 180]. Chủ trương phân biệt thành phần phụ của câu với thành phần phụ của từ, ông cho rằng: "thành phần phụ của câu có tính chất tự lập tương đối về mặt ngữ pháp, tức là nó không phụ thuộc về mặt cú pháp vào yếu tố ngôn ngữ nào trong nòng cốt mà có quan hệ cú pháp với toàn bộ nòng cốt câu” [2, 175]. Hai tác giả Bùi Minh Toán - Nguyễn Thị Lương trong cuốn "Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt" cho rằng "trạng ngữ là thành phần phụ của câu, biểu thị các ý nghĩa thời gian, nơi chốn, phương tiện, cách thức, mục đích, nguyên nhân…của sự tình được nêu ra trong câu” [56, 122]. "Cấu tạo của trạng ngữ khá đa dạng, nó có thể là một từ, một cụm từ, tổ hợp từ” [56, 126]. Trạng ngữ với tư cách là thành phần phụ của câu, có quan hệ cú pháp và ý nghĩa với nòng cốt câu như quan niệm trên đây được phân biệt với bổ ngữ tự do (bổ tố, trạng tố) của vị từ. Các tác giả đều cho rằng việc phân biệt thành phần phụ của câu nói chung, trạng ngữ nói riêng, với thành phần phụ của từ, trong đó có bổ ngữ tự do của vị từ là vấn đề phức tạp và sự phân biệt này không phải bao giờ cũng "thật rạch ròi được”. Thực tế cũng cho thấy đến nay, hầu như cũng chưa có tác giả nào đưa ra được sự phân biệt rạch ròi, thật sự có sức thuyết phục hai kiểu thành tố cú pháp này. Theo Nguyễn Văn Hiệp, các tiêu chí cho phép phân biệt trạng ngữ với các thành tố phụ thuộc cấu trúc bậc dưới câu của vị từ là: + Quan hệ phụ thuộc với nòng cốt câu. + Khả năng cải biến vị trí mà không làm thay đổi quan hệ giữa các thành tố còn lại trong câu. Tác giả cho rằng có thể dùng thủ pháp chen một thành tố đồng vị đã xác định chức năng để thấy được quan hệ phụ thuộc vào nòng cốt câu của trạng ngữ và phân biệt nó với bổ tố tự do của vị từ. Cùng với thủ pháp chen một yếu tố đồng vị, thủ pháp cải biến vị trí cũng được tác giả sử dụng để chỉ ra sự khác biệt giữa trạng ngữ và bổ tố của vị từ [21, 209-222]. 4
  12. b. Các quan niệm khác: Ngoài quan niệm phổ biến trên, cần phải kể đến ý kiến của tác giả V.S.Panfilov trong cuốn Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt. Tác giả cho rằng: “trạng ngữ là yếu tố mở rộng tự do của vị ngữ, có ý nghĩa sự kiện và có khả năng thay thế bằng mệnh đề phụ” [38, 315]. Tác giả Nguyễn Mạnh Tiến cũng cho rằng "trạng ngữ chính là thành phần phụ của câu thể hiện kết trị tự do của vị từ (hoặc trạng ngữ là chu tố của vị từ)… Mối quan hệ cú pháp giữa trạng ngữ với vị từ (vị ngữ) được khẳng định bởi sự có mặt đồng thời của cả mối quan hệ ý nghĩa lẫn mối quan hệ hình thức giữa chúng (khả năng dùng độc lập của tổ hợp do chúng tạo thành)” [54, 60]. Nhận xét về quan niệm truyền thống đối với trạng ngữ, tác giả Nguyễn Mạnh Tiến còn cho rằng "việc xác định nội dung và hình thức của trạng ngữ (có quan hệ cú pháp với nòng cốt của câu, có tính biệt lập về hình thức và khả năng cải biến vị trí) cũng như việc dựa vào những đặc điểm đó để phân biệt nó với bổ ngữ tự do của vị từ, qua đó, khẳng định sự đối lập về bản chất giữa hai kiểu thành tố cú pháp này mặc dù có những cơ sở nhất định nhưng nhìn chung chưa được luận giải một cách thật sự có sức thuyết phục dựa vào một quan niệm rõ ràng, nhất quán về quan hệ cú pháp và thành phần cú pháp của câu” [54, 51]. Qua các quan niệm trên, có thể thấy về tính chất của mối quan hệ cú pháp giữa trạng ngữ với bộ phận còn lại của câu, đến nay, có hai quan niệm chính: 1/ coi trạng ngữ là thành phần phụ của câu có quan hệ cú pháp với cả nòng cốt câu; 2/ coi trạng ngữ là thành phần phụ mở rộng tự do của vị ngữ hay vị từ. Theo tác giả Nguyễn Văn Lộc, để xác định bản chất của mối quan hệ cú pháp giữa trạng ngữ và các thành tố khác của câu “cần phải dựa vào khái niệm quan hệ cú pháp và cách xác định sự có mặt của mối quan hệ cú pháp giữa các từ (cụm từ) trong câu’’ (theo đó, “hai từ, cụm từ được coi là có quan hệ cú pháp với nhau nếu giữa chúng có thể xác định một kiểu quan hệ ngữ nghĩa nhất định và ngữ đoạn chứa chúng có khả năng hoạt động độc lập hoặc tư cách biến thể tỉnh lược của câu”)[30, 343]. Với cách hiểu về quan hệ cú pháp, cách xác định sự có mặt của mối quan hệ cú pháp giữa các từ như đã chỉ ra, có cơ sở để cho rằng trạng ngữ, về bản chất cú pháp, là thành tố phụ không bắt buộc của vị ngữ (vị từ) hoặc "là yếu tố mở rộng tự do của vị ngữ” [30, 343]. Cụ thể: Về nội dung, trạng ngữ đều bổ sung cho vị ngữ hay vị từ một 5
  13. ý nghĩa nhất định. Về hình thức, trạng ngữ có thể cùng với vị ngữ hay vị từ tạo thành một tổ hợp dùng độc lập hoặc dùng với tư cách là biến thể tỉnh lược của câu [30, 346]. Chúng tôi cho rằng đây là quan niệm có cơ sở. 1.1.1.2. Về đặc điểm nội dung của chu tố (trạng ngữ truyền thống) Về đặc điểm nội dung của chu tố (trạng ngữ), các tác giả có ý kiến tương đối thống nhất. Tác giả Nguyễn Văn Hiệp cho rằng: “…trạng ngữ biểu thị những ý nghĩa về không gian, thời gian, mục đích, nguyên nhân, phương tiện…cho sự tình được biểu đạt trong câu” [21, 206]. Nhận xét về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa thành phần phụ của câu (trong đó có trạng ngữ) với các từ ngữ còn lại của câu, Diệp Quang Ban viết: "Về mặt nghĩa, bộ phận nằm ngoài nòng cốt này có thể liên hệ rõ rệt với một yếu tố nào đó trong nòng cốt câu” [3, 177]. Về ý nghĩa cụ thể của trạng ngữ, tác giả xác định các kiểu chính như: trạng ngữ không gian, thời gian, tình hình, nguyên nhân, mục đích, nhượng bộ…[3, 179]. Nguyễn Kim Thản cũng cho rằng: "Trạng ngữ là thành phần thứ yếu của câu biểu thị các ý nghĩa thời điểm, địa điểm, nguyên nhân, mục đích, phương tiện hay tình thái” [45, 565]. Tác giả còn chỉ rõ: "Khi đặt ở cuối câu, trạng ngữ có tác dụng miêu tả hoàn cảnh tiến hành của hoạt động hay trạng thái biểu thị trong bộ phận vị ngữ” [45, 569] hoặc "Trạng ngữ thời gian thường đặt ở đầu câu. Nó có thể biểu thị thời điểm cụ thể của đặc trưng (do vị ngữ biểu thị)…” [45, 565]. Đề cập đến đặc điểm nội dung của trạng ngữ, Nguyễn Văn Lộc cho rằng: Về nội dung, trạng ngữ có ba đặc điểm chính: tính phụ thuộc, tính không bắt buộc (tự do) và ý nghĩa tình trạng, hoàn cảnh (chỉ không gian, thời gian, nguyên nhân, mục đích, công cụ, tính chất, cách thức…) [30, 348]. 1.1.1.3. Về đặc điểm hình thức của chu tố (trạng ngữ truyền thống) a. Về cấu tạo (cách biểu hiện) Hầu hết các tác giả đều cho rằng trạng ngữ có thể được biểu hiện bằng danh từ (cụm danh từ) hoặc vị từ (cụm vị từ, cụm chủ vị). Tác giả Nguyễn Văn Lộc cho rằng: “Trạng ngữ được biểu hiện bằng hai hình thức chủ yếu là danh từ (cụm danh từ) và vị từ (cụm vị từ, cụm chủ vị)” [30, 351]. Tác giả Nguyễn Thị Nhung cho rằng: “trạng ngữ có thể cấu tạo là một từ, là đoản ngữ, cụm từ đẳng lập hay cũng có thể có cấu tạo là cụm chủ vị” [37, 164 ]. 6
  14. b. Về vị trí Hoàng Trọng Phiến khẳng định "trạng ngữ có khả năng ở đầu câu, ở giữa và ở cuối câu nhưng vị trí phổ biến nhất là đầu câu” [39, 156]. Diệp Quang Ban quan niệm: "trạng ngữ thường đứng ở trước nòng cốt câu, tuy nhiên, vẫn gặp nó sau nòng cốt câu hoặc giữa chủ ngữ và vị ngữ” [3, 178-179]. Nguyễn Kim Thản cho rằng: hai vị trí thường thấy của trạng ngữ là "đầu câu và cuối câu” [45, 565]. Trạng ngữ "có nhiều khả năng tự do về vị trí ở trong câu”, còn "bổ ngữ thời hạn thì…chỉ có một vị trí cố định sau vị từ” [45, 565]. Tác giả Nguyễn Văn Hiệp cho rằng: "trạng ngữ là thành phần phụ của câu có khả năng tham gia cải biến vị trí: đứng trước, đứng sau nòng cốt hoặc chen vào giữa chủ ngữ và vị ngữ” [21, 206]. Điều đáng chú ý là các tác giả trên đây chỉ nói đến vị trí "phổ biến nhất” hoặc vị trí thường thấy của trạng ngữ chứ không xác định cụ thể trong các vị trí mà trạng ngữ có thể chiếm giữ, vị trí nào là vị trí cơ bản (xuất phát). Trong bài viết "Về vị trí cơ bản của trạng ngữ trong câu xét trong mối quan hệ kết trị với vị từ”, tác giả Nguyễn Mạnh Tiến khẳng định mặc dù có sự tự do về vị trí nhưng "vị trí cơ bản, vị trí xuất phát, vị trí thuận của trạng ngữ là ở sau vị từ” [54, 49]. Điều này không chỉ thể hiện ở sự xuất hiện phổ biến của nó ở vị trí này như Nguyễn Kim Thản đã xác nhận [45, 565] mà còn thể hiện ở chỗ sự xuất hiện của nó ở vị trí này hầu như không bị hạn chế bởi điều kiện đặc biệt nào [45, 565]. Nguyễn Văn Lộc cũng khẳng định: Về vị trí, "trạng ngữ được đặc trưng bởi tính linh hoạt, tự do về vị trí trong câu, nhiều trạng ngữ có khả năng chiếm các vị trí: trước cụm chủ vị, giữa chủ ngữ, vị ngữ hoặc sau chủ ngữ, vị ngữ " [30, 352]. Tuy nhiên, tác giả khẳng định rằng: "Vị trí sau vị từ của trạng ngữ chính là vị trí có tính phổ biến cao nhất” [30, 352]. c. Về phương thức kết hợp Ý kiến tương đối thống nhất của các tác giả là trạng ngữ thường kết hợp gián tiếp với vị ngữ hay vị từ. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Lộc cho rằng: “trạng ngữ chủ yếu kết hợp gián tiếp với vị ngữ hay vị từ thông qua một quan hệ từ nhất định. Khi kết hợp gián tiếp với vị ngữ hay vị từ, trạng ngữ có thể xuất hiện trong hai biến thể: biến thể có quan hệ từ và biến thể vắng quan hệ từ” [30, 352]. 7
  15. 1.1.1.4. Về cách phân loại chu tố và các kiểu chu tố (trạng ngữ truyền thống) Trạng ngữ được phân loại dựa vào các tiêu chí cụ thể khác nhau, trong đó cách phân loại của Nguyễn Văn Lộc vừa khái quát, vừa cụ thể. Tác giả dựa vào đặc điểm cấu tạo chia trạng ngữ thành: trạng ngữ được biểu hiện bằng danh từ (cụm danh từ), và trạng ngữ được biểu hiện bằng vị từ (cụm vị từ, cụm chủ vị) [30, 364]. Dựa vào phương thức kết hợp, có thể chia trạng ngữ thành: trạng ngữ kết hợp trực tiếp với vị ngữ, vị từ và trạng ngữ kết hợp gián tiếp với vị ngữ, vị từ (với hai biến thể có và vắng quan hệ từ) [30, 364]. Dựa vào khả năng cải biến, có thể chia trạng ngữ thành: trạng ngữ có khả năng cải biến vị trí và trạng ngữ không có khả năng cải biến vị trí [30, 364]. Dựa vào ý nghĩa, có thể chia trạng ngữ thành nhiều kiểu cụ thể khác nhau: trạng ngữ không gian, thời gian, nguyên nhân, mục đích, điều kiện, nhượng bộ, công cụ (phương tiện, phương thức), số lần hoạt động, tính chất, cách thức, phạm vi, phương diện, chỉ kẻ cùng tham gia hoạt động, hoàn cảnh, tình huống, kết quả, biểu thị ý "loại trừ” [30, 365]. Qua một số công trình nghiên cứu trên đây, có thể thấy mặc dù trạng ngữ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau nhưng việc nghiên cứu cách dùng trạng ngữ (mà về bản chất chỉ là chu tố hay thành phần phụ mở rộng từ do của vị từ) trong một tác phẩm cụ thể của một nhà văn vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu. Chọn đề tài: Các chu tố của động từ tiếng Việt (Trên cứ liệu Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan) làm đối tượng nghiên cứu khoa học, trên cơ sở tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu, chúng tôi mong muốn làm rõ hơn đặc điểm của chu tố với tư cách là thành tố phụ tự do của vị từ gắn với cách dùng của một tác giả cụ thể trong một tác phẩm văn học cụ thể. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ trong “Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan” Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy truyện ngắn của văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như một "bách khoa thư”, một "tấn trò đời” mà đặc trưng là xã hội thực dân 8
  16. phong kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Qua các sáng tác, ông đã chứng tỏ là bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Các tác phẩm của ông có sức hấp dẫn lớn đã thu hút được rất nhiều các nhà nghiên cứu. Tiêu biểu là các nhà nghiên cứu: Lê Thị Đức Hạnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Vương Trí Nhàn, Trương Chính, Nguyễn Đức Đàn, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Khắc Thuần, Trúc Hà , Thiếu Sơn, Hải Triều… Nguyễn Khắc Thuần khi Khảo sát cấu trúc câu văn truyện ngắn Nguyễn Công Hoan khẳng định: "Nguyễn Công Hoan đã sử dụng hầu hết các loại kiểu dạng cấu trúc câu trong tiếng Việt… Nguyễn Công Hoan sử dụng tài tình, linh hoạt, có hiệu quả loại câu ngắn, đặc biệt là những câu có từ năm chữ trở xuống. Lúc thì tác giả dùng liên tiếp tạo thành đoạn văn; lúc thì dùng độc lập ở đầu, ở giữa, hoặc cuối truyện; lúc thì phối hợp với câu dài ở trong cùng một đoạn văn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc đến mức trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan số lượng câu dài và câu ngắn tương đương nhau nhưng khi đọc truyện ngắn của ông, người đọc có cảm giác như trong truyện ngắn của ông câu ngắn trong truyện ngắn được dùng nhiều hơn câu dài. Chính câu ngắn đã tạo nên nét khác lạ về câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với tác giả khác”[50, 85]. Trong số các nhà nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan, nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh đã dành nhiều tâm huyết cho truyện ngắn của ông. Khi nhận xét về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan, tác giả đã khẳng định: "Văn Nguyễn Công Hoan khá gọn gàng, sáng sủa, thiết thực, linh hoạt. Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của quần chúng được chọn lọc và nâng cao, đậm hương vị ca dao, tục ngữ…chữ dùng của ông thường giản dị, giàu hình ảnh cụ thể hay so sánh ví von” [15, 201-202]. Tác giả còn cho rằng "Nguyễn Công Hoan luôn giữ cho lời văn, ngôn ngữ trong truyện trong sáng, chính xác mang bản sắc của văn hóa dân tộc” [15, 208]. Tác giả còn chỉ ra tính chất cá thể hóa sâu sắc trong ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Công Hoan: "Ngôn ngữ các loại nhân vật trong truyện của Nguyễn Công Hoan cũng mang sắc thái riêng, bộc lộ được tâm lí xã hội của từng nhân vật, trộn cũng không lẫn” [15, 117]. Nhà nghiên cứu còn so sánh sự khác nhau giữa văn phong của Nguyễn Công Hoan với các nhà văn hiện thực phê phán khác với nhiều nhận xét chính xác và tinh tế. 9
  17. Tác giả Nguyễn Thanh Tú khi nghiên cứu chất hài trong câu văn Nguyễn Công Hoan nhận xét: "Ngôn ngữ của nguyễn Công Hoan là thứ ngôn ngữ suồng sã. (…) Trong nội bộ câu văn của Nguyễn Công Hoan thường mang mâu thuẫn hài hước đối chọi ở bên trong. (…) Nhà văn có những lối ví von so sánh, độc đáo, những liên tưởng bất ngờ, thú vị. (…) Câu văn Nguyễn Công Hoan thường ngắn gọn (…) có sự tuân thủ phép lặp cú pháp vì mục đích nghệ thuật gia tăng sắc thái hài hước” [43, 209-215]. Trong bài "Lời văn mỉa mai trong Đồng hào có ma” tác giả đã chỉ rõ tài sử dụng ngôn ngữ suồng sã để "lật ngửa”, "lộn trái” đối tượng, tài sử dụng tổ chức lời văn nhằm mục đích mỉa mai, phê phán đối tượng. Trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm ngôn ngữ của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, tác giả Lò Thị Duyên đã nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật, đối thoại và độc thoại về đặc điểm từ vựng, cú pháp, các biện pháp tu từ. Tác giả cho rằng ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ trào phúng, châm biếm. Theo dòng thời gian, các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan càng được khám phá sâu hơn. Năm 2000, với luận văn thạc sĩ "Phương tiện tu từ nói mỉa trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”, Nguyễn Thị Hương Lan đã đề cập đến các dạng thức nói mỉa trên nhiều cấp độ văn bản: cấp độ từ ngữ trong câu, cấp độ đoạn văn, cấp độ văn bản… để rồi tạo nên những trùng lớp, góp phần quan trọng vào nghệ thuật trào phúng độc đáo, đặc sắc của Nguyễn Công Hoan. Năm 2001, Nguyễn Thanh Hương trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm tình huống đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, đã trực tiếp đề cập đến ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan nhưng ở phương diện tình huống đối thoại, tức là tìm hiểu tình huống ngữ cảnh của cuộc thoại dựa trên lí thuyết ngữ dụng học và phong cách học. Năm 2006, tác giả Lê Ngọc Hòa trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm cách xưng hô của các vai giao tiếp trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã khảo sát một cách có hệ thống lớp từ xưng hô trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, từ đó nêu bật mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa xã hội. Tác giả Hoàng Minh Hải với đề tài Các phương thức và đặc điểm gây cười qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan năm 2008 đã vận dụng lý thuyết hội thoại để nghiên cứu và chỉ ra đặc điểm của nghệ thuật gây cười và 10
  18. nguyên lý gây cười mang phong cách Nguyễn Công Hoan. Tác giả Trần Thị Thủy lại Đối sánh ngôn ngữ trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Đây là công trình so sánh đặc điểm ngôn ngữ trào phúng: so sánh tính chất trào phúng của ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong các tác phẩm thuộc hai thể loại khác nhau của hai nhà văn trào phúng bậc thầy của văn học Việt Nam hiện đại. Năm 2010, tác giả Hà Thị Tuyết trong luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của nguyễn Công Hoan. Tác giả Hoàng Thị Tố Quyên đã So sánh câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Thạch Lam về phương diện cấu tạo và biện pháp tu từ. Luận văn góp phần nêu ra những điểm tương đồng và khác biệt về câu văn trong ngôn ngữ truyện ngắn của hai nhà văn lớn. Tác giả Võ Thị Dung trong luận văn thạc sĩ Chức năng ngữ nghĩa của từ tình thái đứng đầu phát ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật nhất về mặt cấu tạo, sự hành chức cũng như ngữ nghĩa của các từ tình thái trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Năm 2013, trong Tạp chí văn học nghệ thuật, số 343, tác giả Thành Đức Bảo Thắng với bài Nghệ thuật khắc họa nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan cho rằng ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn trào phúng của ông có ba kiểu chủ yếu: người kể chuyện đối thoại với nhân vật, người kể chuyện đối thoại với độc giả và nhân vật đối thoại với nhân vật…Vận dụng sáng tạo và linh hoạt ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Công Hoan đã tạo mạch nối giữa tiếng cười dân gian và tiếng cười hiện đại…Ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan hướng tới phơi bày bản chất của con người, của xã hội bằng tiếng cười trào phúng giàu kịch tính. Đó là thứ ngôn ngữ chứa đựng yếu tố hấp dẫn, tạo được sự bất ngờ, lột trái hiện tượng, phơi bày mâu thuẫn hài hước… Ngôn ngữ giàu kịch tính xuất hiện nhiều trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan. Khi kết hợp với thủ pháp tăng cấp, tác giả đưa người đọc từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác và bật cười khi hiểu rõ câu chuyện. Năm 2016, tác giả Đặng Thị Thanh Hoa đã nghiên cứu Vai trò của đoạn một câu trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Đoạn một câu được nhà văn dùng với năm vai trò: nhấn mạnh; liệt kê; dẫn dắt mạch truyện, liên kết các tình tiết; phương tiện của phép tu từ vĩ thanh; liên kết các đoạn. 11
  19. Điểm lại một số công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan được soi chiếu từ nhiều góc nhìn và có không ít những lời bàn về ngôn ngữ trong tác phẩm của ông. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về Các chu tố của động từ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Có thể xem đây là lối ngỏ để tác giả luận văn có thể tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này. 1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn 1.2.1. Vài nét về lí thuyết kết trị 1.2.1.1. Khái niệm kết trị và kết trị của động từ Thuật ngữ kết trị (tiếng Nga: valentnost, tiếng Pháp: valence) vốn được dùng trong hóa học để chỉ thuộc tính kết hợp của các nguyên tử với một số lượng xác định các nguyên tử khác. Thuật ngữ này mới chỉ được dùng rộng rãi trong ngôn ngữ học từ cuối những năm bốn mươi của thế kỷ XX để chỉ khả năng kết hợp của các lớp từ hoặc các lớp hạng đơn vị ngôn ngữ nói chung. Theo cách hiểu hẹp thì kết trị chỉ là thuộc tính kết hợp của động từ hoặc một số từ loại nhất định. Bàn về kết trị của động từ, L. Tesniere trong cuốn "Các yếu tố của cú pháp cấu trúc” cho rằng động từ trong vai trò ngữ pháp truyền thống gọi là vị ngữ thực chất chính là thành tố hạt nhân tạo nên cái nút chính của câu. Với vai trò hạt nhân, động từ quy định số lượng và đặc tính của các thành tố có quan hệ với nó. Các thành tố này, xét theo mức độ gắn bó với động từ được chia ra thành diễn tố (actant) (thành tố bắt buộc) hay chủ ngữ và bổ ngữ truyền thống và chu tố (circonstant) (thành tố tự do) hay trạng ngữ truyền thống (Dẫn theo, [26, 26] ). Cùng bàn về kết trị của động từ, N.I.Tijapkina cho rằng kết trị của động từ được xác định dựa vào toàn bộ các mối quan hệ cú pháp có thể có đối với nó. Tác giả chia kết trị thành kết trị hạt nhân (kết trị bắt buộc) và kết trị phi hạt nhân (kết trị tự do). Kết trị hạt nhân (bắt buộc) là khả năng kết hợp của vị từ với các actant (diễn tố: gồm chủ ngữ, bổ ngữ). Kết trị tự do là khả năng kết hợp của động từ và các chu tố (circonstant). Nhà ngôn ngữ A.M.Mukhin cũng cho rằng ngoài khả năng kết hợp của động từ với các thành tố bắt buộc (diễn tố, actant), cần tính đến khả năng kết hợp của động từ với các thành tố tự do (chu tố, circonstant). A.M.Mukhin còn xác định các kiểu kết trị tự do như kết trị nguyên nhân, mục đích, phương tiện…(Dẫn theo [26, 29]). 12
  20. Với quan niệm dùng thuật ngữ kết trị theo cách hiểu rộng, M.D.Stepanova, kết trị được hiểu là khả năng kết hợp của các đơn vị ngôn ngữ cùng cấp độ, kết trị vừa là tiềm năng vừa là sự hiện thực hóa tiềm năng này, nghĩa là, kết trị đồng thời vừa là sự kiện của ngôn ngữ, vừa là sự kiện của lời nói (Dẫn theo [26, 29]). Các ý kiến nêu trên cho thấy rõ khuynh hướng phát triển của lí thuyết kết trị. Kết trị của động từ, theo cách hiểu hẹp, thường được xác định là thuộc tính kết hợp cú pháp bắt buộc của động từ, tức là khả năng của động từ kết hợp vào mình các thành tố bắt buộc của câu (các diễn tố, tức là chủ ngữ và bổ ngữ truyền thống). Theo cách hiểu rộng thì kết trị của động từ là toàn bộ thuộc tính kết hợp của động từ (gồm cả khả năng kết hợp từ vựng lẫn khả năng kết hợp cú pháp, cả khả năng kết hợp bắt buộc lẫn tự do, tức là khả năng kết hợp của động từ với chu tố hay trạng ngữ). Ở Việt Nam, lí thuyết kết trị lần đầu tiên được nghiên cứu có hệ thống trong công trình nghiên cứu Kết trị của động từ tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc. Tác giả đã định nghĩa về kết trị của động từ như sau: Kết trị của động từ là khả năng của động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy bởi những thành tố cú pháp (những thực từ) mang ý nghĩa bổ sung nhất định. Nói cách khác, kết trị của động từ là thuộc tính của động từ kết hợp vào mình những thành tố cú pháp bắt buộc, tự do. Thuộc tính kết hợp này hàm chứa trong ý nghĩa của bản thân động từ. Nó chính là sự phản ánh những đòi hỏi hoặc khả năng của động từ được cụ thể hóa về mặt nào đó [26, 34]. Kết trị của động từ được xác định theo số lượng các vị trí mở bao quanh nó còn bản thân các vị trí mở lại được xác định dựa vào số lượng các thành tố bổ sung (các kết tố) làm đầy các vị trí mở này. Như vậy, xác định và phân tích kết trị của động từ thực chất chính là xác định và phân tích các kết tố làm đầy các vị trí mở bên động từ [26, 35]. Trên cơ sở cách hiểu của các tác giả về khái niệm kết trị được trình bày trên đây, trong luận văn này, chúng tôi hiểu kết trị và kết trị của động từ theo nghĩa rộng. Kết trị được hiểu là thuộc tính kết hợp của các đơn vị ngôn ngữ cùng cấp độ. Ở cấp độ từ, kết trị theo nghĩa rộng được hiểu là thuộc tính kết hợp cú pháp của từ với tư cách là đại diện của các từ loại, tiểu loại. Kết trị của động từ theo nghĩa rộng là toàn bộ thuộc tính kết hợp cú pháp của động từ. Đó là khả năng của động từ tham gia 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1